DTDB
Gia đ́nh tôi rời bỏ nước Cộng sản Việt Nam, nơi sanh ra và lớn hơn
nửa đời bên đó! Chúng tôi bôn đào bằng thuyền chài để t́m tự do như
bao nhiêu dân Việt sau 30 tháng 4 năm 1975, ngày Cộng sản và Việt
cộng cưỡng chiếm miền Nam.
Cùng số phận những người chung chuyến hải hành, chúng tôi ra đi có hai vợ chồng và hai đứa con, gái lớn 6 tuổi, trai kế 5 tuổi. Nửa tháng lênh lênh trên biển cả, nhờ Ơn Trên cuối cùng rồi cũng tấp được vào đất liền của nước Mă Lai.
Những tưởng đă được cứu, nhưng hai ngày sau tàu chúng tôi bị kéo bỏ ngoài hải phận… Nhưng họ cũng c̣n có ḷng cho một ít lương khô, và chỉ đường để đi đến một nước khác! Chuyến hải hành gian nan nối tiếp nầy thiệt thừa chết, thiếu sống cho một chiếc tàu sắp hết xăng dầu, sức người đă cạn, và niềm hy vọng cũng gần vỡ tan!
Đêm bị kéo bỏ ngoài hải phận, trên trời cao mây đen che phủ không thấy một ánh sao. Sóng gió dập dồn, mưa như thác đổ và biển gầm gừ cuồng nộ như muốn nuốt trọn con tàu. Lúc bấy giờ những thuyền nhân chúng tôi hồn ai nấy giữ, con Chúa cầu Chúa cứu, con Phật xin Phật hộ độ cho trận cuồng phong bảo biển lắng xuống… Thuyền lao đao nghiêng trèo trẹo, nước rỉ vào! Ôm hai con vào ḷng tôi nguyện cầu và phú số mạng cho Trời cao!
Từ thuở ấu thơ, tôi được sống trong gia đ́nh theo đạo Khổng, tin có Thượng Đế, tin vào thuyết nhà Phật, ở hiền gặp lành, làm ác gặp dữ, có sự trả vay. Cho nên tôi tin rằng mọi thứ trên cơi đời nầy đều do sự sắp xếp và an bài của Ơn Trên! Trong cơn mưa gió, con tàu chúng tôi đang đi ngất ngư, xập x́nh, lừ đừ nương theo sóng, như mấy bà bầu nặng nề sắp tới ngày sanh. Nhưng tôi nghĩ như vậy cũng c̣n đỡ hơn nằm ́ một chỗ chờ chết trong khi giông băo dập dồn!
Tôi giựt ḿnh sau cơn chập chờn thiếp đi hồi nào không hay biết, v́ lo sợ, v́ mệt mỏi... Một vài người bên cạnh vẫn c̣n ngồi đó, có bà đang lần chuỗi thánh giá, có bà lần chuỗi bồ đề, và ông kia chắp tay trước ngực miệng đang khấn nguyện lâm râm. Tôi chép miệng khổ sầu lẫn đắng cay nh́n hai con chúi vào nhau ngủ, chúng thở thoi thóp mệt nhọc, và mặt mày xanh xao như hai xác chết! Gia đ́nh đang lâm vào thảm cảnh năo nùng, gần như mất hết hy vọng vào được bến bờ... Nhưng tôi không cảm thấy hối hận, hay tiếc nuối một chút nào về việc trốn chạy khỏi nước Cộng sản của ḿnh, cho dù toàn gia có bị d́m sâu trong ḷng đại dương là nguyệt mộ!
Tôi chập choạng đứng lên, đi lần đến cầu thang ngắn, bước từng bước khập khễnh, mệt mỏi leo lên bon-tàu. Thuyền nhân mệt mỏi, mặt mày xác xơ, áo quần xốc xếch kẻ nằm ngang, người nằm dọc la liệt! Mọi người chung chuyến tàu vượt biên không c̣n hy vọng ǵ, chỉ nguyện cầu và phú mạng cho Đất Trời trong cơn băo biển đêm qua!
Hiện hữu trước mặt tôi giờ đây biển thật hiền dịu êm đềm, nước trong xanh ở gần và trở màu xanh sậm đen ở xa tầm mắt. Trên mặt biển sóng gợn lăn tăn loang loáng chấp chóa những tia ngủ sắc, bởi chói rọi bởi ánh sáng của vầng thái dương, ngạo nghễ nhú lên dần dần ở phương đông. Tôi hít dài không khí trong lành vào buồng phổi, rồi thở ra… nghe ḷng khoan khoái ấm nồng và niềm hy vọng đang nhen nhúm trong tâm hồn.
Thuyền chúng tôi bảy ngày sau được ghé Nam Dương
quần đảo. Rồi vài tháng chuyển từ đảo nầy qua đảo khác như: Terampa.
Kuku… đến Ga-Lăng là trạm chót trước khi được định cư ở Mỹ! Thời
gian sống ở đảo có mấy chục ngàn người (đảo Galăng) vượt biên tị nạn
Cộng sản đó, chúng tôi thấu hiểu thêm t́nh người, t́nh đời... và có
cảm tưởng như một lần nữa được tái sanh trên thế gian nầy!
Đến đựợc lănh thổ của nước thứ hai, th́ trước sau ǵ đại đa số những
thuyền nhân, rồi cũng được đi định cư ở một đệ tam Quốc Gia Tự Do
khác! Gia đ́nh bốn người chúng tôi được vào Hoa Kỳ, và tạm cư ở tiểu
bang Illinois (ngoại ô thành phố Gió Chicago). Tiểu bang nầy có thời
tiết khắc nghiệt lạnh nổi tiếng là một trong những tiểu bang lạnh
nhứt nước Mỹ…
Rồi vợ chồng tôi cũng xin được vào làm “cu-li” để
nuôi năm miệng ăn. Bởi một năm sau ngày đến Mỹ, chúng tôi có thêm
một bé trai nữa.
Ngày lại ngày qua ở xứ người có bốn mùa rơ rệt: xuân, hạ, thu, đông.
Mỗi ngày như mọi ngày và dài theo tháng, theo năm: Cứ tám giờ đi làm
việc, chiều về an vui với con cái. Hai đứa lớn đă được vào trường
học, và lớn dần theo thời gian. Hai vợ chồng tôi chịu khó chịu cực,
an phận sống khiêm nhường chắt mót với lương phạn ḿnh làm ra, trong
một nước tiền rừng bạc biển, vật chất có thừa và thật sự tự do!
Lương lănh sau hai tuần một lần, nhập lại của hai vợ chồng: Một
tháng đóng tiền nhà, hai mươi ngày ăn hà tiện. Mười ngày tiêu xài
linh tinh mọi thứ, và dành dụm gởi về cho người thân c̣n kẹt bên kia
bức màng tre!
Sang xứ người gần mười năm sau tôi mới được xem sách báo Việt Nam (in ra ở xứ người). Lâu lâu vớ đâu đó được xem một tờ báo xuân cũ ra cũ rích trước năm 1975 ở miền Nam, của ai đó mang theo... cho nên hiếm và quư như vàng! Nhạc trong băng cassette vùng tôi phải mua bảy đô-la/1 băng, nhưng chỉ nghe được chừng một băng, c̣n mấy băng kia hụt hẫng, cà-lăm không nghe được… Nhưng thèm quá cũng phải mua nghe, để hồi tưởng và để thương để nhớ thời đă qua nơi cố quốc.
Hôm đó t́nh cờ có duyên, một đồng hương gặp tôi anh cười hề hề:
- Tôi đi thăm bà con ở tiểu bang khác, thấy tập thơ nầy để trong chồng sách báo cũ, tôi chớp về tặng chị. Truyện, tiểu thuyết th́ tôi c̣n đọc lai rai, chớ tôi không thích thơ chị ơi…
Cảm ơn anh ta, đỡ lấy tập thơ, tôi chợt giựt ḿnh và mừng rỡ trong ḷng mau lẹ cẩn thận để sâu vào xách tay. Tôi sợ ai thấy sẽ mượn xem, hoặc anh ta đổi ư lấy lại th́ tôi sẽ buồn ḷng lắm lắm! V́ đó là tập thơ “Hoa Địa Ngục” bằng bản sao (copy) trên giấy trắng mực đen! Tập thơ “Hoa Địa Ngục” với anh bạn tôi th́ hết sức dửng dưng, nhưng với tôi đây món quà quư vô cùng, v́ thuở đó có tiền muốn cũng chưa chắc mua được!
Theo báo chí tôi xem trước đây, và biết được tác
giả là người miền Bắc, đă bị mấy mươi năm tù, và c̣n đang kẹt ở
trong nước! Tôi về xem đi xem lại tập thơ “Hoa Địa Ngục” và cẩn thận
cất kỹ trong tủ v́ sợ có người muợn rồi v́ lư do ǵ đó không trả...
Tôi trân quư đọc đi đọc lại nhiều bài tôi thích... cảm thấy xót xa,
xao xác cơi ḷng... thương cho một kiếp người bất hạnh sanh nhầm thế
kỷ dưới một chế độ vô nhân!
Rồi thời gian lặng lẽ trôi, người Việt trên đất Mỹ ngày càng đông.
Văn học nghệ thuật của người Việt lưu vong ngày theo đà tiến triển.
Ở các thành phố lớn có báo tuần, bán nguyệt san, c̣n nguyệt san gần
như đều có ở các tiểu bang nhiều người Việt cư trú… Các đoàn thể,
đảng phái… chống Cộng mỗi lúc một rầm rộ hơn, sau khi cựu tù nhân
Chánh trị (tù cải tạo) được vào Mỹ theo diện H.O, con lai được sang
Mỹ… Tin tác giả của tập thơ “Hoa Địa Ngục” đă đến Mỹ…
Ngày đó cựu tù nhân Chánh trị, và các đoàn thể
chống Cộng vùng Chicago mời Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, và tác giả tập
thơ “Hoa Địa Ngục” Nguyễn Chí Thiện qua thanh phố Gió Chicago nói
chuyện, nhân dịp ngày Quân lực 19 tháng 6 của Việt Nam Cộng Ḥa.
Trong dịp nầy tôi hân hạnh được diện kiến ông Nguyễn Chí Thiện.
Trong hội trường, ông ngồi trên bàn diễn giả cách tôi khoảng bốn
hàng ghế. Hội trường là một nhà hàng chứa khoảng 400 khách, mà hôm
đó số người đến tham dự quá đông (khoảng 600, 700 người) Bên trong
hết chỗ, khách đến tham dự phải đứng tràn ra ngoài cửa trước, và hai
bên cửa hông…
Trong tôi, ông nguyễn Chí Thiện dáng người cao ráo, gầy, khuôn mặt xương hơi dài, mũi cao. Ông có hàm răng hơi nhô lên mà vùng quê chúng tôi, cḥm xóm thường gọi là hô nứu.
Tôi vẫn nhớ ông chồng của em gái má tôi (dượng rể tôi) người miền Bắc, thuở thiếu thời khoảng chín, mười tuổi có lần cả gia đ́nh ngồi ăn giỗ ở nhà ngoại, tôi khều ông dượng rể hỏi:
- Dượng Tư à, sao ở miền Bắc nhiều người có răng hô quá vậy?
Ông dượng tôi đang ăn khựng lại, c̣n má lườm tôi khẽ bảo:
- Ăn đi, nhiều chuyện, đừng có hỗn…
Ông dượng cởi mở, cười cởi mở nh́n tôi:
- Cháu có biết tại sao không? Tại v́ ngoài đó ăn rau muống nhiều quá nên người ta dễ bị răng hô…
Tôi không vừa ư với câu trả lời của dượng, nhưng cũng im lặng gật đầu, v́ má đang nh́n tôi với đôi mắt nghiêm khắc! Bây giờ th́ má tôi và ông dượng rể đă ra người thiên cỗ! Ngoài ra, ông Nguyễn Chí Thiện trong tôi c̣n có đôi mắt buồn hắt hiu! Cho dù có mỉm cười đi nữa, cũng không làm sao khỏa lấp được nỗi buồn sâu kín ẩn tiềm trong đôi mắt của ông!
Sau lần nghe buổi nói chuyện của Linh Mục Lễ, và
ông Nguyễn Chí Thiện, tôi cảm thấy thán phục nhiều hơn về sự chịu
đựng, kiên nhẫn và bất khuất của hai ông.
Bẵng đi thời gian dài, lại có những tin đồn không được tốt về tập
thơ “Hoa Địa Ngục” về Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện. Những tin đồn lớn
dần với những bài viết của các tác giả khác nhau liên tục chỉ mũi
dùi về ông. Có lẻ v́ thế đă khiến cho một số người không c̣n có
thiện cảm với ông, như thuở c̣n kẹt ở Việt Nam và mới đến Mỹ!
Cho măi đến năm 2007, nhà văn Hồ Trường An ở Pháp qua dự buổi Văn Học Nghệ Thuật ở Washington, ghé thăm San Jose mệnh danh là Thung Lũng Hoa Vàng. Tiện dịp chúng tôi (về phần tôi th́ sai vặt) tổ chức ra mắt cuốn bút khảo “Quê Nam Một Cơi” của ông vừa in xong.
Mèn ơi, thư mời gởi đi chưa được ba bữa th́ ông Hồ Trường An bị đánh phá trên Internet tưng bừng hoa lá! Những văn nhân thi sĩ tài hoa ở Thung Lũng Hoa Vàng có người đă thành danh, quen biết ông Ông Hồ Trường An từ c̣n trong nước, và một số ở hải ngoại. Họ đă hứa với ban tổ chức: Kẻ sẽ giới thiệu tác giả, người hứa giới thiệu tác phẩm, phát biểu ư kiến v.v và v.v… Nhưng ngày mai ra mắt sách, th́ chiều đến, nhiều người gọi điện thoại lại từ chối bằng cách: có người bị nhức răng, kẻ đau đầu, nóng lạnh, người đau bụng, cảm cúm, bất ngờ phải đi xuyên bang…
Từ ngàn xưa đă có câu: “Tào Tháo c̣n có bạn/ Quan Công vẫn có kẻ thù” mà! Vả lại Hồ Trường An là một nhà văn có tầm vóc trong văn giới từ c̣n trong nước và mấy chục năm nay ở hải ngoại. Độc giả của ông rải rác gần như ở khắp mọi nơi… Cho nên buổi ra mắt sách hôm đó thành công ngoài sức tưởng tượng của ban tổ chức! Riêng tôi vừa mừng, vừa hú hồn hú vía lạy tạ ơn Trời Phật!
Trong buổi ra mắt sách của nhà văn Hồ Trường An, tôi gặp lại tác giả tập thơ “Hoa Địa Ngục” Thiệt là sự vui mừng bất ngờ, một người khách không mời mà đến (v́ chúng tôi không biết ông ở đâu để mời) Anh cho biết có nghe báo chí và trên các đài địa phương thông báo. Anh đến dự với tư cách là một một độc giả, là một đồng điệu với tác giả. Anh Hồ Trường An, cùng anh Nguyễn Chí Thiện gặp nhau tay bắt mặt mừng, và ngồi nói chuyện đến tàn buổi ra mắt sách mới chia tay.
Anh Nguyễn Chí Thiện trong tôi hôm nay vẫn dáng cao, thâm trầm, ít nói, mặc dù hơi tṛn hơn một chút. Và đôi mắt anh lúc nào cũng buồn vời vợi sâu thâm thẩm như lần đầu tôi gặp!
Nhà văn Hồ Trường An ở Pháp, tôi ở Mỹ. Chúng tôi cách xa nhau hơn nửa ṿng trái đất. Trong dịp điện đàm, có lần anh vui miệng hỏi tôi:
- Chị thấy ông Nguyễn Chí Thiện Thế nào?
Tôi ngạc nhiên:
- Thế nào là sao, tôi chưa hiểu ư anh?
- Thiên hạ bảo ảnh ăn cắp thơ… và...
- Ờ, tui cũng có nghe nhưng không để ư, và thật sự tui cũng không biết ǵ về chuyện đó nên không trả lời anh được! C̣n anh th́ sao, anh có nghĩ và thấy ǵ từ lúc ra ngoại quốc đến giờ ông Nguyễn Chí Thiện có viết lời nào, nói câu ǵ, hoặc hành động ǵ có lợi cho Việt cộng chưa? Hay ông đă làm ǵ có hại cho người Quốc Gia ở hải ngoại không?
Đầu dây bên kia anh Hồ Trường An cười hề hề:
- Bí Thư Cộng Sản Nam Tư đă nói: “Hai mươi (20) tuổi theo Cộng sản th́ không có trái tim/ Bốn mươi (40) tuổi không bỏ Cộng sản là không có cái đầu” Tổng Thống Nga Vladimir Putin cũng đă nói: “Kẻ nào tin những lời Cộng sản nói là không có cái đầu/ Kẻ nào làm theo Cộng sản là không có trái tim” Tôi cũng không tin anh Nguyễn Chí Thiện có chuyện đó!
Tôi mỉm cười một ḿnh, nh́n ra cửa số. Trời hôm nay trong như ngọc bích, cao ṿi vọi và in những đám mây trắng như bong g̣n nhè nhẹ trôi theo hướng gió. Tôi nói tiếp:
- Tôi thích thơ trong “Hoa Địa Ngục” nhưng không
phải bài thơ nào của anh Nguyễn Chí Thiện tôi cũng thích! Và tôi quả
quyết chắc chắn đúng 100% không sai ở một điều là ổng đă bị giam cầm
trong tù Việt cộng! Thiệt ổng quả là một người bất hạnh đă sanh ra
không đúng thời, và lọt trong chế độ Cộng sản! Tôi thật sự cảm phục
một người sống chung với Cộng mà không theo Cộng. Ổng đă bị chúng
giam cầm hai mươi bảy năm trời! Giam cầm người ta hai mươi bảy năm!
Anh nghĩ xem, kiếp con người có bao nhiêu lần cái hai mươi bảy năm?
Tội t́nh ǵ mà dập dùi người ta như thế, thiệt là một lũ quá ác độc
nhẫn tâm và cay nghiệt, rồi đây trời sẽ không tha đất sẽ không dung
bọn đó đâu…
Ḍng đời cứ trôi măi trôi, cả ba đứa con chúng tôi đều lớn và đă đi
làm, không c̣n nhờ cha mẹ nữa. Theo thời gian con người không sao
tránh khỏi sự đào thải của tạo hóa bởi bịnh tật, già nua… rồi chết.
Chúng tôi nay cũng đă hai màu tóc, chân yếu, mắt mờ… có muốn giúp
con cũng không làm nỗi để giúp chúng như lúc c̣n trẻ. Và sanh, lăo,
bịnh, tử của kiếp con người cứ lởn vởn chung quanh. Rồi đây kẻ trước
người sau sẽ có một ngày ra đi… không một ai tránh khỏi!
Nhà văn, nhà biên khảo, nhà phê b́nh Hồ Trường An cũng đang dưỡng bịnh. Ông bị stroke mấy năm trước đến nay vẫn chưa đi đứng được! Và những người lớn tuổi đă lần lượt ĺa bỏ cơi đời như cụ: Hà Thượng Nhơn, Sơn Điển Nguyễn Viết Khánh, nữ sĩ Trùng Quang… Và gần đây, nhạc sĩ Trần Trịnh cũng đă ra đi.
Hôm nay California trời đă vào thu, gió man mác,
the the lành lạnh. Cái lạnh dễ chịu về mùa thu của miền Nam nước Mỹ
đă ướp vàng sắc lá. Những chiếc lá lảo đảo rơi rớt lác đác trên mặt
cỏ úa, trên mặt đường nhựa xám đen lạnh lùng! Sau nhà tôi trên không
gian nặng màu mây xám, bầy chim trời rời ổ xoăi đôi cánh miệt mày
bay, rồi mất hút trong sương mù dầy đặc, âm u, mờ mịt vân vê trên
dăi đồi xa xa...
Tin trên Internet:
“Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện”
Đă vĩnh viễn ra đi
Ngày 2 tháng 10 năm 2012,
Hưởng thọ 73 tuổi
Tôi chợt nhớ đă nghe nói, hay đọc ở đâu đó: “Dù đă sẵn sàng hay c̣n
chưa chuẩn bị, nhưng rồi một ngày kia, chúng ta cũng phải chia tay
thế giới này! Tiền bạc, danh vọng, quyền lực… tất cả với ta cuối
cùng cũng sẽ trở thành vô nghĩa. C̣n ư nghĩa chăng là những ǵ ta
tạo ra đối với thế giới này…” Thở dài và bùi ngùi xúc động tôi cảm
thấy xót xa, nghiệt ngă cho một kiếp người! Tôi kính ngưỡng thương
Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện với chí kiêng cường, bất khuất suốt hai
mươi bảy năm bị đọa đày cay đắng trong lao tù dưới chế độ Cộng Sản
nơi ông sanh ra và lớn!
TÔI VIẾT CHO ANH
“NGỤC SĨ NGUYỄN CHÍ THIỆN”
Chi-ca-gô vào một chiều nhạt nắng
Lưu lạc xứ người có buồn không anh?
Hắt hiu gió lạnh, nhưng t́nh người ấm
Trời vàng thu lá phai sắc sa cành!
Đôi mắt anh ẩn nỗi niềm sâu thẳm!
Xót t́nh người, đau vận nước nổi trôi?
Tháng năm dài đọa đày trong trại cấm!
Tù ngục riêng mang uất hận ngút trời!
Phải anh trót sanh ra nhầm thế kỷ?
Trong một chế độ vô thánh, vô thần
Cả bọn cầm quyền vô tâm, nghịch lư
Đầu độc dân lành mất hết thiện, nhân
Cộng: đảng trị, độc tài, ham đánh đấu…
Không nghe, chúng sẽ trù dập khảo tra!
Phải theo chúng là con đường tối hậu!
Chống lại, đuổi tận giết tiệt… không tha
Nguyễn Chí Thiện, đă làm chi nên tội?
Mà dăi dầu hai mươi bảy năm tù?
Phải anh biết chúng diệt chủng, gian dối…
Nên bị gày án phản động thiên thu…
Hỏi Cao Xanh, bao nhiêu năm một kiếp?
Lấy quyền ǵ, lại bắt bớ cầm giam?
Đời nhân thế mong manh như giấc điệp
Sao nở đành? Cùng ḍng giống Việt Nam!
Anh như đóa hoa sen vùng Đồng Tháp
Trong đ́a ao chẳng vướng bợn mùi bùn
Không theo Cộng, dù sống trên đất Bắc
Thà tù, không luồn cúi để ung dung!
“Hoa Địa Ngục” những vầng thơ diễm tuyệt
Bên trời tự do bừng nở ngát hương…
Là gương soi cho những người dân Việt…
Cho những ai không Cộng sản tha phương
Tôi gặp anh hôm nào nơi phố Gió
Mười mấy năm sau, thung Lũng Hoa Vàng
Thơ, văn chương… thuyết minh trong lần đó
Đồng điệu Văn Nghệ Sĩ, Hồ Trường An…
Xin ngưỡng phục văn, thi nhân… chống Cộng
Dùng cây bút thép diệt ác, tà tâm…
Dù bị chụp mủ, hàm oan trầm thống…
Vẫn sáng trong như nhật, nguyệt đêm rằm
Kiếp nhân sinh, cơi đời nhiều hệ lụy!
Danh, tiền, tài … hủy diệt với thời gian
Văn chương đổi thay theo thời… tích lũy
Tấm ḷng son măi chói lọi huy hoàng
Cộng sản tàn độc xích xiềng, chém giết
Giàu, sang, phú quư… rồi cũng buông rơi
Nhân thế tị hiềm, ghét, ganh cay nghiệt…
Mong được b́nh an ơn phước Đất Trời
Xin tạ ơn người khai đường mở lối…
Không v́ lợi riêng, quỳ lụy ác gian
Kẻ cầm bút vạch trần… vô tiếc hối
Nguyễn Chí Thiện, nêu cao ngọn bút vàng
Mây thu tím, nắng Ca-Li nhàn nhạt!
Tin đưa về anh vĩnh viễn ra đi!
Gió ướm lạnh lá vàng rơi lác đác
Mưa sụt sùi đẫm ướt cánh chim di!
Anh đi rồi, để buồn thương nuối tiếc…
Bất khuất, kiên cường… lưu măi ngàn sau
“Ngục sĩ” ơi, nghẹn tâm t́nh tống biệt!
Cơi ḷng tôi, lệ kính ngưỡng dâng trào!
Thật sự tôi chưa có khả năng thẩm định chuyện ǵ khác, ngoài cảm
nhận của một độc giă về văn thơ Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện. Tôi viết
sau khi được tin anh qua đời, để tỏ ḷng kính ngưỡng một văn nghệ sĩ
27 năm bị đọa đày trong ngục tù Cộng Sản! Mà kiếp con người trên thế
gian nầy có được bao nhiêu lần 27 năm!
DƯ THỊ DIỄM BUỒN
Tuyển tâp văn “Niềm Thương Nỗi Nhớ”
ĐT: (530) 822 5622
Email: dtdbuon@hotmail.com
C̣n nợ Thanh An
Mùa Đông năm ấy
Kể chuyện chúng
ḿnh
Hai h́nh ảnh -
một cuộc đời
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Những ngày hè
không thể quên !
Họp mặt
Những cái
tên không thể quên !
40 năm Bất Khuất
Hành tŕnh
của 5 ngày t́m về một thời tuổi
trẻ
Kỷ niệm Quân trường:
Đi Phép - Về Phép
Thuyền đời
Cuộc
sống của người lính chiến ĐPQ & NQ
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Xuân và người
lính Việt Nam Cộng Ḥa trong nhạc Việt
Xuân về trên
đầu súng
Đêm xa người
Câu chuyện của
người tù “Cải tạo” về từ Yên Bái
Tết trong ngục tù cộng
sản
Tâm t́nh này
cho anh
Quân
trường và chiến trường
Một giao
thừa trong đời
Xin
một ngày, giấc mơ trở thành hiện thực!
Tiếc thương
Đã bốn mươi
năm con thầm đợi ba!
Ăn Tết trên
thuyền
Cô gái làng
Thái-Mỹ
Người về từ Đại Dương
Văn
tế tưởng niệm 74 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
Hoàng Sa qua những nhân chứng
Cảm
nghĩ của người đằng sau cuộc chiến
Đất người
Chẳng qua
Ly rượu mừng
HQ 16 và trận hải chiến Hoàng Sa
40 năm hải
chiến Hoàng Sa
Yểm trợ
trận chiến Hoàng Sa
Kư ức
cuộc chiến Hoàng Sa 1974
Những
ngày tháng tù đầy không thể quên
Những giọt nước
mắt ...
Đồng Minh can
trường
Chạy đâu cho thoát
Bonjour Việt Nam –
người đi, người ở, người về…
Tuổi trẻ chúng tôi
Vượt ngục
Thần Năm Chén
Hải
Quân VNCH được Hoa Kỳ trao tặng huy chương
Những ngày hè
không thể quên
Kiếp nào yêu nhau
Đất trích !
Hoàng hôn bừng sáng
Trăng tan trên
sông núi
Chuyện thật tôi biết
về Tướng Trương Quang Ân
50 năm nhớ về Tổng
Thống Ngô Đ́nh Diệm
Mẹ tôi và lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Boston - Khi
trời mới sang Thu
Bác Hạnh
Cuộc trùng phùng
hy hữu...
Người lính vẫn c̣n
đây
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm Duyên-Pḥng
213
Hồi kư của một SQ Thủ
Đức
Người vợ
lính Ở Thủ Đức
Con tôi đi nhận xác
chồng!
Tôi viết cho anh "Ngục
Sĩ Nguyễn Chí Thiện"
Lực-Lượng Đặc-Nhiệm
Duyên-Pḥng 213
Quân trường hoài
niệm
Tuổi
già nên phiên phiến mọi chuyện ..
46
năm họp mặt
Quăng đời trên dốc
đổ
Một đời chiến sĩ dọc ngang
Ḍng sông êm đềm
Côn Minh
(Kunming)
trong tôi
Chọc mà thương
Tây Ninh -
Chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Kỷ niệm Một
thời chiến đấu oai hùng
Coi các cháu hát "Thiếu nhi Hùng Sử Ca"
Trên chuyến
tàu Thống Nhất
Ngày Quân lực 19/6:
Viết về Người Lính Bất Hạnh VNCH
Không bỏ rơi đồng đội
Cô em vợ
Giải vây
đồi 46: Căn cứ ALPHA
Huyền
thoại về tượng Thương Tiếc
Bà mẹ điên
Nỗi đau
Phan Nhật Nam -
Dựa lưng nỗi nhớ
Khóc nhạc sĩ
Thông Đạt-Văn Giảng
Chuyến vượt
biển t́m tự do
Hạm trưởng đa t́nh
Chuyện một con tàu
30 tháng tư, coi dĩa nhạc Asia Golden 3
Cũng một đời người
Thương tiếc
những nữ Anh Thư tử chiến với giặc thù Cs
Ngày nầy, năm 1975…
Người mang thánh
giá
Hành tŕnh di tản
t́m tự do
Tổ Quốc Ghi Ơn
Vài nét anh hùng
của TSQ
Tại sao
Tướng Lê Quang Lưỡng dặn: 'Tôi chết đừng phủ cờ vàng?'
30 tháng 4! Tôi chưa một lần sinh nhật
T́nh vẫn trao em
Câu hỏi tháng Tư
Những món nợ phải
trả
Người hạ sĩ nhất
Đá nát vàng phai
Tháng Tư ở Sài G̣n
Người vợ Lính
Người t́m tự do
cuối cuộc chiến
Người lính TQLC bên
bờ Bến Hải
Trên chiến trường
xưa
Người thiếu phụ
trong mưa phùn
Tháng Tư viết về
ngừơi lính VNCH
Tháng 4 lại về
Người chỉ huy về
già
Tháng 4 đen
Những ngày cuối
tháng Tư
Thắp nén hương ḷng
Chuyến hải
tŕnh định mệnh
Tháng Tư, Cả Một Đời
Người Trước...
Những tàn phá thoả thuê
Tưởng
nhớ cha tội - Đại Úy Trương Hồng Nhơn
Rằn Ri ơí! nhớ quá
Phan
Bôi Châu - Trường tôi ngày đó
Cho măi ngàn năm
Chim ơi! Vĩnh
biệt sao đành!
Đêm 30 có mỗi truyện
này
Ba tôi... người lính đổi màu
Những chuyến bay
định mệnh