Thanh Thương Ḥang
Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái tṛ bắt người mà cộng
sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1
trước đó “đánh”tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và
người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị
bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em
vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa.
Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn
nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo
diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan
Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Ḥa.
Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ c̣n mươi người bị
quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến
trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử h́nh. Sau hai
năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ
sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật
khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.
Tưởng cũng nên kể ra đây tôi là người trong giới Văn nghệ đầu tiên,
mới nhập trại đă bị tống ngay vào “biệt giam”(cachot) khu B1, pḥng
11 trại Phan Đăng Lưu. Có lẽ họ tưởng tôi là nhân vật quan trọng, là
tay sai của CIA được dựng lên làm Chủ tịch Nghiệp Đoàn Kư Giả Việt
Nam hoạt động trong báo giới. V́ ngoài Bắc chức vụ này “to” lắm, do
đảng đưa ra và quyền hạn cũng như quyền lợi ngang bộ trưởng. Trong
cùng dẫy biệt giam khu B1 có những nhân vật tên tuổi như Thượng Tọa
Thích Huyền Quang, Thượng Tọa Thích Quảng Độ, Linh mục Đỗ Bác Ái,
Tiến sĩ Mai Văn Lễ (cựu Khoa trưởng Khoa Luật đại học Huế), Luật sư
Nguyễn Hữu Doăn, Luật sư Nguyễn Khắc Chính, Nhà Văn Doăn Quốc Sỹ,
Nhà báo Hồ Văn Đồng, Nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến, Nhà Văn Nhà báo
(nguyên dân biểu)Hồ Hữu Tường. Những người này lần lượt vào biệt
giam sau tôi 1, 2 tuần.
Đầu dẫy khu biệt giam buồng số 1 là “tướng phục quốc Nguyễn Việt
Hưng”. Tôi rất tiếc khi đó không biết nhiều về nhân vật này. Ông là
người đầu tiên cầm đầu một số dăm bẩy người trấn trong nhà thờ Vinh
Sơn (đường Trần Quốc Toản) đánh CS với vài vũ khí thô sơ, khi CS vào
Saigon mấy tháng. Sau đó ông bị CS xử bắn. Vụ “vùng lên”khởi đầu
chống đối CS này đă gây tiếng vang rộng lớn làm trấn động dư luận
khắp nước khi đó. CS phải điều động bộ đội công an cảnh sát vây hăm
quanh khu vực Nhà Thờ mấy ngày liền mới trấn áp được.
Tôi nghĩ chúng ta thật vô t́nh khi ở ngoài này, trải qua mấy chục
năm, không thấy một ai nhắc nhở tới ông (người được gọi là tướng
Nguyễn Việt Hưng mà dư luận khi đó đồn đăi là biệt danh của Tướng
NCK hoặc Tướng cảnh sát NNL ở trong mật khu lănh đạo cuộc chiến đấu
với rất nhiều “hồ hởi phấn khởi”). Theo tôi đây là người chiến sĩ
quốc gia can trường bất khuất, dám đứng ra chống CS ngay từ ngày
đầu, chúng ta nên tỏ bầy ḷng ngưỡng mộ và khâm phục.
Phía sau dẫy biệt giam B1 là dẫy biệt giam B2 có giáo sư Vũ Quốc
Thông, ông chủ nhiệm nhật báo Lẽ Sống Mới, Ngô Công Minh (vào đầu
năm 1975 làm phụ tá Tổng Trưởng Thông Tin), ông Tống Đ́nh Bắc,
Trưởng ty Công an nổi tiếng sát cộng Miền Tây, ông chủ Nhà sách Khai
Trí và một vài người nữa từng giữ chức vụ cao chế độ cũ.
Riêng ông Ngô Công Minh sau khi lên trại tù lao động Gia Trung với
chúng tôi hơn tháng th́ CS đưa ông đi nơi khác. Từ đó không ai biết
tin tức về ông. Có dư luận nói ông bị đem thủ tiêu v́ mấy tay tổ văn
nghệ, báo chí CS (từng quen biết ông trước kia) muốn cướp không ngôi
nhà lớn của ông ở Saigon và vàng bạc của cải. Theo tôi, ông không
phải nhà hoạt động chánh trị, chỉ là nhà báo thuần tuư nên không thể
bị sát hại v́ lư do chánh trị. Khi tù về tôi có ḍ hỏi tin tức ông
nhưng không ai biết một cách chính xác.
Trong thời gian “nằm” biệt giam tôi cũng có vài việc để nhớ xin kể
ra đây. Cứ mỗi tháng tù biệt giam được cho ra ngoài cắt tóc. Bọn
“thế nhân” chúng tôi tất cả đều bị “gọt” trọc đầu, kể cả vị Linh
mục, nhưng với hai vị Thượng Tọa Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ
th́ cai tù lại bắt để tóc. Hai cụ phản đối, cai tù thản nhiên:
“Đó là chính sách Nhà nước!”.
Việc thứ hai là v́ biệt giam mới làm chưa lắp ống dẫn nước nên mỗi
ngày chúng tôi chỉ được từ hai tới ba phút ṿi nước ở ngoài thọc vào
để làm vệ sinh. Tôi không biết nên thản nhiên chà xà bông gội đầu
(bằng xà bông giặt). Đang làm nửa chừng ṿi nước rút ra mặc cho tôi
nài nỉ. Báo hại đêm đó đầu tôi bị xà bông làm ngứa ngáy khó chịu
không tài nào nhắm mắt ngủ yên được. Cũng v́ “nước” tôi phải tự
“tranh đấu” với ḿnh măi mới nuốt xong phần cơm tù. Tôi chỉ có 2 cái
tô nhựa: một dùng đựng cơm, một dùng đựng canh. V́ phải chứa nước
làm vệ sinh (khi đi cầu) tôi nhịn tắm lấy nước chứa vào cái tô lớn
mầu xanh. Trong khi đi “làm việc” (hỏi cung) tôi viết mấy chữ bằng
bút ch́ dặn anh tù hành sự để cơm vào nửa tờ giấy báo cũ, c̣n canh
để vào tô nhựa mầu đỏ. Nhưng anh ta đổ hết nước trữ đi, để cơm canh
vào 2 cái tô và đặt ngay trên bệ cầu tiêu chưa được dội nước c̣n
nồng nặc mùi phân của ḿnh. Tôi ngồi hơn nửa tiếng đồng hồ nh́n hai
tô cơm canh muốn ứa nước mắt tự “tranh đấu” với ḿnh. Ăn hay nhịn?
Nếu ăn, khó nuốt trôi miếng cơm v́ tởm lợm. Nhưng nếu không ăn sẽ bị
đói tới trưa hôm sau. Tôi lại mắc chứng đau dạ dầy từ ngày CS chiếm
Saigon nên sẽ khốn khổ lắm. Cuối cùng tôi đành nhắm mắt nuốt vội
chút cơm canh lạnh ngắt với hai hàng nước mắt.
Tôi bị nhốt biệt giam hơn 10 tháng, vào một buổi sáng trời âm u,
được gọi tên mang đồ ra khỏi buồng giam. Phía chéo buồng giam, tôi
liếc nh́n thấy nhà văn Duyên Anh để mặt sát ô vuông cánh cửa sắt
pḥng giam tập thể hướng về phía tôi nói khá lớn:
“Nhớ ghé nhà tao nói với vợ tao…”.
Tôi chỉ nghe được tới đây th́ bị viên cai tù nạt nộ cấm nói. Th́ ra
Duyên Anh tưởng tôi được tha về nhờ tôi tới nhà nhắn tin vợ.
Khi đi đến trước sân “nhà khách” trại giam tôi thấy vài người quen
ngồi đó với đồ đạc cá nhân lỉnh kỉnh. Chúng tôi chỉ đưa mắt chào
nhau. Mấy phút sau họ điểm danh từng người xong c̣ng tay lại đưa lên
chiếc xe hơi bít bùng chuyển về cơ quan An ninh nội chính (Nha Công
an thành phố Saigon cũ đường Trần Hưng Đạo). Cùng trên chuyến xe có
tiến sĩ Mai Văn Lễ, thạc sĩ Vũ Quốc Thông, ông Tống Đ́nh Bắc và một
vài người nữa (giờ tôi quên mất tên). Trong lúc ngồi ngoài sân cơ
quan chờ làm thủ tục ǵ đó, các bạn tù của tôi bàn căi sôi nổi về dự
đoán chúng tôi được đưa lên đây làm giấy tờ tha. Có vị c̣n “cá” một
chầu ăn uống linh đ́nh ở Chợ Lớn. Rồi lần lượt từng người được gọi
tên đem hành lư đi vào pḥng…biệt giam!
Tôi được gọi tên sau chót (may mắn cho tôi v́ biệt giam hết chỗ(?) –
viên công an tiếp nhận tù nói vậy) nên được nhốt vào khu tập thể A
(làm từ thời Pháp). Gần 100 người đủ thành phần già trẻ lớn bé, tư
sản, chính trị gia, Linh mục, Mục sư, Thượng tọa, Đại đức, trộm cắp,
buôn lậu, nhốt chung trong một pḥng dài trên 10 mét, bề ngang nhỏ
hẹp, u tối, ẩm ướt, thiếu ánh sáng và khí trời. Pḥng có 2 “sàn”,
sàn trên cao khoảng một mét. Mỗi người được cấp manh chiếu rách cáu
bẩn, nồng nặc mùi chua mồ hôi người tích tụ lâu năm đă kết thành
“cao”.
Ở trên tôi nói may mắn không phải vào lại biệt giam v́ mấy tháng sau
anh Mai Văn Lễ được thả khỏi biệt giam vào pḥng tôi kể cho nghe
thảm cảnh trong buồng biệt giam anh đă “chết trong cơi sống” mấy
tháng qua. Buồng biệt giam Sở An ninh nội chính được xây từ thời
Pháp thuộc có tuổi đời trên mấy chục năm. Tường bẩn thỉu lam nham
dầy cáu bẩn đen đúa, sàn xi măng ẩm ướt quanh năm. Mùi mồ hôi, mùi
phân nước tiểu người tích tụ bao năm tạo thành một thứ mùi hôi hám
khó tả, ngửi phải muốn nôn ọe ngay. Khủng khiếp nhất là cái cầu tiêu
đă nứt nẻ và vỡ nhiều mảnh, mỗi khi trời mưa nước từ trong lỗ cầu
dâng lên tràn lan khắp buồng với những cục phân chưa tiêu hủy. Nếu
mưa lâu khoảng một giờ nước cầu tiêu dâng ngập buồng giam hơn gang
tay, tù chỉ c̣n biết đứng dựa vào tường chờ cho nước rút hoặc ngủ
đứng. Và khi nước vừa rút hết, sàn si măng c̣n ẩm ướt, tù mới ngả
lưng nằm th́ một hai chú chuột cống khá to, lông lởm chởm ghẻ lở
khắp ḿnh trông dơ dáy khủng khiếp chui lên từ miệng cầu, thản nhiên
gặm bàn chân tù, đạp đuổi nó cũng cứ gan lỳ không chạy! Có lẽ từ lâu
nó sống bằng xương thịt tù bị chết chưa kịp mang đi. Anh Mai Văn Lễ
kết luận:
“Đúng là tầng chót địa ngục trần gian, có một không hai trên thế
giới!”.
Tôi được biết Linh mục Hoàng Quỳnh, người lănh đạo giáo dân khu Bùi
Chu Phát Diệm nổi tiếng chống CS bằng vũ lực hồi c̣n ngoài miền Bắc.
Linh mục bị bắt từ ngày đầu tháng 5. 1975, bị giam và chết trong
“tầng chót địa ngục trần gian” này. Khi họ đem xác Linh mục đi trên
cái băng ca, thân thể teo tóp gầy đét bé nhỏ như đưá trẻ lên 10.
Sau hai ngày đêm 15 chiếc xe vận tải lớn, trước đây dùng chở heo,
chở mấy trăm tù ngồi bó gối trên sàn xe chật cứng nhúch nhích cánh
tay cũng không được. Với bao gian khổ đói khát trên con đường dài
mệt lả người, chập choạng tối chúng tôi tới trại tù lao động cải tạo
Gia Trung (thuộc tỉnh Pleiku) nằm trong khu rừng núi hoang vu. Nghe
nói nơi này khi trước là mật khu của CS. Trại Gia Trung lúc bọn tôi
tới đă có 3 trại giam, mỗi trại cách nhau khoảng cây số. Trại nào
cũng đầy nhóc người: từ 700 tới 1000. Tù đa số là các viên chức cấp
nhỏ, địa phương quân, nhân dân tự vệ và đông nhất vẫn là tù hành sự
từ các nơi đưa tới, có án hoặc chưa có án. Có cả tù chưa đến 10
tuổi, đói quá liều ăn tô bún riêu ở chợ không tiền trả bỏ chạy bị
bắt.
Những nỗi đói khổ nhục nhă, sống cuộc đời trung cổ, sách báo đă nói
nhiều từ hơn 30 năm, tôi xin miễn kể ra đây. Sự khổ sở nhục nhă
chúng tôi c̣n có thể chịu đựng được. Nhưng cái khủng khiếp nhất đối
với chúng tôi là sự vô vọng ngày trở về đoàn tụ với gia đ́nh, với
đời sống ngoài xă hội. Bọn cai tù bắt chúng tôi “học tập” chính sách
Nhà nước là đem vợ con lên vùng đất tù đầy này cuốc đất trồng khoai
sinh sống (như ngoài Bắc đă thực hiện). Tất nhiên chúng tôi không
thể làm theo họ. Chúng tôi sẵn sàng hy sinh đời ḿnh chứ không thể
để vợ con đă khốn khổ ngoài đời lại phải gánh thêm cảnh tù đầy.
Trong những năm tháng không tên dài dằng dặc như bao thế kỷ sống như
cây cỏ như súc vật, chúng tôi hết cả hy vọng hết cả chờ mong th́ có
những tin tức như những làn gió mát mang theo hơi sống tới: tin đồn
về chương tŕnh HO, người Mỹ sẽ cứu chúng tôi đem sang Mỹ. Trong
thời gian này các con tôi gửi thư cho tôi nói bóng nói gió là hai
hội Văn Bút Quốc Tế và Việt Nam đang ráo riết can thiệp vận động cho
anh em cầm bút chúng tôi. Và các con tôi cũng báo tin có nhận được
“quà” của hai hội gửi. Thời gian này bọn tù chúng tôi “hồ hởi phấn
khởi” lắm. Chỗ nào cũng bàn tán về chương tŕnh HO (mỗi người tán
một kiểu toàn có lợi cho ḿnh) với bao hy vọng tốt đẹp. Và chúng tôi
cũng hết lời ca ngợi Tổng Thống Carter – vị ân nhân vĩ đại – sẽ lập
cầu Không vận đưa chúng tôi từ VN qua Mỹ sống một đời ấm no tự do
tươi sáng. Tôi cũng nghe nói tới tên một bà lúc ấy c̣n rất xa lạ với
chúng tôi: bà Khúc Minh Thơ. Biết bao giai thoại đồn đại thêu dệt về
bà được dựng lên. Qua câu chuyện và lời b́nh luận của anh em tù, tôi
có cảm tưởng bà Khúc Minh Thơ như một bà tiên đang cầm cây đũa thần
giúp chúng tôi từ vực thẳm lên. Rồi ngày tháng tiếp tục lặng lẽ trôi
qua, tất cả mọi việc vẫn như cũ không có biến chuyển ǵ xẩy ra,
chúng tôi lại tiếp tục buồn nản thất vọng lê cái thân tù đầy ṃn mỏi
héo hắt trong quốc nạn khổ sai. “Mong nhưng không đợi không chờ” như
câu thơ của Giáo sư Vũ Quốc Thông làm và đọc cho tôi nghe.
Sau gần 10 năm thân thể ră rời hư hao chỉ cỏn bộ da bọc xương, tinh
thần suy sụp chán nản chẳng c̣n ǵ để mong để chờ và cũng hết cả
“cú” tha bất ngờ th́ anh Doăn Quốc Sỹ được gọi tên tha, năm sau anh
Hồ Văn Đồng rồi thời gian sau nữa là giáo sư Vũ Quốc Thông. Những
người này được tha về làm sự hy vọng tưởng tắt ngấm trong chúng tôi
lại lóe lên, dù là ở cuối đường hầm mù mịt.
Có lẽ do nguồn từ gia đ́nh kư giả Cao Sơn lên thăm nuôi nói đài VOA
vừa loan tin tôi và họa sĩ CHÓE (Nguyễn Hải Chí) hiện bị giam tù ở
trại Gia Trung, Pleiku. Thế là ầm cả trại đến nỗi viên quản giáo đội
tôi cũng ṭ ṃ hỏi anh tù nấu nước có biết tôi không và hiện ở đội
nào (v́ đài VOA chỉ loan bút hiệu của tôi nên anh ta không biết).
Báo hại tôi từ khi có tin này không được tự động đi gánh phân người
từ trại ra ngoài đồng nữa. phải về đội cuốc đất chặt cây đào mương
như mọi anh em tù khác. Gánh phân tuy có vất vả bẩn thỉu hôi hám mất
vệ sinh thật nhưng chỉ nửa buổi là “thanh toán” xong các hố xí. Thời
gian c̣n lại thoải mái xuống suối tắm giặt và đi “va tạt linh tinh”
kiếm củ khoai ḿ hay vài cọng rau lang “cải thiện”cho “ấm” cái bụng
thường trực rỗng. Nếu tôi nói đă hơn một lần “tự động” ăn…phân
người, có lẽ nhiều người không tin cho là tôi nói quá để kể khổ thân
phận tù đầy dưới chế độ cộng sản.
Lần thứ nhất quăng hơn 10 giờ, tôi vừa đói vừa khát ghé vào chỗ cḥi
đun nước uống của đội để uống nước. Anh bạn được phân công đun nước,
nguyên đại úy cảnh sát quốc gia, vốn quư mến tôi, thấy tôi đến, anh
mắt nh́n chỗ khác nhưng miệng nói nhỏ:
“Bác đi tới phía bụi cây bên trái”.
Tôi biết là “có ǵ” rồi. Tới nơi nh́n vào trong bụi cây tôi thấy nửa
trái dưa chuột nhỏ. Tôi cầm lên bỏ vào miệng nhai liền. Có lẽ trong
đời tôi chưa bao giờ ăn miếng dưa chuột ngon đến thế (tôi vốn không
thích ăn dưa chuột). Vừa nuốt xong nửa phần dưa chuột tôi chợt nhớ
ra, ngừng nhai, tiến lại chỗ anh bạn đun nước, nói:
“Này ông ơi, có phải trái dưa này “tẩm” phân người?”.
Anh bạn gắt nhẹ:
“Đă bảo, bác cứ ăn đi, không chết đâu mà sợ!”.
Nghe anh bạn nói, tôi biết ḿnh đă lỡ ăn rồi (hơn nữa cũng tại đói)
nên tiếp tục cố nhai và nuốt nốt phần dưa chuột c̣n lại.
Nguyên do thế này. Trong vườn ươm giống của đội trồng rau có một dàn
dưa chuột. Khi dưa mới kết trái to hơn ngón tay đă bị tù (và cả cai
tù) hái trộm ăn hết nên ban giám thị trại tù ra lệnh lấy phân tươi
của người ḥa với nước rồi hàng ngày quết vào những trái dưa chuột
cho hết bị trộm. Nhưng tù vẫn hái trộm ăn sau khi rửa sơ qua. Thế là
lần thứ nhất tôi ăn phân người.
Lần thứ hai th́ chính do tôi (và mấy ông bạn) chủ động ăn phân
người. Tôi và mấy “đồng sự” được “bố trí” dọn phân cầu tiêu các
pḥng giam. Một số anh em tù h́nh sự ra ngoài đồng làm việc đă hái
và ăn tươi nuốt sống các trái bắp. V́ ăn trộm nên không kịp nhai (sợ
cai tù thấy) các bạn tù h́nh sự cứ thế mà nuốt. Bắp già hạt cứng dạ
dầy không tiêu nổi, hôm sau đi cầu ra nguyên cả hạt. Chúng tôi lúc
đầu c̣n sợ bẩn sợ hôi và bệnh nhưng sau khi sôi nổi “bàn thảo”,
chúng tôi đi tới việc lấy những hạt bắp này đem ra suối rửa, luộc
hai ba lần cho hết mùi hôi rồi ăn một cách ngon lành thoải mái!
Nhiều bạn tù biết chuyện cũng xin ăn ké. Tôi được “ấm bụng” ít ngày
th́ bị “ngưng công tác” (v́ tin đài Voa loan?). Đó là hai dấu ấn
khủng khiếp trong trại tù cho tới ngày hôm nay, mỗi khi nghĩ tới tôi
vẫn không khỏi rùng ḿnh tự hỏi không hiểu sao ḿnh lại có thể “ghê
gớm” đến thế!.
C̣n một chuyện nhỏ nữa mà tôi cũng khó quên. Tôi vốn bị quy kết “học
tập cải tạo” xấu, tư tưởng không ổn định và trây lười lao động nên
thường xuyên bị ăn 13 kư một tháng (5 kư gạo, 8 kư khoai ḿ – nhưng
bọn cai tù và bọn nhà bếp đồng lơa ăn chặn mất 2 kư gạo nên chỉ c̣n
3 kư).
Trong 7 năm sống ở trại Gia Trung tôi được gia đ́nh “thăm nuôi” có 3
lần. Đáng nhớ nhất là lần 2 con tôi (c̣n vị thành niên: một trai 15
tuổi và một gái 13 tuổi) đi xe đ̣ hơn ngàn cây số lên thăm Bố với
gói quà khoảng 10 kư. Khi đến cây số 25 (quốc lộ 1 th́ xuống xe, lúc
đó là 2 giờ đêm. Trời rất lạnh lại ở chốn rừng thưa hoang vắng không
biết đường vào trại, hai anh em phải ngồi dựa lưng vào nhau chờ sáng
trong ḷng vừa sợ vừa lo mọi thứ, nhất là với thú dữ và kẻ cướp.
Sáng hôm sau tôi được gọi thăm nuôi. Tôi cố làm nét mặt lạnh lùng vô
cảm để tránh trận nước mắt của hai con tôi khi nh́n thấy thân thể
tiều tụy ṃn mỏi hết sinh lực của bố chúng. Như đă viết ở trên v́
tôi học tập cải tạo xấu lao động kém nên chỉ được nhận 2 kư đồ thăm
nuôi. Tôi nh́n thấy một gói bột trắng khoảng 1 kư, tôi tưởng là bột
gạo hoặc bột sữa nên lấy gói này và 1 gói xả xào mắm ruốc vừa đủ 2
kư. Hai con tôi đứng trước cửa nhà thăm nuôi nh́n theo, tôi biết
chúng đang khóc nhưng không đủ can đảm quay lại nh́n, tôi sợ không
cầm được nước mắt và ̣a khóc. Tôi nghe tiếng con gái tôi nói trong
nước mắt: “Bố ráng giừ ǵn sức khỏe để c̣n sống trở về với các con”.
Vào tới buồng tôi mở ngay gói bột ra pha nước vào cái tô nhựa và
ngoắng cho tan bột. Bột bị ngoắng sủi bọt lên trắng xoá. Đang đói
đang khát tôi đưa lên miệng uống liền một ngụm lớn. Nhưng chất bột
vừa trôi vào cổ họng, thấm vào lưỡi đắng chát và nóng rát, không có
mùi vị ǵ có thể gọi là sữa cả, dù là sữa quá “đát”, tôi muốn nôn ọe
vội nhổ ra ngay. Th́ ra đó là sà bông bột (mà tôi cứ đinh ninh là
bột gạo hay bột sữa). Kể lại cho anh em trong trại nghe ai cũng ôm
bụng cười. Hai con tôi thật ngây thơ đem sà bông bột cho tù giặt
quần áo!
Sau này tù về tôi mới biết hai con tôi cũng vô cùng khốn khổ trong
chuyến về này. V́ xe đ̣ hết chỗ chật cứng, chủ xe bảo hai con tôi
muốn đi th́ lên mui xe mà “nằm”. Bát đắc dĩ chúng phải làm theo. Mấy
lần suưt chết khi xe chạy qua nhưng cái “cầu” thấp nhỏ bắc ngang
đường, chỉ sơ sẩy một chút là bị vướng gạt ngă xuống đường chỉ có
chết, nếu không th́ cũng vỡ đầu gẫy chân tay.
Đầu năm 1985 tôi bất thần được gọi tên tha về cùng một số anh em
quân nhân. Ngoài tôi không có thêm tên anh bạn văn nghệ sĩ nào. Các
anh mừng cho tôi th́ ít, lo lắng chán nản thất vọng cho ḿnh th́
nhiều. Viên quản giáo trở nên tử tế với tôi, gă chạy vào pḥng nói:
“Mừng cho anh nhé. Có thuốc men ǵ cho tớ xin”.
Tôi cho gă mấy viên thuốc cảm, gă đ̣i lấy hết nhưng tôi không cho để
cho anh em tù nghèo không thăm nuôi.
Trại tù phát cho chúng tôi 50 đồng tiền đi xe, trong khi giá xe về
Saigon 150 đồng. Đi bộ từ trại tù ra tới quốc lộ 25 gần 5 cây số.
Chúng tôi phải nài nỉ măi bà chủ xe đ̣ mới “thông cảm” lấy 50 đồng.
Xe đày nhóc người ́ ạch chạy như rùa ḅ trên con đường ṿng vèo dốc
núi cheo leo đầy bất trắc, nguy hiểm. Tôi và ba anh tù đi cùng
chuyến xe không một đồng bạc dính túi, phải nhịn đói nhịn khát hai
ngày đêm liền cho tới khi về tới nhà ở Saigon. Một anh có “sáng
kiến” đem bộ quần áo tù mới tinh được trại tù phát khi tha, gạ bán
cho mấy người trên xe để lấy tiền ăn, nhưng đều bị từ chối v́ ai
cũng sợ xui khi mặc đồ tù.
Rời nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn sống mấy năm th́ “phong trào HO” nở rộ
và tên tuổi bà Khúc Minh Thơ được anh em tù về hết lời ca ngợi công
đức. Bà là ân nhân của tù cải tạo. Tôi v́ nghèo, tiền ăn không có
lấy đâu ra vàng đút lót hối lộ để được đi HO. Nhưng nghe theo lời
các bạn đồng nghiệp cũ may mắn thoát sang Mỹ trước, viết thư về
khuyên tôi cứ đến đường Nguyễn Du nộp đơn kèm theo những giấy tờ can
thiệp (từ trước tới nay) của các tổ chức như Hội Văn Bút Quốc Tế,
Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Liên Đoàn Kư Giả Quốc Tế, Hội Nhân
Quyền…v…v…
Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ
xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức
hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát:
“Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không
có súng ống đâu c̣n đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một
cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đă làm trước
đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”.
Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành
sống kiếp mạt rệp – một thứ công dân hạng bét – ngay trên quê hương
đất nước ḿnh. Nhưng tới cuối năm 1998 tôi được anh bạn nhà văn
Hoàng Hải Thủy từ Mỹ gửi thư về báo cho biết tôi và Nhà văn Uyên
Thao được bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Bảo Vệ Gia Đ́nh Tù Nhân
Chính Trị Việt Nam đă tận t́nh can thiệp với Bộ Ngoại Giao Mỹ để
chúng tôi được sang Mỹ định cư. Chính Hoàng Hải Thủy sốt sắng giới
thiệu hai chúng tôi với bà Khúc Minh Thơ và cộng tác mật thiết với
bà trong công việc vận động. Con đường hy vọng, con đường sống, lại
mở rộng trước mắt tôi.
Buổi tối ngày 18 tháng 5 năm 1999 tôi lên máy bay giă biệt quê hương
tăm tối sang Mỹ định cư. Tôi lại được sống lại dưới bầu trời tự do
dân chủ như tại Miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Tuy nhiên nhiều
đêm vẫn giật ḿnh thức giấc v́ những ám ảnh năo nề thê thảm khốn
cùng của những năm tháng tù đầy.
Thanh Thương Hoàng
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh