ĐIỆP MỸ LINH
…
Diễn giả vừa dứt câu, tràng pháo tay vang lên. Diễn giả ngưng nói,
hơi mỉm cười, nhưng ánh mắt vẫn c̣n vương buồn, nh́n quanh hội
trường, tiếp:
“… Kể từ tháng Tư năm 1975 đến nay, ngoài những tai tiếng như băng
đảng, gian lận bảo hiểm, khai man để hưởng trợ cấp xă hội, v. v… tập
thể Việt-Nam tỵ nạn cũng đă tạo được nhiều thành quả lớn lao như
nuôi dạy và tạo dựng không biết bao nhiêu nhân tài; như hỗ trợ
chương tŕnh cứu người vượt biển; như giúp đỡ vật chất và an ủi tinh
thần những người tỵ nạn tại các đảo; như tiếp nhận và trợ giúp từng
loạt H.O. và O.D.P., v.v…
Trong tất cả mọi hoạt động nhân đạo để hàn gắn những đau thương của
cuộc chiến, dường như tập thể Việt-Nam tỵ nạn chưa phát động được
phương thức cứu trợ những người đă đích thực góp máu và một phần của
cơ thể của họ để giữ vững miền Nam Việt-Nam trong hơn hai thập niên.
Kính thưa quư vị, những người mà tôi đề cập chính là Thương-Phế-Binh
V.N.C.H. Quư vị đă xúc động mănh liệt khi thấy h́nh ảnh những đoàn
cựu sĩ quan Q.L./V.N.C.H. bị Việt-Cộng bắt lao động khổ sai trong
các trại cải tạo. Quư vị cũng đă phẫn nộ khi thấy những người tỵ nạn
c̣n kẹt tại đảo bị bắt đưa lên máy bay để ép buộc trở về Việt-Nam.
Vậy, quư vị nghĩ ǵ khi những người bị chiến tranh đoạt mất một phần
cơ thể, nay đă trở thành những kẻ ăn xin ngay trên chính phần đất mà
máu và một phần thịt xương của họ đă bồi đắp?
Đến đây, tôi nghĩ, có vị sẽ nghĩ rằng chiến tranh đă chấm dứt từ lâu
rồi, khơi dậy làm chi nửa! Tôi xin thưa, cứu đói Thương-Phế-Binh
V.N.C.H. không phải là khơi dậy những đau thương của cuộc chiến mà
chính là quư vị đang xoa dịu nỗi đau, đang hàn gắn phần nào những
tan tác, đang chia xẻ phần nào những tệ hại c̣n sót lại sau cuộc
chiến.
Nếu mỗi lần, sau khi chào Quốc Kỳ, hát Quốc Ca, quư vị dành một phút
mặc niệm để tưởng nhớ những người đă bỏ ḿnh v́ nước, đă liều chết
v́ Tự Do, th́, mỗi bữa ăn, xin quư vị hăy nghĩ đến những người đă hy
sinh một phần thân thể trong cuộc chiến để chúng ta được sống trọn
tuổi thơ, được ung dung cấp sách đến trường, được sum vầy với Cha Mẹ
và gia đ́nh. Và ngày nay, với cơ thể lành lặn, chúng ta được sống
đầy đủ dưới bầu trời Tự Do, c̣n những kẻ bất hạnh ấy đang khốn khổ
và bi hất hủi bên quê nhà.
Kính thưa quư vị, Việt-Nam là quê hương của chúng ta. Suốt hơn ba
thập niên qua tập thể Việt-Nam tỵ nạn đă đóng góp vào đất nước ấy
bao nhiêu tiền của rồi? Thế tại sao khi chúng ta về thăm quê hương,
chúng ta phải hối lộ, phải đút lót cổng này năm mươi đô-la, cửa kia
ba mươi đô-la, pḥng nọ hai mươi đô-la, v.v…th́ mọi việc mới êm xuôi
để chúng ta rời phi trướng? Trong khi đó, đối với những người đă hy
sinh một phần cơ thể cho chúng ta được sống toàn vẹn, tại sao chúng
ta nỡ để họ đói rách và tủi buồn bên cuối trời quên lăng?
Ngày xưa, Pháp đô hộ Việt-Nam, nhưng h́nh ảnh anh Thương Binh lại
nên thơ như trong bài Ngày Trở Về của Phạm-Duy: ‘Ngày trở về, anh
bước lê trên quăng đường đê đến bên lũy tre. Nắng vàng hoe, vườn rau
trước hè cười đón người về. Mẹ lần ṃ ra trước ao, nắm áo người xưa
ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt đă ḷa v́ quá đợi chờ…Ngày
trở về có anh thương binh chống nạn cày bừa, v́ thương yêu anh nên
ngày trở về có con trâu xanh hết ḷng giúp đỡ…’ Bây giờ, anh Thương
Binh V.N.C.H. không thể ‘bước lê trên quăng đường đê đến bên lũy
tre’, v́ anh Thương Binh đang lê lết tấm thân tàn trên hè phố, trong
nhà lồng chợ, trước các tiệm ăn hoặc bên những đống rác đầy ruồi bọ
để kiếm ăn! Miếng cơm của anh Thương Binh bây giờ không phải là ‘nắm
cơm ngon’ mà là vũng cơm thừa! Anh Thương-Phế-Binh đă ăn cơm thừa,
uống nước vũng th́ làm thế nào Anh có được ‘con trâu xanh’ để nó
‘hết long giúp đỡ’? Người Mẹ của anh Thương Binh cũng không ‘lần ṃ
ra trước ao nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ, tiếc rằng ta đôi mắt
đă ḷa v́ quá đợi chờ!’, v́ người Mẹ của Anh đă chết tại một vùng
kinh tế mới khô cằn nào đó!
Kính thưa quư vị, nói cho hết nỗi đau của tập thể Thương-Phế-Binh
V.N.C.H., tôi nghĩ, tôi chỉ có thể cảm nhận được chứ tôi không đủ
ngôn từ để diễn đạt. Nhưng tôi tin tưởng rằng, nếu ai đă từng chứng
kiến thảm cảnh của Thương-Phế-Binh V.N.C.H. khi các Anh bị Việt-Cộng
đuổi ra khỏi các quân y viện miền Nam, các Anh phải ḅ lê lết trên
những con đường quanh bệnh viện; và sau đó những Thương-Phế-Binh này
phải lây lất xin ăn hoặc moi rác để kiếm miếng ăn , th́ không ai là
người không hướng tâm về những nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến
tương tàn ấy cả! Tôi nghĩ, không một người nào ăn hạt cơm miền Nam,
uống ngụm nước bên này bờ Bến-Hải mà không chịu ơn Người Lính
V.N.C.H. và Thương-Phế-Binh V.N.C.H.
Chúng ta, tập thể Việt-Nam tỵ nạn, v́ t́nh cốt nhục, đă đổ mồ hôi,
bán sức lao động để giúp đỡ gia đ́nh, thân quyến và bạn bè bên nhà.
Chúng ta v́ ḷng nhân, đă dè xẻn gửi về biếu Thây Cô từng gói quà
nhân nghĩa. Chúng ta cũng không quên cứu giúp nạn nhân bị dịch tả
hoành hành trong trại tỵ nạn bên Phi-Châu; vậy, trước t́nh cảnh nát
ḷng của tập thể Thương-Phế-Binh V.N.C.H., chúng tôi tha thiết xin
quư vị - những người may mắn c̣n lành lặn sau cuộc chiến và quư vị
thuộc các ngành Nha-Y-Dược, Cục Quân-Y QL/V.N.C.H. - những người đă
hơn một lần hàn gắn những tàn tích ghê rợn của chiến tranh trên cơ
thể các Thương-Phế-Binh này, hăy nghiêng xuống để t́nh thương lênh
láng từ trái tim đầy rung cảm của quư vị, một lần nữa, nhểu từng
giọt nồng, làm ấm lại những tâm hồn vỡ vụn đang bị ḍng đời quên
lăng!...”
Đến đây, dường như đang bị xúc động mạnh, diễn giả ngưng lại. Cả hội
trường im lặng. Vài giây sau, cả hội trường như bừng tĩnh và tiếng
vỗ tay lại vang lên.
Từ hàng ghế thứ năm bên trái khan đài, như không nén được nỗi đau
trong hồn lâu hơn nữa, Mạnh hơi khom người đứng lên, đi ra ng̣ai.
Bên ngoài, không khí oi nồng của những ngày cuối Hạ như hắt từng cơn
nóng hừng hực vào làng da sạm nắng trên khuôn mặt xương xương của
Mạnh. Nh́n quanh băi đậu, từng hàng xe im ĺm như đang ngây nắng,
Mạnh thở dài, chưa biết phải làm ǵ để những lời đầy xúc cảm của
diễn giả bớt ảnh hưởng vào tâm lư của chàng. Mạnh rút điếu thuốc,
xoay người vào tường, bật hộp quẹt mồi lửa. Vừa bập bập điếu thuốc
Mạnh vừa bước dọc theo con đường chính trong ḷng phố thưa người của
một chiều chủ nhật.
Từ nhỏ, Mạnh thường nghĩ chàng rất “ch́”, không bao giờ bị t́nh cảm
chi phối. Vậy mà sau khi vượt biển sang Mỹ, mỗi lần nghe nhạc
Việt-Nam chàng chịu không nổi, cứ phải tắt đi, hoặc bỏ đi chỗ khác.
Chiều nay, khi nghe diễn giả khơi dậy niềm đau của chính chàng và
những quân nhân cùng cảnh ngộ, Mạnh cũng phải bỏ đi như trốn chạy.
Mạnh nghĩ nỗi đau của những người như chàng không những chỉ ở phần
cơ thể bị cắt xén mà c̣n do những “bất hạnh giây chuyền” tạo ra.
Thật vậy! Không ǵ đau đớn cho bằng khi tâm trí ḿnh c̣n sáng suốt,
trái tim c̣n dạt dào yêu thương mà đành thụ động nh́n những người
thân yêu nhất trong đời ḿnh từ từ t́m cách xa ĺa ḿnh!
Mạnh nghiệm ra rằng, không những chiến tranh đă hủy hoại một phần
thân xác của chàng mà chiến tranh c̣n khiến cho tâm hồn chàng yếu
đuối lạ lùng! Chính v́ mang tâm hồn quá nhạy cảm, nhiều khi không
chống nổi sự cô đơn, Mạnh ch́m vào cơn say để quên đi nỗi đau thầm
kín của chàng!
Nỗi đau của Mạnh khơi nguồn từ ngày mà những người trai miền Nam
miệt mài trong cuộc chiến do Bắc quân chủ xướng đều mong đợi. Đó là
ngày đ́nh chiến 27-01-1973. Mạnh và đồng đội đều hiểu hiệp định
ngưng bắn “da beo” là phi lư, đầy áp lực đối với quân nhân miền Nam
và chỉ có lợi cho phía bên kia; nhưng dù sao, trong một thời gian,
cũng giảm thiểu số thương vong cho cả hai phía.
Đối với đa số quân nhân miền Nam khi xung trận, tâm trạng của họ như
thế nào Mạnh không thể hiểu được. Nhưng riêng Mạnh, chàng xă thân
ngoài trận địa do bổn phận và trách nhiệm thôi thúc chứ không phải
được hun đúc bằng ḷng thù hận như Bắc quân, khắc vào người “sinh
Bắc tử Nam” hay là gào lên mỗi khi chào cờ “thề phanh thây uống máu
quân thù”! Sở dĩ Mạnh không nuôi ḷng thù hận những người bên kia
chiến tuyến là v́, Mạnh nghĩ, trong đoàn quân xâm lăng từ phương Bắc
thế nào cũng có Tuất – đứa em duy nhất mà Mạnh đă ĺa xa khi Mạnh
c̣n mang “tên cúng cơm” là Mùi.
Mùi nhớ rơ, năm ấy, Mùi đă khóc sưng cả mắt nhưng Mợ - Mẹ của Mùi và
Tuất - vẫn quyết định ở lại v́ Mợ ngại ông bà Nội và ông bà Nội
không biết nương tựa vào ai lúc tuổi già! Lư do Thân – Bố của Mùi và
Tuất – để Tuất ở lại v́ ông bà Nội sợ sau khi Ông Bà mất không ai để
tang, không ai nhan khói!
Từ ngày đó đến ngày hưu chiến cũng gần hai mươi năm, Mạnh không biết
ông bà Nội, Ngoại c̣n sống hay đă về tiên cảnh và Tuất có được dịp
chít vành khăn tang cho Ông Bà hay không; nhưng Mạnh biết chắc chắn
một điều là không thể nào Tuất được ở lại làng để lo nhang khói cho
Ông Bà, v́ ngoài Bắc không có đạo luật như miền Nam: Miễn dịch cho
những người con trai duy nhất c̣n lại trong gia đ́nh. Mạnh nghĩ,
Tuất, hoặc đă chết trên đường ṃn Hồ-Chí-Minh, hoặc đang có mặt
trong đoàn quân vượt vùng phi quân sự để vào đến bờ sông Thạch-Hăn
này. V́ nghĩ như vậy, cho nên, mỗi khi lính bắt được tù binh, Mạnh
thầm mong đó là Tuất để Mạnh biết Tuất c̣n sống và có ngày Tuất sẽ
được trao đổi tù binh chiến tranh. Cũng có khi Mạnh mong tù binh
không phải là Tuất để Mạnh tránh được cảnh đau ḷng khi thấy đứa em
vào tù mà chàng không thể can thiệp. Nghĩ quanh quẩn một klúc, Mạnh
cười lớn; bởi v́, dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, làm thế nào Mạnh có
thể nhận diện được Tuất khi mà anh em xa nhau đến ngần ấy thời gian!
Bây giờ sắp ngưng chiến, ḷng Mạnh cũng tạm yên, bớt áy náy, đỡ bức
rứt về đứa em không cùng chiến tuyến. Mạnh ngă người vào ba-lô, lấy
gói quân tiếp vụ tính mồi một điếu, nhưng Mạnh nghe thiệu thính viên
gọi nhỏ:
- “Ông Thầy”.
Mạnh hơi nhổm lên và thấy hiệu thính viên đang lom khom đến gần, th́ thầm:
- “Đại bàng trên máy, ông Thầy.”
Mạnh ấn nhanh gói thuốc vào lại túi quần, chụp ống liên hợp:
- “Đại bàng, đây Metro.” Tiếng đầu giây bên kia:
- “Giờ ‘nghỉ chơi’ sắp điểm. Kiểm soát ‘con cái’ của toa cẩn thận. Đề cao cảnh giác và tuyệt đối tuân hành lệnh ‘nghỉ chơi’” Mạnh đáp:
- “Nhận năm, Đại bàng.” Mạnh chuyển sang tầng số
nội bộ và truyền lệnh đến từng tiểu đơn vị.
Lệnh ngưng bắn chỉ vừa truyền đi trên đài phát thanh được vài phút,
Mạnh nghe nhiều tiếng reo ḥ, rồi một giọng Bắc nghe rất rơ:
- “Ngưng bắn dzồi, anh em ơi!”
Câu ấy được lập lại từ nhiều hướng khác nhau
khiến Mạnh nhận định được rằng đơn vị của chàng đang ở vào thế “cài
răng lược” với đơn vị địch. Mạnh rất yên ḷng, v́ “con cái” của
chàng đều im lặng, giữ nguyên vị trí.
Không gian quanh bờ sông trở lại tịch mịch, đầy căn thẳng và hồi
hộp. Bỗng một giọng Bắc lại vang lên:
- “Các anh Quốc-Gia ơi! Ngưng bắn d…z…ồ…i… Thích quá!”
Đơn vị của Mạnh vẫn im lặng. Một lúc sau lại có tiếng từ hướng khác:
- “Các anh Quốc-Gia ơi! Thèm thuốc quá! Cho một điếu.”
Sau nhiều lần lập đi lập lại những câu ấy mà vẫn
không được đơn vị “Ngụy” đáp ứng, Bắc quân im lặng.
Sáng sớm hôm sau, những lời kêu gọi như lúc khuya lại vang lên. Bất
ngờ Mạnh nghe giọng Nam, sắc và gọn:
- “Đứng lại!”
Mạnh chụp ống liên hợp, chưa kịp bấm nút để liên lạc kiểm sóat t́nh h́nh th́ đă thấy – cao khỏi những đọt tranh c̣n lóng lánh sương mai – lố nhố nhiều nón cối! Ngay tức khắc, Mạnh và hiệu thính viên chụp vũ khí cá nhân. Vừa khi ấy Mạnh nghe nhiều tiếng “đứng lại!” vang lên từ nhiều phía. Mạnh đứng bật dậy. Thấy Mạnh đứng lên, cả đơn vị của Mạnh cũng đứng lên, sẵn sàng trong tư thế cận chiến. Nhưng, đồng loạt, Bắc quân đưa cao tay vẫy vẫy:
- “Ngưng bắn dzồi. Anh em cả. Chúng tôi đâu có khí giới đâu. Đói và thèm thuốc quá, các anh ủng hộ tư.”
Những người lính miền Nam chất phát, đưa mắt nh́n nhau, khó xử. Bắc quân vừa từ từ bước đến gần vừa cười cười:
- “Các anh biết không? Mấy hôm nay đói meo, mỗi ‘nần’ các anh ăn, mùi đồ hộp thơm ‘nừng’, tụi này thèm quá!”
Thấy quả thật địch quân không mang súng, người
lính miền Nam cả tin, hạ ṇng súng, ùa đến bắt tay Bắc quân.
Sau vài phút vui mừng, lính miền Nam lấy thức ăn và thuốc trong
ba-lô tặng lính miền Bắc. Lính miền Bắc cười tở mở rồi “hồ hởi”
khui, ăn ngay tại chỗ. Có người hút hết điếu quân tiếp vụ do lính
miền Nam tặng rồi mới thong thả khui thức ăn, ăn. Vừa ăn lính miền
Bắc vừa nh́n từng đôi giày “sô” sờn gót, từng chiếc đồng hồ cũ kỷ
hoặc cặp kính mát được dắt hờ vào túi áo rằn ri của người lính
Thủy-Quân Lục-Chiến rồi trầm trồ một cách thèm thuồng:
- “Ôi Giời! Đồ đạc của các anh hiện đại quá! Cho sờ tư.”
Lúc này người lính miền Bắc trông ngây ngô, vui
thích và hiền lành như đàn cừu vừa t́m được cánh đồng cỏ non.
Bất ngờ một tiếng “sát!” vang lên! Nhanh và “ăn khớp” nhau như đă
thực tập nhuần nhuyển, những con cừu hiền lành ấy bỗng biến thành
đàn hổ đói vừa ngửi được mùi thịt tươi! Bắc quân phùng mang, trợn
mắt, vung dao găm, đâm túi bụi vào chính những người vừa cho chúng
ăn! Nhiều thây người gục xuống. Mũ xanh, nón sắt rơi ơ hờ cạnh gốc
tranh câm nín. Máu đỏ vẽ thêm những đường kỷ hà trên quân phục rằn
ri!
Vài tiếng súng rời rạc vang lên trước khi Mạnh đủ sức quay sang hiệu
thính viên, tính dùng ống liên hợp ra lệnh đừng bắn. Một tay ôm vết
thương nơi lồng ngực bên trái, một tay Mạnh cố sức hất thân người
của hiệu thính viên sang một bên để Mạnh xử dụng máy truyền tin. Vừa
khi ấy, một anh nón cối chạy ngang qua. Nghe tiếng máy truyền tin rè
rè, rẹt rẹt, anh nón cối dừng lại. Thấy Mạnh nằm nghiêng, đang áp
tai vào ống liên hợp trong tư thế liên lạc, anh nón cối hươi dao găm
lên, tính đâm vào lưng của Mạnh. Bất ngờ Mạnh ngẫng lên, ánh mắt đầy
thảng thốt. Khi ấy anh nón cối cũng vừa thấy trên cổ áo của Mạnh mỗi
bên alpha với 2 gạch đậm (Đại Úy) và một vùng máu đỏ đang nhuộm thắm
phần trên của túi áo, nơi có bảng tên Nguyễn Văn Mạnh.
Lần đầu tiên trực diện với sĩ quan VNCH, anh nón cối hơi lúng túng.
Nhưng thấy Mạnh bị thương, anh nón cối lấy lại b́nh tĩnh ngay. Anh
nón cối đá ngược vào mặt Mạnh làm Mạnh bật ngửa ra. Ngay lúc đó anh
nón cối đâm vào vùng bụng dưới của Mạnh và tiện tay, hắn xoay lưỡi
dao!
Mạnh quặn người, nghiến răng, dồn hết tàn lực vào đôi tay, chụp cánh
tay của anh nón cối, bóp chặt. Anh nón cối bậm bờ môi thâm ś, dùng
tay trái trợ lực, ấn dao găm sâu xuống, sâu xuống nữa. Trong nỗi đau
tột cùng, Mạnh nh́n anh nón cối bằng ánh mắt ngỡ ngàng đến khó hiểu
rồi buông tay, khép mắt!
Mạnh tỉnh lại khi chiếc trựa thăng mang dấu hồng thập tự là đà, sắp
đáp xuống. Mạnh cảm thấy ươn ướt nơi bờ môi. Mở mắt, Mạnh thấy y-tá
đang dùng bông g̣n thấm nước, rà quanh bờ môi khô nứt của chàng.
Thấy Mạnh tỉnh lại, y-tá dừng tay, giọng reo vui:
- “Ông Thầy! Ráng đi ông Thầy! Trực thăng tản thương tới rồi, ông Thầy.” Mạnh thều thào:
- “Con cái của tao bị nặng không?” Y-tá lắc đầu, tỏ vẻ thiểu năo:
- ”Tơi bời hoa lá, ông Thầy!”
Mạnh thở dài. Trước khi ch́m lại vào hôn mê, Mạnh c̣n nghe giọng bực tức của Cao, một hạ sĩ rất gan lỳ của đơn vị – cũng bị thương - hỏi một thương binh Việt-Cộng:
- “Đă có lệnh ngưng bắn, tại sao các anh c̣n tấn công chúng tôi?”
V́ thấy có sự hiện diện của vài tên Tiệp-Khắc trong ủy ban liên hợp bốn bên, chàng Việt-Cộng biết tính mạng của anh ta sẽ không đến nỗi nào cho nên anh ta phát ngôn không ngượng miệng:
- “Chúng tối tấn công các anh bao giờ? Vết thương nơi chân tôi ‘nà’ do đạn M16 của các anh bắn chứ có ai nghe hoặc thấy súng của chúng tôi nổ chưa? Các anh bắt tôi ‘nà’ các anh vi phạm hiệp định ‘Ba-Nê’. Chúng tôi sẽ ‘chanh’ đấu để đưa sự kiện này ‘nên’ ủy ban ‘niên’ hợp bốn bên.” Một quân nhân thều thào:
- “Cao!...Đang không, đ.m., sao mày dở nắp ống
cống lên chi vậy?”
Đă bao nhiêu năm qua rồi, nhưng mỗi khi nhớ lại câu nói này của một
đàn em, Mạnh vẫn phải cười v́ sự thâm thúy của chàng “lính thủy đánh
bộ”.
* *
Chiếc phản lực của hăng hàng không Northwest càng bay xa lục địa
Hoa-Kỳ bao nhiêu Mạnh càng cảm thấy bồi hồi bấy nhiêu. Mối t́nh cảm
này tương tự như tâm trạng của Mạnh dạo Mạnh vừa được phóng thích
khỏi trại cải tạo, đáp xe lửa về Nam.
Khi chuyến xe lửa vừa qua khỏi cầu Bến-Hải, nỗi buồn sâu kín không
biết từ đâu dấy lên ngập cả hồn chàng. Nghĩ ngợi một lúc Mạnh mới
t́m ra nguyên nhân gợi buồn là chiếc cầu Hiền-Lương! Ranh giới phân
chia đất nước đă được xóa đi trên bản đồ, cũng như hai vết sẹo nhăn
nhúm trên cơ thể của Mạnh đă lành lặn. Nhưng thử hỏi đến bao giờ
ḍng sông đẩm máu này mới thoát khỏi tính chất oan nghiệt của nó,
cũng như biết đến khi nào những tế bào nơi hai vết sẹo của Mạnh mới
trở lại trạng thái b́nh thường!
Khi xe lửa qua khỏi ga Tuy-Ḥa một chốc, Mạnh khóc lúc nào Mạnh cũng
không hay! Nước mắt của Mạnh bây giờ chỉ âm thầm lăn dài trên hai g̣
má trũng sâu chứ không tuôn trào cùng tiếng thét gào điên loạn của
thằng Mùi trong một đêm hăi hùng cách nay xa lắm.
Đêm đó, trên chuyến tàu từ Tuy-Ḥa về Nha trang, Mùi ngồi cạnh Bố,
nhớ lại hương vị của biển và những món ăn tuyệt vời mà người bạn gái
của Bố ở Tuy-Ḥa nấu đăi hai Bố con nhân dịp Mùi thi đậu trung học
đệ nhất cấp. Tội nghiệp Bố và người đàn bà đang muốn chiếm vị thế
của Mợ! Bao nhiêu tiền dành giụm, Bố và bà ấy đều vui thích và hănh
diện đưa Mùi đi may áo quần, mua sách vở, dày dép, chuẩn bị cho Mùi
làm “cậu tú” v́ Mùi quyết định “học nhảy” lớp đệ tam. Nghĩ đến sách
vở và quần áo mới, Mùi cảm thấy thương Bố quá, vỗ nhẹ vào vai Bố:
- “Bố! Mai mốt con học xong con cũng đi Biệt-Động-Quân giống Bố, nha, Bố?” Thân nghiêm giọng:
- “Bố mày! Cho mày ăn học để mày làm ông kia ông nọ chứ bộ để đi lính giống tao à?” Mùi ngây thơ:
- “Thế Bố muốn sau này con làm ǵ?” Có lẽ đă sắp đặt sẵn trong đầu từ lâu, Thân đáp ngay:
- “Làm bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thiếu ǵ nghề danh giá, con.” Mùi lắc đầu:
- “Nhưng con muốn đi lính cơ. Đi lính như Bố oai thấy mồ, ai thấy cũng phải chào.” Thân chấm dứt ước mơ của Mùi:
- “Thôi, về lo học hành, đừng nói nhảm.”
Hai Bố con im lặng được một chốc, bỗng xe lửa hăm nhanh tốc lực. Nhiều tiếng lao xao từ nhóm người đi buôn:
- “Rồi! Mấy ổng chận đường nữa rồi!”
Thấy vẻ hốt hoảng hiện lên mặt mọi người nhưng Mùi chẳng biết chuyện ǵ đang xảy ra. Bỗng Bố chụp cái xắc có bộ quân phục giấu kín trong ấy, liệng qua cửa sổ toa xe, trước đôi mắt ngơ ngác của Mùi. Thân nắm chặt tay Mùi, giọng lo âu, nói vào tai Mùi:
- “Coi chừng chúng nó bắt thanh niên đi theo
chúng nó. Có ǵ con cố chạy thoát, đừng để chúng nó bắt, nghe chưa?”
Lúc này Mùi mới lờ mờ hiểu và sợ.
Xe lửa dừng hẳn. Những người ngồi gần cửa bắt đầu nhốn nháo rời xe.
Những người ngồi bên trong cũng tuần tự đi ra. Tất cả đứng gom lại
nơi thửa ruộng khô. Sau đó, mấy người mặc đồ bà ba đen, tay xách đèn
lồng – không biết xuất hiện từ đâu – bắt đàn bà, người già và trẻ
con đứng riêng; đàn ông đứng riêng, rồi “đồng chí chính trị viên”
bắt đầu tuyên truyền.
Giữa lúc tinh thần mọi người bị chi phối và căn thẳng đến tột độ,
một tiếng hô “nghi…ê…m…” vang lên. Phản ứng tự nhiên của những người
lính chuyên nghiệp, Thân – cũng như những quân nhân khác đang mặc
thường phục – vội đứng thẳng, cụp hai chân vào nhau trong thế
nghiêm, th́ nhóm Việt-Cộng nhận ra ngay ai là lính. Việt-Cộng nhào
đến, bắt ngay những người ấy đứng riêng ra.
Trong khi Mùi run sợ, chỉ biết nh́n Thân lủi thủi tuân lệnh
Việt-Cộng th́ “đồng chí chính trị viên” điểm điểm ngón tay trỏ vào
toán lính V.N.C.H., mặt hắn xoay về nhóm thường dân, lên án:
- “Đồng bào thấy rơ, đây là những tên phản động,
tay sai của ngoại bang, mang tâm liếm gót giày bọn ‘sen đầm’ quốc
tế, phản lại dân tộc. Chúng nó đáng tội chết! Chúng nó phải đền tội
trước nhân dân!”
Nghe “chính trị viên” phát biểu, toán lính V.N.C.H. đưa mắt nh́n
nhau, ngầm hiểu rằng cuộc đời của họ chắn chắn sẽ kết liểu tại đây!
Đă vậy th́ liều! Thân hô lớn “Biệt-Động-Quân! Sát!” Như nghe
một mệnh lệnh khi xuất quân, những người lính V.N.C.H. vừa chồm tới,
t́nh ùa đại vào toán Việt-Cộng th́, ngay khi ấy, khẩu đại liên –
không ai biết Việt-Cộng đặt trên mui xe lửa từ lúc nào – quật từng
loạt đạn vào toán lính V.N.C.H. không khí giới, trước sự kinh hoàng
của mọi người!
Mùi hét lên:
- “Bố! Bố ơi! Bố!” và dợm người muốn chạy đến ôm xác của Thân; nhưng một người đàn bàn kéo Mùi lại:
- “Im! Mày muốn tụi nó giết mày luôn hả?”
Mùi hăi quá, nín thinh. Đến khi mấy người mặc đồ
bà ba đen thổi tắt mấy ngọn đèn lồng và biến vào bóng đêm, mọi người
mới ùa đến bên các nạn nhân. Mùi gục đầu lên xác của Thân và kêu
khóc thảm thiết. Người đàn bà lúc năy lại đến, ai ủi, dỗ dành Mùi.
Nhưng Mùi vẫn cứ khóc cho đến khi khan cả tiếng mới chịu lặng yên.
Mùi ngồi giậy, khoanh tay ṿng hai đầu gối rồi gục đầu lên, thút
thít. Thỉnh thoảng Mùi nh́n xác thân bê bết máu của Bố rồi quẹt nước
mắt!
Sau bao nhiêu biến thiên của cuộc sống, Mùi tưởng Mùi đă quên được
đêm kinh hoàng đó, nhưng không! Khi nhớ lại Mùi vẫn c̣n xúc động,
lặng lẽ lau nước mắt. Mùi thở dài! Từ một thằng Mùi côi cút, Mùi
lăng xả vào đời với tên mới – Mạnh – như ngầm nhắc nhở ḿnh luôn
luôn hướng về tương lai với tinh thần cứng rắn cộng với niềm tự tin
trong một cơ thể tráng kiện.
Nhưng, sau lần bị thương vào ngày ngưng chiến để người vợ trẻ của
chàng lặng lẻ ra đi – v́ h́nh hài của Mạnh đă mất khả năng thiên bẩm
của người đàn ông – Mạnh tự biết rằng niềm tự tin trong chàng không
c̣n nữa. Và giờ đây, sau bao nhiêu năm tù đầy ngoài Bắc-Việt, cơ thể
chàng c̣m cỏi, tâm hồn chàng ră rời, mất hết sức phấn đấu, Mạnh
không hiểu chàng c̣n lư do ǵ để hướng vế ngày mai! V́ nghĩ như vậy,
Mạnh nhận biết rằng, lẫn trong những ḍng nước mắt khóc Cha lần này
c̣n có những giọt lệ Mạnh khóc cho chính cuộc đời của chàng nữa!
Để ḷng bớt ngậm ngùi với quá khứ, Mạnh đứng lên, chồm ra cửa sổ,
hít vào buồng phổi luồng gió trong lành của Vịnh Đại-Lănh im ĺm. Xe
càng xa xứ “nẫu” bao nhiêu th́ nỗi buồn càng lui xa trong ḷng Mạnh
bấy nhiêu. Và cuối củng là khối t́nh cảm bồi hồi, xúc động âm ỷ nổi
lên trong ḷng Mạnh. Đến khi xe lửa dừng tại ga Nhatrang, khối t́nh
cảm ấy mới biến thành sự lạc lơng, sự cô đơn như dạo nào chàng và Bố
vừa rời tàu “há mồm” sau nhiều ngày rời bến Hải-Pḥng!
Ra khỏi ga xe lửa, Mạnh ngơ ngác, không biết về đâu; bởi v́ Mạnh lớn
lên và khởi sự binh nghiệp từ trường Thiếu-Sinh-Quân! Thấy nhiều kẻ
ăn xin bám theo hành khách, Mạnh chạnh ḷng, nhưng chợt nhớ số tiền
quá ít oi trong túi, Mạnh lắc đấu, nh́n lơ chỗ khác. Bất ngờ Mạnh
chú ư đến tấm thẻ nhựa nhỏ được gắn nơi ngực của một hành khất mù
đang ngồi im lặng cạnh mấy chiếc xích-lô, tay đưa gáo dừa ra xin.
Nh́n kỷ, Mạnh giật ḿnh. Tấm thẻ nhựa ấy là thẻ căn cước quân nhân
thời V.N.C.H! Mạnh bước đến, hỏi nhỏ: “Sao anh dám đeo căn cước quân
nhân? Anh không sợ à?” Người hành khất đáp:
- “Tôi c̣n ǵ để họ đầy ải nữa đâu mà sợ!” Mạnh lấy trong túi quần ít tiền, khom người, nhét nhanh vào tay người ăn xin:
- “Anh cầm tạm. Tôi không có nhiều.” Ngay lúc đó, một người ngồi trên Honda hỏi Mạnh:
- “Mới được thả về hả? Muốn về đâu?” Mạnh ngạc nhiên, đứng lên:
- “Anh hỏi tôi, phải không?” Người ngồi trên Honda cưởi:
- “Chứ hỏi ai nữa bây giờ! Anh nh́n quanh đây xem ai giống anh không th́ biết hà.” Mạnh ngần ngừ:
- “Tôi không có nơi nào để về cả. Số tiền c̣n lại trong túi tôi chắc chắn không thể nào đủ trả cho cuốc xe từ đây ra nghĩa trang Phật-Giáo.” Người ngồi trên Honda cười lớn:
- “Bộ không có chỗ nào về rồi ra nghĩa trang ngủ nhờ sao, cha nội?” Mạnh cũng cười:
- “Tôi muốn thăm mộ của Bố tôi.” Người ngồi trên Honda cho xe nổ máy, thúc:
- “Trời đất! Thôi, lên lẹ đi, cha.”
Trong khi cho xe chạy ra cầu Hà-Ra, người lái tự
giới thiệu là Vũ, cựu Mũ Nâu. Sau những chuyến xe thồ thường nhật,
trước khi về nghỉ, Vũ thích ghé ga xe lửa đón tù cải tạo mới được
tha, đưa họ về với gia đ́nh mà không nhận thù lao. Trường hợp của
Mạnh, v́ thấy nghĩa cử của Mạnh đối với người hành khất và hiểu hoàn
cảnh của Mạnh, Vũ xúc động, đề nghị Mạnh về ở tạm nhà Vũ, Vũ sẽ t́m
người cho Mạnh dạy kèm Anh văn, kiếm tiền…
Ḍng ư tưởng của Mạnh vừa đến đây, bất chợt giọng nhỏ nhẹ của cô
tiếp viên hàng không đưa Mạnh trở về thực tại:
- Thưa ông, ông dùng loại nước giải khát nào?
Phải mất vài giây Mạnh mới tỉnh hẳn để hỏi:
- Cô có các loại giải khác ǵ?
Sau khi cô tiếp viên kể tên, Mạnh cười và xin một ly Sprite. Vị ng̣n
ngọt, chua chua và cảm giác mát lạnh của vài ngụm Sprite đem đến cho
Mạnh sự dễ chịu và thoải mái. Nh́n ra cửa sổ phi cơ, Mạnh thấy từng
áng mây trắng xóa. Mạnh có cảm tưởng như chiếc phi cơ bay rất chậm.
Đôi lúc Mạnh tưởng như phi cơ đứng yên và mây trôi lặng lờ. Mạnh
nhận ra rằng, thân phi cơ, cũng như thân xác của chàng, so ra rất
nhỏ bé trong không gian bao la này.
Phi cơ lên cao, lên cao nữa và vượt khỏi nhiều tầng mây để Mạnh
thấy, phía trên phi cơ, bầu trời trong xanh như biển của những ngày
sóng lặng; và dưới lườn phi cơ, mây trắng kết liền nhau, trông như
cánh đồng tuyết. Cuối tầm mắt, bầu trời xanh và “cánh đồng tuyết”
tiếp giáp nhau trông như ṿng chân trời mà Mạnh thường thấy vào
những chiều lang thang trên bờ biển ở trại tỵ nạn Ga-Lăng.
Thời gian ở trại Ga-Lăng, tuy thiếu thốn, cô đơn, buồn nản nhưng
Mạnh không phải lo bị mất việc, không tiền trả bills; Mạnh cũng
không phải làm quần quật như từ ngày đến Mỹ.
Ở Việt-Nam, tŕnh độ Anh ngữ của Mạnh được kể là khá, dạy kèm học
sinh để kiếm sống và để dành tiền vượt biên. V́ vậy, Mạnh cứ hy vọng
khi đến Mỹ, Mạnh sẽ t́m được việc làm tương đối nhẹ nhàng và lương
khá. Không ngờ, khi đến Mỹ, Mạnh chỉ t́m được việc làm ở một body
shop.
Điều kiện làm việc trong hăng sửa xe này thật là kinh khủng! Mùa Hè,
ánh nắng chói chang từ cửa lớn hắt vào như muốn nung chảy vỏ bánh
xe. Mấy quạt máy kếch xù nơi mỗi góc nhà quay vù vù nhưng chỉ khuấy
động lớp không khí hừng hực nóng chứ có đem lại tư mát mẻ nào đâu!
Vào mùa lạnh, gió rít từng cơn trên mái tôn; gió lộng từng hồi hồi
vào cửa lớn. Mạnh mặc bên trong bộ đồ ấm bằng nỉ dày, bên ngoài đồng
phục xanh; vậy mà đôi khi cũng bị cóng tay, môi run lặp cặp. Những
lúc ấy, hai vết sẹo nhức buốt theo mỗi động tác đứng lên, ngồi xuống
của Mạnh. Vậy mà Mạnh cũng chịu đựng được biết bao nhiêu năm dài!
Khi một người bạn về Bắc thăm nhà, Mạnh nhờ người ấy t́m cách liên
lạc về làng xưa, t́m Mẹ và Tuất; v́ năm 1954 ra đi, Mạnh c̣n quá
nhỏ, không thể nhớ địa chỉ một cách chính xác. Cũng v́ lư do đó, khi
bị Việt-Cộng giải ra Bắc, Mạnh không thể liên lạc về gia đ́nh.
Sau khi người bạn giúp liên lạc được với bà Thân và Tuất, Mạnh phải
làm thêm việc giữ an ninh cho một nhà kho, vào cuối tuần, để có
phương tiện giúp Mẹ và Tuất. Lúc này Tuất đă có ba người con trai;
đứa lớn chết trận Việt-Cộng xâm lấn Cao-Miên. Hai đứa c̣n lại đă lập
gia đ́nh vẫn c̣n ở làng cũ.
Không thể nào Mạnh mường tượng lại được con đường từ làng ra tỉnh lộ
và từ tỉnh lộ về Hải-Pḥng. Nhưng Mạnh lại nhớ rơ cảnh đàn bà con
gái – theo chỉ thị của Việt-Minh (lúc đó Mùi không biết) – đứng dọc
hai bên đường, khóc lóc, kể lể, làm như thương yêu, tiếc nhớ đàn ông
lắm, cứ níu kéo, năn nỉ đàn ông ở lại! Mùi run quá, sợ mấy bà ấy kéo
Thân ở lại. Nhưng có lúc Mùi mong Thân bị kéo lại để Thân đừng đi,
và như thế, Mùi sẽ được ở lại với Mẹ. Nhưng Thân mạnh dạng hất tay
mấy bà ấy ra: “Thôi! Đừng làm tṛ khỉ!”
Thân và Mùi ra đi yên phần. Chỉ tội cho ông bà Nội, ông bà Ngoại,
không chịu rời nơi chôn nhau, cắt rốn cho nên về sau bị Việt-Minh
đấu tố đến chết, về tội điền chủ, cường hào, ác bá!
Suốt thời gian liên lạc được với Mạnh, bà Thân và Tuất chưa bao giờ
cho Mạnh biết sự thật về những cái chết đau thương của ông bà Nội,
Ngọai. Và Mạnh cũng chưa dám cho bà Thân và Tuất biết Việt-Cộng đă
dùng thủ đoạn đê hèn để giết ông Thân – v́ ngại thơ bị kiểm duyệt và
“nhà nước” sẽ gây phiền toái. Đến khi Mạnh về làng xưa, lần đầu tiên
chỉ có ba Mẹ con ăn cơm với nhau, tại nhà Tuất, bà Thân mới bùi ngùi
kể lại cho Mạnh nghe và Mạnh cũng có cơ hội thuật lại cái chết đầy
thương tâm của ông Thân.
Cái chết của ông Thân đă khắc sâu vào tâm khảm của Mạnh. Giờ đây lại
biết sự thật về bốn cái đại tang, Mạnh bàng hoàng, đau xót vô cùng!
Giữa khi gia đ́nh đang đau buồn, bất ngờ một anh công an phường xuất
hiện, đưa giấy, bảo mời Mạnh sáng mai lên phường “làm việc”. Mạnh
nh́n anh công an bằng đôi mắt mở lớn, đầy ngỡ ngàng, rồi dịu xuống,
như thầm trách.
Thấy ánh mắt của Mạnh, Tuất giật ḿnh. Ánh mắt ấy như dội vào tâm
thức để Tuất phải bận tâm, phải nghĩ ngợi.
Đêm đó, sau khi anh em nằm bên nhau trên chiếc phản, hàn huyên cho
đến gần sáng, Mạnh rơi vào giấc ngủ một cách dễ dàng. Riêng Tuất cứ
trằn trọc măi, không ngủ được v́ bị ánh mắt khó hiểu của Mạnh lúc
chiều ám ảnh. Tuất cố vận dụng trí nhớ để xem Tuất đă thấy ánh mắt
ấy ở đâu, vào dịp nào, nhưng đành chịu! Rồi Tuất hồi tưởng lại những
cuộc đụng độ dữ dội với quân miền Nam xem những nạn nhân của ṇng
súng, lựu đạn và mũi dao của Tuất chết như thế nào, và động tác của
mỗi nạn nhân trước khi chết ra làm sao! Nhưng v́ giết nhiều “kẻ thù”
quá, Tuất không thể nhớ được “kẻ thù” nào có ánh mắt lạ lùng đó!
Khi Tuất thiu thiu ngủ, ánh mắt ấy lại hiện về. Tuất không dám mở
mắt, cố tập trung tư tưởng v́ ngại ánh mắt ấy sẽ biến đi. Tuất thấy
sau đôi mắt dường như thấp thoáng loại quân phục có tích cách ngụy
trang của của lính miền Nam. Tuất vận dụng tâm trí nhiều hơn nữa và
từ từ nhận ra những đường kỷ hà màu xanh, nâu và trắng chen lẫn
nhau. Đúng rồi! Quân phục của Lính Thủy Đánh Bộ! Ô, lạ không! Tại
sao lại có alpha với 2 gạch đen bên mỗi cổ áo, vết máu tươi nơi ngực
trái và ống liên hợp kêu rè rè, rẹt rẹt?…Người Tuất toát mồ hôi.
Đúng là ánh mắt của “tên” đại úy “Ngụy” bị Tuất đâm chết cạnh máy
truyền tin, bên kia bờ sông Thạch-Hăn, vào hôm có lệnh hưu chiến!
Tuất nhớ dường như Tuất thấy bản tên của “hắn”. nhưng lâu quá Tuất
không nhớ tên ǵ!
Vừa khi ấy, Mạnh thức giấc, than nóng và đèn sáng Mạnh ngủ không
ngon giấc. Tuất tăng tốc độ quạt máy và khuyên Mạnh nên cởi áo thun
để ngủ cho mát. Tuất đến công tắc điện, có ư đợi Mạnh cởi áo thun
rồi mới tắt đèn. Nhưng khi chiếc áo thun trắng vừa vuột qua khỏi vai
của Mạnh, Tuất nhíu mày v́ thấy vết sẹo nơi ngực trái của Mạnh. Tuất
hỏi:
- Anh làm ǵ mà có vết sẹo dài thế?
Như suốt mấy ngày qua, với dụng ư không muốn nhắc đến quá khứ, Mạnh
đùa:
- Anh có cả…ngàn vết sẹo chứ phải một đâu, chú.
Biết Mạnh đùa, Tuất cũng đùa theo:
- Người có ngàn vết sẹo th́… “cái ấy” cũng mang sẹo rồi!
Hai anh em cười thành tiếng. Trong phút giây vui với đứa em mấy mươi
năm xa cách, Mạnh cảm thấy trẻ lại như ngày nào hai anh em ở truồng
tắm sông, cho nên quên giữ ư:
- Không phải ngay “cái ấy” mà gần gần thôi.
Tuất cũng vô t́nh, muốn kéo dài niềm vui:
- Đâu, đưa em xem nào.
Mạnh trật lưng quần đùi ra. Thấy vết sẹo màu nâu nổi cộm ở vùng bụng
dưới của Mạnh, Tuất hoảng kinh, đứng sững! Đầu óc của Tuất xoay ṿng
ṿng, muốn nổ tung! Ánh mắt lúc chiều, vết sẹo bên trái của lồng
ngực và vết sẹo ở bụng dưới…Lẽ nào! Tuất khổ sở, lắc đầu nhiều lần
rồi nghiêm giọng:
- Anh Mùi! (Tuy biết Mùi đă đổi tên, nhưng bà Thân cũng như Tuất,
đều muốn gọi Mạnh là Mùi; v́ tên Mùi nghe gần gủi, thân thiết với họ
hơn.) Hồi trước anh là Lính Thủy Đánh Bộ, đúng không?
- Anh đă dặn chú hoài. T́m hiểu làm chi những chuyện ấy?
- Thôi được. Em chỉ yêu cầu anh trả lời cho em một chữ “có” hay
“không” mà thôi. Chịu không?
Mạnh quen miệng “Okay”. Tuất hỏi:
- Ngày đ́nh chiến, đơn vị của anh có đóng ở bên kia sông Thạch-Hăn
hay không?
Mạnh hơi hoang mang về sự ṭ ṃ của Tuất, đành đáp “hàng hai”:
- Nếu chú cho anh biết lư do ǵ chú hỏi anh câu ấy th́ anh sẽ trả
lời.
Tuất không trả lời, vội tắt đèn và hấp tấp mở cửa trước:
- Thôi, gần sang rồi. Anh nằm nghỉ. Em đi có tư việc. Em sẽ về ngay.
* *
Sau khi nghe Tuất kể rơ câu chuyện, bà Thân lặng người một lúc rồi
thở dài:
- Tuất à! Bất cứ điều ǵ xảy ra trên đời đều do “duyên” và “nghiệp”
cả. Trường hợp của con và anh Mùi cũng chỉ là một trong muôn vàn
cảnh oái ăm trên đất nước điêu linh này. Con biết hối và biết thương
anh Mùi, thế là đủ.
- Nhưng làm thế nào con có thể sống với sự ray rức này, Mợ?
- Ư con muốn như thế nào?
- Con muốn nói thật với anh Mùi.
- Không nên, con à! Có bao giờ anh Mùi muốn nhắc chuyện cũ đâu. Vả
lại, bây giờ chỉ con và Mợ biết chuyện, Mẹ con ḿnh đau ḷng; nếu
anh Mùi biết nữa, chỉ thêm một người nữa đau ḷng chứ có giải quyết
được ǵ đâu, con thấy không?
- Nhưng con cũng có nhiều chuyện ấm ức, con muốn nói với anh Mùi.
Nhờ những lá thư ngày trườc Tuất thường gửi tay từ trong Nam về cho
Bà, bà Thân hiểu tâm trạng của Tuất. Bà đáp:
- Con có thể nói với anh Mùi những chuyện ấm ức đó. Nhưng, Mợ nghĩ,
con không cần phải nói với anh Mùi về lỗi lầm của con ở bên kia sông
Thạch-Hăn, vào hôm ngưng chiến!
- Vâng. Con hiểu.
* *
Trên chuyến xe lửa Thống Nhất, Mạnh và Tuất ngồi uống bia nơi toa
hàng ăn vào lúc xế trưa, vắng khách. Nh́n quanh không thấy ai khác,
ngoài người ngồi xa xa sau quày tính tiền, Tuất tiếp, giọng vẫn nhỏ
và đều:
- Trong hàng ngũ bộ đội, biết bao nhiêu thằng như em, nhưng v́ chỉ
sợ gia đ́nh bị trả thù cho nên ít đứa dám ra hồi chánh; trừ những
người miền Nam tập kết, v́ gia đ́nh họ ở miền Nam, họ không sợ. Bởi
thế, anh đừng tưởng ai ở ngoài Bắc cũng đều là Cộng-Sản cả đâu.
- Nếu anh nghĩ như thế, anh đă không về.
Ngưng một chốc, Mạnh tiếp:
- Dù sao th́ họ cũng là kẻ chiến thắng.
- Thắng mẹ ǵ! Hồi đó nếu Mỹ cho B52 “rải thảm” thêm một hai trận
nữa là bọn chúng đầu hàng vô điều kiện, cũng giống như Nhật hồi thế
chiến thứ hai rồi!
- Thế Tuất không hănh diện được có mặt trong đoàn quân chiến thắng
à?
- Hănh diện ǵ! Thời chiến, ngoại trừ con cháu bọn “chóp bu”, thằng
thanh niên miền Bắc nào khỏi vào bộ đội? Khi đă xung trận th́ giết
hoặc bị giết chứ có ai muốn thế đâu, anh.
Mạnh cười cười, liết chỗ xâm bốn chữ “sinh Bắc tử Nam” trên tay
Tuất. Hiểu Mạnh nghĩ ǵ, Tuất x̣e bàn tay, nh́n vào rồi bưng chai
bia, tu một hơi, tiếp:
- Anh đă thấy những thằng bộ đội bị xích chân vào xe tăng, vào thân
cây hoặc vào trọng pháo chưa? Đấy, vô nhân đạo thế ấy mà tụi bộ đội
vẫn phải để cho xích, huống chi xâm bốn chữ định mệnh này!
Mạnh bóp nhẹ tay Tuất. Tuất xoay ngược bàn tay, nắm tay Mạnh rất
lâu. Hai anh em đều yên lặng. Không phải đến bây giờ Tuất mới cảm
nhận được t́nh anh em ruột thịt nơi Mạnh; nhưng quả thật bây giờ
Tuất mới cảm thấy nhẹ nơi lồng ngực, v́ Tuất đă nói ra được phần nào
những điều ray rức trong ḷng chàng.
Tuất đứng lên, đến bên cửa sổ, nh́n mong ra vùng không gian bát
ngát. Cánh đồng xa xa lúa đă chín vàng. Từ lúc đó, trên chuyến tàu
theo Mạnh về Nam để cải táng hài cốt của ông Thân, ḷng Tuất thanh
thảng như những áng mây cuối trời./.
ĐIỆP-MỸ-LINH
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh