Màu áo cũ -
Video
Mang theo quê hương
-
Video
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
BUU NGUYEN
“…Cô y tá người Úc trợn mắt nh́n em, rưng rưng nước mắt. Sau này, cô
nói với tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà c̣n lịch sự và tỉnh táo
như vợ mầy...”
Sau đây là câu chuyện về một cuộc t́nh đẹp có thật do tác giả “ Buu
Nguyen ” kể lại.
“T̀NH YÊU GIỮA TÔI VÀ NÀNG TIÊN”
Ba tôi qua đời bất ngờ năm 1964, nhỏ em út c̣n trong bụng Má. Tôi
phải nghỉ học, t́m việc làm ngày đêm để phụ giúp Má tôi nuôi sáu đứa
em c̣n nhỏ dại.
Đầu năm 1965, tôi được mời đến dạy kèm Toán cho cô con gái lớn một
gia đ́nh người Việt ở Nam Vang. Mỗi ngày 2 tiếng, từ 7 đến 9 giờ
tối, từ thứ Hai đến thứ Sáu. Em học trường Providence, c̣n gọi là
trường Bà Phước, lúc đó chỉ dành cho nữ sinh. Em nhỏ hơn tôi một
tuổi nhưng mới ở lại Cinquième, trong khi tôi đă đậu Brevet d’Études
du Premier Cycle hai năm trước.
Có lẽ v́ là con gái nhà khá giả nên em hơi… làm biếng học, nhất là
toán, géometrie và algèbre. Lúc đầu, tôi hơi nản ḷng v́… em nh́n
bài vở như thấy ma, tôi thường phải làm bài giùm em, nhưng từ từ em
nghe lời tôi khuyên, chịu làm bài, chịu học bài, và được lên lớp mỗi
năm.
Đầu năm 1968, em học Troisième, chuẩn bị thi Brevet. Tôi kèm em từng
môn, giúp em làm những bài vở mà đúng ra tôi không cần giúp. Em trả
ơn bằng cách mời tôi ở lại ăn cơm tối.
Tôi cho em mượn những quyển sách mà tôi đă học qua, trong một lần
trả sách, em kèm theo tấm giấy chỉ viết một câu “cho moi làm amie
intime của toi nha”. Tôi gật đầu v́ sợ em giận, em không thèm học
nữa. Từ đó, em hẹn tôi đi chơi cuối tuần, tôi cũng gật đầu với điều
kiện là em phải xin phép Ba Má đàng hoàng và phải ráng học.
Tôi biết em thương tôi, tôi cũng thương em. Tôi gọi em là “cô Tiên”
v́ em có dáng dấp qua cầu gió bay, có bước đi lả lướt nhẹ nhàng như
các nàng tiên nữ trong vũ khúc nghê thường, v́ em đă mang đến cho
tôi những cảm xúc mà người trần gian chưa từng cho tôi trước đó.
Những ngày mưa, không đi chơi được th́ tôi ngồi hát em nghe bên mái
hiên nhà:
Một chiều cuối tuần mưa bay lất phất và mây trắng giăng giăng
Em đến thăm anh v́ trời mưa măi nên không kịp về
Bên anh, em lặng nh́n bầu trời và ánh mắt mộng mơ
Sợ người yêu khóc, khe khẽ bên tai anh kể chuyện ngày xưa.
Chuyện xưa kể rằng trên thiên giới ấy ngày vui kết hoa đăng
Thiên Quốc đang vui một nàng tiên nữ làm rơi ly ngọc ngà
Đang say nên trời bèn đọa đày nàng tiên xuống trần gian
Làm người dương thế không biết bao lâu mới được quay về trời.
Em ơi nàng tiên ấy xuống dương trần một chiều mưa bay nhiều
Và v́ thương trần thế, thương kiếp sống phong sương
Nên dù rằng một hôm Thiên Quốc trời sai
Gom mây hồng làm xe đưa tiên về
Tiên nói dối tiên c̣n đang giận trời nên tiên chẳng về đâu.
Nàng tiên giáng trần không đôi cánh trắng giờ đang ngắm mưa bay
Đang đứng bên anh thầm cầu mưa măi cho tiên đừng về
Anh ơi lỡ mà trời gọi về th́ tiên chẳng về đâu
(Bài hát “Huyền Thoại Một Chiều Mưa”)
Nhưng tôi luôn nhớ ḿnh là con trai nhà nghèo, chỉ có chiếc
Mobylette cà tàng làm chân đi kiếm cơm mỗi ngày. Em là con gái nhà
khá giả, đi học có xe đưa rước, về nhà không làm động móng tay v́ đă
có chị bếp, chị bồi, chị vú lo toan mọi việc. Nếu hai đứa thành vợ
thành chồng, em cực thân là cái chắc.
Trong một lần kề vai nhau đi quanh công viên Chùa Tháp, trời bỗng
dưng mưa. Tôi bật dù che hai đứa nhưng mưa càng lúc càng nặng hột,
em bỗng xoay người lại ôm hôn tôi dưới mưa. Tôi than thầm trong bụng
“gặp oan gia truyền kiếp rồi”.
Năm đó, em thi đậu Brevet và tôi nghỉ dạy v́ vừa xin được cái job
thư kư kế toán ở hăng L’UCIA, Nam Vang.
Lúc trước gặp nhau 5 ngày mỗi tuần, có nhiều th́ giờ để nói với nhau
những ǵ muốn nói. Giờ phải chờ đến cuối tuần mới được gặp nhau vài
tiếng, nhớ ơi là nhớ. Tôi bắt đầu làm thơ “nhớ em”…
Nhớ lúc xưa kia mới biết nhau
Rồi thương rồi nhớ suốt đêm thâu
Đêm nào cũng vái cho mau sáng
Nhớ quá trời ơi! Nhớ phát rầu.
Nhớ những chiều em qua phố vắng
Dáng hồng xen lẫn bóng hàng cau
Mân mê vạt áo, em e lệ
Những lúc anh nh́n, má đỏ au.
Nhớ lúc ḿnh đan tay đếm bước
Em run run hỏi: – Sẽ ra sao ?
Anh cười, anh nói như đinh đóng:
– Anh sẽ yêu em đến bạc đầu!
Đưa bài thơ cho em, em bỏ túi nói sẽ về nhà đọc. Tuần sau gặp nhau,
em không nhắc ǵ về bài thơ của tôi mà hỏi tôi nghĩ ǵ về cuộc sống
hai đứa sau này.
Tôi nói là nhà tôi nghèo, em nói em biết rồi, tôi phải đi làm giúp
Má nuôi các em c̣n nhỏ, em nói em cũng biết rồi, nếu ḿnh cưới nhau
th́ em sẽ cực thân hơn là sống với Ba Má em…
Em trả lời làm tôi chưng hửng “hiện nay, cái khổ nhất mà “moi” phải
chịu đựng hàng ngày là nhớ “toi”, cái cực nhất mà moi phải chịu đựng
hàng ngày là làm sao để gặp toi sớm hơn, nên moi không sợ ǵ cả.
Trời sanh voi sanh cỏ”.
Tôi khuyên em nên kiên nhẫn, nói cho em hiểu lúc này là thời gian
đẹpnhất trong cuộc t́nh hai đứa, cái nhớ cái thương bây giờ sẽ làm
ḿnh gắn bó nhau hơn sau này…
Em nghe lời tôi và chuyện hẹn ḥ của chúng tôi kéo dài cho tới đầu
năm 1970.
Tướng Lon Nol lật đổ vua Sihanouk, tự phong là tổng thống xứ
Kampuchea (Cao Miên).
Một số người Miên quá khích thừa nước đục thả câu, “cáp duồn” (nghĩa
là chặt người Việt) lẻ tẻ. Đang đêm, họ đến gơ cửa nhà người Việt ở
những vùng thôn quê hẻo lánh. Một số người Việt không may đă bị họ
chặt đầu, xác thả trôi sông về tới Tân Châu, Hồng Ngự… Nhiều người
Việt có chút của ăn của để ở Cao Miên bán tháo tài sản để về Miền
Nam Việt Nam lánh nạn. Ba Má em cũng không ngoại lệ.
Em gặp tôi bàn chuyện này. Tôi đem việc này hỏi ư kiến ông giám đốc
hăng L’UCIA. Ông giám đốc đưa hai đứa tôi về biệt thự do hăng mướn
cho ổng ở trên đại lộ Norodom, ngay trung tâm thủ đô Nam Vang. Ổng
nói: “nhà tao có 2 người bồi bếp, có 2 con chó berger giữ nhà. Nhà
có 5 pḥng, tao ở chỉ một pḥng. Nếu hai đứa thấy ở nhà mầy không an
toàn th́ đến đây ở với tao. Tao tin tưởng và cần thằng B. giúp tao
giữ ǵn sổ sách của hăng nên hai đứa mầy muốn ở pḥng nào, muốn ở
bao lâu cũng được”.
Nghe vậy, chúng tôi yên tâm và quyết định ở Nam Vang dù Ba Má em có
về Sàig̣n.
Em về xin Ba Má cho hai đứa làm đám cưới. Má em có cảm t́nh với tôi
nên gật đầu. Ba em im lặng v́ biết tôi nghèo, sợ con gái cưng của
ông sẽ cực khổ khi về làm vợ tôi. Em nói với Ba Má em “nếu Ba Má
không tổ chức đám cưới cho hai đứa con, tụi con sẽ tự lo. Con muốn
làm vợ anh B. danh chánh ngôn thuận”.
Và hai đứa tôi tự tổ chức lễ cưới của ḿnh.
Sáng ngày 24/02/1970, Má tôi và tôi mang trầu cau và phẩm vật đến
xin cưới em. Chúng tôi lạy bàn thờ tổ tiên nhà em, xin quư ngài
chứng giám cho chúng tôi thành vợ thành chồng. Tôi mướn xe Mercedes
để rước “cô Tiên” xuống trần.
Tối đến là tiệc cưới tại nhà hàng La Lune, đối diện State Olympic,
với 200 quan khách, họ hàng và bạn bè nhà trai, nhà gái. Dĩ nhiên là
có nhạc sống do mấy tên bạn tôi tự mang đồ nghề đến giúp vui. Đêm
đó, hai đứa tôi khiêu vũ và cụng ly với bạn bè gần tới sáng.
Sau ngày chúng tôi thành hôn th́ t́nh h́nh chính trị giữa hai nước
Kampuchea và Miền Nam Việt Nam biến chuyển dồn dập. Ông bà nhạc tôi
và gia đ́nh bay về Sàig̣n vài ngày sau đó. Vợ chồng tôi vẫn ở Nam
Vang. Tôi vẫn đi làm ở L’UCIA .
Khi xác nhiều người Việt trôi về tới Hồng Ngự, Tân Châu, ông Nguyễn
Cao Kỳ – lúc đó là Phó Tổng Thống VNCH – ra lệnh cho Quân-đoàn 3
tràn qua biên giới, lấy cớ là để “bảo vệ kiều bào VN”. Trung tướng
Đỗ Cao Trí nhận lệnh với lời tuyên bố làm chấn động chính phủ Cao
Miên: “Cho tôi 24 tiếng, tôi sẽ chiếm Nam Vang”.
Ông Lon Nol nghe muốn té đái. Mới làm tổng thống có mấy ngày, nếu để
QLVNCH chiếm Nam Vang th́ mất mặt bầu cua. Ông gọi điện năn nỉ chính
phủ VNCH đừng chiếm Nam vang nên Quân-đoàn 3 dừng lại ở Neak Luong
(người Việt ḿnh gọi là Hố Lương), một bến phà chỉ cách Nam vang 60
cây số.
Nghe tin QLVNCH tràn qua biên giới, cả trăm ngàn kiều bào VN ở Cao
Miên, trong đó có vợ chồng tôi, bỏ tất cả tài sản, dắt díu nhau vào
các trại tị nạn. Các sân trường trung học, chùa, nhà thờ bỗng trở
thành những trại tị nạn khổng lồ. Vợ chồng tôi vào trường Seminaire,
nơi tôi đă học năm cuối chương tŕnh Tú tài Pháp hai năm trước.
Trong trại Seminaire, người ta chia ra nhiều nhóm, mỗi nhóm 10 gia
đ́nh, trước hết là để lănh nước uống, sau là thức ăn, lúc đó chỉ có
khô cá lóc do Red Cross cung cấp. Tôi làm trưởng nhóm 31.
Đầu tháng 5/1970, ông Nguyễn Cao Kỳ bay lên Nam Vang, nói là thăm xă
giao tướng Lon Nol nhưng thật sự là đi thanh tra các trại tị nạn.
Tối đêm trước, tôi và các trưởng nhóm được lệnh phải thu tất cả
những những ǵ có thể coi như là vũ khí gồm dao, gậy,… và cùng nhiều
người thức gần sáng đêm để dựng cái sân khấu dă chiến.
Khi ông Kỳ vào trại Seminaire, ông đến từng lều, bắt tay và hỏi thăm
từng người. Điều làm mọi người chú ư là 2 anh đại-úy cận vệ. Họ cao
hơn ông Kỳ 1 cái đầu, mặc đồ bay, mang súng ngắn dưới nách, nhưng
không cản trở khi kiều bào đến bắt tay, thậm chí ôm hôn ông Kỳ.
Ông Kỳ lên sấn khấu, nói vài lời thăm hỏi xă giao rồi hứa: “Tôi sẽ
đưa tất cả đồng bào về quê hương!”
Ông nhận được những tràng pháo tay như sấm động của mấy ngàn người
trong trại Seminaire. Nhiều bà lăo ḅ ra khoảng trống trước sân khấu
lạy ông Kỳ như tế sao.
Vài ngày sau, chúng tôi được phát thịt heo lần đầu, dù không ai biết
ai cho nhưng mọi người nghĩ là từ chính phủ VNCH. Tuần sau, một đoàn
“tàu há mồm” của Hải quân VNCH cặp bến sông Mekong.
Danh sách từng nhóm được gọi để rời trại xuống tàu về nước. Vợ chồng
tôi thuộc danh sách thứ 31 nên gần cuối tháng 5/1970 mới được rời
trại. Sau 1 ngày lênh đênh trên sông Tiền (hay sông Hậu?) th́ về tới
trại Đồng Tâm, Mỹ Tho, lúc đó là hậu cứ của Sư-đoàn 7 BB.
Vợ chồng tôi chỉ ở trại Đồng Tâm 5 ngày. Làm giấy tờ nhập cảnh xong
th́ Ba em lái xe xuống rước về Sàig̣n.
Cuộc sống chúng tôi từ ngày về Sàig̣n không c̣n… tà tà như lúc ở Nam
Vang. Cũng như tất cả Việt kiều hồi hương lúc đó, tôi được hoăn dịch
18 tháng. Thời gian không nhiều nên tôi làm ngày làm đêm. Em cũng đi
làm. Cuối tuần hai đứa đưa nhau đi ăn ḿ xào ḍn, hay ăn nghiêu
luộc.
Mỗi tối đi đàn về, tôi chạy thẳng vô Chợ Lớn mua cho em cái bánh bao
Ông Cả Cần của Bà Năm Sa-Đéc. Lúc này em không c̣n thơ thẩn, mà
ngược lại… em ăn rất bạo. Dù không nói ra, tôi biết em đang chuẩn bị
cái bụng cho đứa con đầu ḷng của chúng tôi, dù không biết lúc nào
nó sẽ tượng h́nh.
Nhiều người trong gia tộc hai bên thường trề môi nói “thằng B. con
nhà lính tính nhà quan, mới ở Nam Vang về tay trắng mà vợ nó muốn ǵ
được nấy”….
Mấy người này không biết là lúc c̣n độc thân, tôi đă đọc một câu
định nghĩa “người phụ nữ lư tưởng” của một người đàn ông như sau:
“Người phụ nữ lư tưởng của một người đàn ông là người bạn, người
t́nh và là người vợ của người đàn ông đó”.
Hồi đọc câu đó, tôi chưa gặp cô Tiên nên tôi đă tự hỏi ngược lại là
“tôi có thể vừa là người bạn, vừa là người t́nh, và là chồng của vợ
tôi không”. Ông nào muốn biết cái vụ này nó khó cỡ nào cứ thử cua
một cô bạn gái rồi cưới cổ về làm vợ th́ sẽ hiểu câu… “chưa thấy
quan tài chưa đổ lệ”.
Nhưng khi gặp rồi thương yêu cô Tiên, cái định nghĩa xưa tự nó cho
tôi lời giải đáp.
Lúc mới thương nhau, tôi thường kể em nghe chuyện bồ bịch của tôi
lúc trước. Em chẳng những không ghen hờn, mà c̣n góp ư đôi khi rất
tiếu lâm, rồi hai đứa cười hí hí. Lúc hai đứa đi chơi, gặp cô nào có
“ngực tấn công, mông pḥng thủ” là tôi hay quay lại nh́n, em im lặng
nắm tay tôi, đợi cô đó đi khỏi tầm mắt mới hỏi “bộ toi hổng thấy cổ
đi hai hàng hả?”. Khi vào tiệm bán sách, tôi có cái tật (hổng biết
xấu hay tốt) là đứng hơi lâu trước mấy cái đặc san người lớn như
PlayBoy. Em im lặng đứng bên tôi, đến khi rời tiệm sách em mới phê
b́nh… “nhỏ này vú đẹp, cô kia mông teo…”. Chỉ khi đến kệ bày mấy
cuốn Salut les Copains, em mới tḥ tay lựa cuốn mới nhất và tự ra
quầy trả tiền.
Em chưa bao giờ bắt tôi trả tiền những ǵ em mua cho riêng em. Em
chưa bao giờ lớn tiếng hay dùng lời lẽ không lịch sự với bất cứ ai,
dù đôi khi tôi hay ai đó vô t́nh hoặc cố ư làm em giận.
Ba em nói với em “Ba thấy nó đi nhảy đầm, tay trái một con, tay mặt
một con”. Em trả lời “những ǵ ảnh làm lúc c̣n độc thân là quyền của
ảnh, con không cần biết (thật ra tôi đă kể em nghe hết rồi). Chỉ cần
biết hiện giờ hai đứa con thương nhau thật ḷng là được rồi”.
Em có cách hôn, chỉ phớt nhẹ, làm tôi hồn phi phách tán. Khi thấy
tôi buồn, em cầm tay tôi, xoa nhè nhẹ lên mu bàn tay, khiến tôi quên
hết mọi phiền năo. Sau này thành vợ thành chồng, em vẫn là người
t́nh tuyệt vời. Em biết cách làm tôi quên những nghiệt ngă mà tôi đă
trải qua trong ngày hôm đó.
Em biết tiết kiệm, vén khéo với số tiền mà chúng tôi kiếm được. Em
không se sua, dù luôn ăn mặc thanh lịch. Mỗi lần hai đứa ra đường là
tôi phải ngó trước nh́n sau, coi có tên nào nh́n lén em không. Khi
đứa con đầu ḷng của chúng tôi chào đời năm 1972, em tự nguyện bỏ
bớt chuyện mua sắm cho riêng ḿnh, để có đủ tiền cho con chúng tôi
bú sữa Guigoz 3 năm liên tục.
Cô Tiên đă là một người bạn, một người t́nh và là người vợ tuyệt vời
của tôi.
Được một người vợ như cô Tiên, em muốn ǵ được nấy không có ǵ quá
đáng.
Bán nhà cho em cũng được, huống chi là ba cái lẻ tẻ.
Tháng 4/1972, tôi hết hạn hoăn dịch, phải đi lính cho tới ngày tan
hàng.
Sau 75, có ngày hai đứa phải ăn sáng bằng… cơm nguội, nhưng em luôn
dành 1 hoặc 2 đồng cho con chúng tôi có gói xôi nóng hay tô cháo
huyết.
Cực nhất là lúc chúng tôi về quê tôi sống từ năm 1976 đến năm 1979.
Má tôi cho hai công ruộng và nửa công vườn, đủ cho gia đ́nh chúng
tôi sinh sống, không cần phải đi làm mướn, làm thuê. Nhưng không may
là hai năm 77-78, lũ lụt tràn vào ngập ruộng trước khi lúa chín.
Nông dân vùng Tân châu đói thể thảm. May mà tôi cất nhà sàn, cao
khoảng 1.5m, nên nước ngập lé đé sàn nhà.
Nhiều nông gia ở nhà đất, phải kê tủ giường lên cao, có người kê
giường tới gần đụng nóc nhà.
Mỗi ngày, cô Tiên ngồi trên sàn nước, miệt mài câu từng con cá chốt,
cá sặc, cá ḷng tong. Tôi không dám nh́n lâu. Đến bữa ăn chỉ có món
cá kho thập cẩm vậy mà thằng con khen “má kho cá ăn ngon”. Tôi mắc
nghẹn từng hồi. Rồi cũng qua.
Ở quê, em không cho con đi học, nói mấy ổng dốt mà dạy cái ǵ! Vợ
chồng tôi thay nhau dạy con nói và viết tiếng Việt, tiếng Pháp. Bài
học tiếng Việt đầu tiên là bốn câu thơ của ngài Lư Thường Kiệt :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Tiếng Pháp th́ chúng tôi dạy con nói và viết những câu chào hỏi
thông thường, không ngờ khi qua Úc nó học tiếng Anh nhanh hơn những
bạn tị nạn khác nhờ tiếng Pháp và tiếng Anh có nhiều chữ giống nhau.
Qua năm 79, tôi trúng mùa. Bán mấy chục giạ lúa, thêm chút tiền dành
dụm, mua được cái ghe nhỏ, tính chuyện lớn. Khoang ghe chỉ vừa đủ
cho hai người lớn và một đứa nhỏ chen vai nhau ngủ. Tôi không biết
chèo, tập cả tháng sau mới chèo được hai chèo. Em không biết lội
nhưng nhất quyết đ̣i đi đến những nơi có thể cho chúng tôi thấy được
tương lai. Em nói “ḿnh đă sống mấy năm ‘có miệng không nói lại câm,
hai hàng nước mắt chan dầm như mưa’. Đủ rồi, phải đi t́m tương lai
cho ḿnh và cho con”.
Vậy là đi. Chèo từ Tân châu tới Long xuyên mất hai ngày. Nghỉ xả hơi
một ngày rồi chèo tiếp tới Ô Môn, Cần Thơ, Ngă 7, Sóc Trăng, Hộ
Pḥng, Gành Hào, và sau cùng là ngă 3 cây Tàn. Ở ngă 3 cây Tàn hơn
một tháng v́ có người mướn tôi đào ao nuôi cá. Đào ao một tháng được
hai giạ gạo và một mớ tiền. Chúng tôi trở ra Gành hào v́ thấy nơi
này là nơi lư tưởng để ra đi. Tôi giấu dưới khoang ghe cái máy đuôi
tôm, thường ngày không dám sử dụng, sợ người ta ḍm ngó, định khi
nào đi mới xài.
Ở Gành Hào đêm trước, th́ đêm sau bị băo.
Mưa như trút nước, sấm chớp đầy trời. Chiếc ghe tôi lắc lư như người
say rượu, nửa đêm đứt dây buộc sào trôi ra giữa sông. May là lúc đó
nước lớn, nước từ ngoài biển đổ vô sông, nếu ngược lại th́ có thể
băo đă đưa chúng tôi qua Thái Lan hay hổng chừng… vô bụng cá. Tôi
cột sợi dây quanh bụng, cố gắng lội vô bờ.
H́nh như… lúc không c̣n cái ǵ để sợ nữa th́ ḿnh mạnh hơn b́nh
thường nên tôi đă kéo chiếc ghe tới dưới dạ cầu chợ Gành hào. Buộc
dây ghe lại đàng hoàng là tôi ngă lăn ra thở dốc, lạnh run cầm cập.
Em lau ḿnh cho tôi và đưa tôi cái bánh bía, hổng biết em mua lúc
nào, đúng là cô Tiên. Ăn cái bánh bía đêm đó, hương vị thơm ngon c̣n
phảng phất tới bây giờ.
Bye bye Gành hào, tôi gắn máy đuôi tôm chạy về Long Xuyên. Chúng tôi
ở Long Xuyên gần ba năm. Tôi làm bất cứ chuyện ǵ, miễn là lương
thiện, để có tiền nuôi vợ con. Có lúc đạp xe lôi, có lúc vác lúa gạo
ở các nhà máy xay lúa, có lúc làm tạp nhạp.
Đến tháng 2/1982, em t́m được đường dây ra nước ngoài vừa với khả
năng của vợ chồng tôi lúc đó. Cái may là chúng tôi chỉ đi một lần là
tới Mă Lai. Ở Bidong một tháng rưỡi là được phái đoàn Úc nhận. Qua
trại chuyển tiếp Sungei Besi2, ngoại ô Kuala Lumpur để khám bệnh, bổ
túc hồ sơ. Ba tháng rưỡi sau là chúng tôi có list đi Úc.
Vài ngày sau khi đặt chân lên đất Úc, lúc đó chúng tôi chỉ biết
tiếng Pháp chưa biết tiếng Anh. Em nói với tôi “moi không thích nhờ
thông dịch, nhà ḿnh phải có một người giỏi tiếng Anh, toi phải đi
học. Moi sẽ đi làm nuôi toi và con”! Nghe ghê chưa?
Mà em cũng không biết tiếng Anh th́ đi làm cái ǵ? Em quên ḿnh từng
là một tiểu thơ được cơm bưng nước rót, em quên ḿnh từng đi học có
xe đưa rước, em quên ḿnh là… cô tiên của tôi. nên ai mướn ǵ làm
nấy. Quét dọn nhà cửa cho người Úc, chăm sóc con em của đồng hương,
làm chả gị bán sĩ (không biết em học ở đâu mà làm chả gị và đổ
bánh xèo ngon nhất Darwin).
Tôi cũng đi làm ban ngày, đi học ban đêm. Bảy năm ṛng ră, tôi lấy
được 2 cái Certificates về kế toán và quản trị địa ốc và xin được
cái job “Security Administrator” tại trường đại học Charles Darwin
University ở Darwin đầu năm 1985. Tôi làm việc tại CDU liên tục hơn
27 năm, đến khi nghỉ hưu cuối năm 2012.
Em không đi học tiếng Anh một ngày nào nhưng sau này… lại làm thông
dịch cho bạn bè, nhiều nhất là mấy cô lấy chồng Úc, mới qua Úc chân
ướt chân ráo, t́m đến em nhờ giúp đỡ. Em chở họ đi làm hồ sơ nhập
cư, điền đơn xin tiền an sinh xă hội… Bà xă tôi thương đồng hương
nên ai nhờ th́ giúp, cứ ăn cơm nhà vác ngà voi, không đ̣i hỏi ai
phải trả đồng bạc nào dù biết làm thông dịch cũng được trả tiền. Mấy
cô vợ Úc thương em lắm, cuối tuần là ghé nhà tôi xào xào nấu nấu …
thật vui.
Hỏi em mới biết, em học tiếng Anh bằng cách theo dơi các chương
tŕnh Play School trên TV. Chương tŕnh này dạy con nít Úc nói/viết
tiếng Anh để chuẩn bị vô mẫu giáo. Em đọc báo tôi mang về mỗi ngày.
Không hiểu chữ nào, đoạn nào th́ em hỏi tôi hay tra tự điển.
Tiếu lâm nhất là khi bà hàng xóm nhờ em làm thông dịch. Bà này gốc Ư
(Italy), có chồng gốc Tây Ban Nha (Spain). Bà ta đến Úc theo diện vợ
chồng năm 1978 và không đi học ngày nào. Khi rảnh rỗi bà ta qua nói
chuyện với bà xă tôi. Bà ta nói “broken english” với giọng Ư nên tôi
và mọi người không ai hiểu cả. Vậy mà bà xă tôi hiểu nên mỗi lần bà
hàng xóm cần đi bác sĩ, hay bất cứ cơ quan công quyền nào ở Darwin
là qua năn nỉ nhà tôi theo làm thông dịch.
Một năm sau ngày đến Úc, tôi được bầu làm tổng thư kư Hội Người Việt
Tự Do tại Darwin, sau đổi tên thành CĐNVTD Bắc Úc cho tới bây giờ.
Tôi dính với các sinh hoạt của CĐ ḿnh cho tới năm 2017 mới rút chân
ra được. Suốt thời gian này, bất cứ tôi làm cái ǵ đều có sự giúp
đỡ, yểm trợ khi công khai khi âm thầm của cô Tiên.
Đứa con thứ hai của chúng tôi chào đời năm 1984 tại Darwin. Nh́n em
cho con bú, tắm rửa cho con, nâng niu thằng nhỏ như vàng như ngọc,
tôi nhớ lại những ngày hai đứa mới thương nhau, mỗi lần bên nhau là
bàn chuyện mai này… tôi viết bài thơ tặng em.
Một chiều lăng đăng ánh tà dương
Em kể anh nghe chuyện mộng thường
Đôi mắt em nh́n xao xuyến quá
Như sao lấp lánh một trời thương.
Từ đó đời ḿnh hết lẻ loi
Đan tay qua phố bước chung đôi
Em cười rạng rỡ như tiên nữ
Tiên nữ của anh – cũng được rồi.
Từ đó đời ḿnh ươm ước mơ
Từng đêm anh cắn bút làm thơ
Mỗi ḍng ôm ấp ngàn thương nhớ
Thương nhớ lớn theo nổi đợi chờ.
Từ đó ḿnh bàn chuyện lứa đôi
Mai này, ḿnh có hai con thôi
Trưởng nam, phần nó lo hương hỏa
Em nó, cô Ba – có rượu mời.
Từ đó ḿnh bàn chuyện cưới nhau
Anh giành chọn áo cưới cô dâu
Màu vàng, hoàng hậu ḷng anh đó
Em nói : – Màu hồng, áo cô dâu!
Từ lúc về làm vợ của anh
Âm thầm ḿnh kết mộng ngày xanh
Trưởng nam bật khóc, cưng như ngọc
Đứa kế trai luôn, quư tựa vàng.
Nhiều đêm nằm gác tay lên trán
Anh cám ơn Trời, cám ơn em
Bảy nổi ba ch́m ḿnh chẳng ngán
V́ em có anh, anh có em.
Từ năm 2005 đến năm 2015, chúng tôi tổ chức những bữa ăn cứu trợ
Thương Phế Binh c̣n sống khổ sở nơi quê ḿnh bằng cách… tổ chức BBQ
tại nhà tôi. Thức ăn do bà xă tôi và vài người bạn thân cùng chung
sức nấu nướng, tôi bỏ tiền túi mua bia và nước giải khát. Ăn uống
free. Tôi để 1 cái “Thùng Cứu trợ” trên bàn, ai cho bao nhiêu, tôi
gởi về VN giúp anh em thương phế binh bấy nhiêu, theo tiêu chuẩn mỗi
người 100 Úc kim.
V́ số người Việt ở Darwin rất khiêm nhường, chỉ có vài trăm người,
nên lúc đầu chỉ được vài ngàn. Từ từ, bà con tin tưởng nên khi có
dịp đi ngang nhà tôi là họ bỏ tiền vô thùng thơ, không đợi đến Bữa
ăn Cứu trợ.
Gơ máy tới đây, bỗng nhiên làm biếng… không muốn gơ máy nữa, v́ đang
nhớ cô Tiên, nhớ quá xá nhớ.
Cô Tiên của tôi đă về trời sau khi đă cùng sống chung với cha con
tôi 43 năm, 3 tháng, 27 ngày hạnh phúc. Em quy tiên sau một cơn bạo
bệnh. Từ một người mạnh khỏe b́nh thường, đúng 5 tuần sau thành
người thiên cổ.
Trong những ngày cuối của cuộc sống nơi dương thế, khi thấy hai con
đứng nh́n em, nước mắt lưng tṛng, em cầm tay con lắc lắc, mỉm cười
nói: “Chúa cũng chết, Phật cũng chết, th́ Má cũng chết. Má đă trả
xong món nợ ân t́nh với Ba con và các con th́ Má đi. Con trai khóc…
xấu lắm”. Con tôi quẹt nước mắt… miệng cười méo xẹo.
Trong Hospice Hospital, nơi dành cho những bệnh nhân… “terminally
ill”, mỗi ngày có y tá đến đánh răng và lau ḿnh cho em. Có một lần
em cám ơn họ “Thanks so much for keeping my body clean. I know it’s
shutting down”. Cô y tá người Úc trợn mắt nh́n em, rưng rưng nước
mắt. Sau này, cô nói với tôi “Tao chưa thấy ai sắp chết mà c̣n lịch
sự và tỉnh táo như vợ mầy”.
Khi biết ḿnh sắp trả xong cái nghiệp ở dương gian, em nắm tay tôi
dặn ḍ phải tổ chức tang lễ em như thế nào. Thỉnh vị tăng ni nào chủ
tŕ tang lễ, xong phải hỏa thiêu và chỉ giữ tro cốt 100 ngày. Sau đó
mang tro cốt em rải trên sông Parramatta, đoạn gần Opéra House ở
Sydney, là nơi em thích đi dạo mỗi lần đi thăm con. Em nói nhỏ nhẹ
như đang lo tang lễ của ai khác. Tôi chỉ biết im lặng gật đầu, ráng
kềm cho nước mắt đừng chảy ra. Tôi đă làm đúng theo lời em dặn.
Từ ngày cô Tiên về trời, cha con tôi đứt ruột đứt gan, tan nát trong
ḷng. Tôi đă sống những ngày như người chết chưa chôn.
Buu Nguyen
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Cố
Thiếu Tướng Trương Quang Ân
Thủ
Đức vang tiếng gọi
Vũ Hoàng
Chương
Giai nhân tự cổ…
Mẹ chồng,
nàng dâu
Lính thư sinh
Thư gởi Ba
F1, F2, F3..!?
Cao nhân
Lính Rùa...!?
Bước đường tị nạn tại Mỹ vào năm 1975
Bảy
tháng giữa xác người
Một thời oan trái
Cuối đời của Nam Phương Hoàng hậu tại Pháp
Người muôn
năm cũ
Đưa vợ đi đẻ
Câu chuyện của nữ HQ Đại Tá Quân Y Mỹ gốc
Việt
Úc trang bị tàu ngầm hạt nhân Mỹ
Sống "bụi"
Đêm kinh
hoàng
Bài thơ phá giặc xâm lăng nhà Tống
Sự
tích bài thơ "Trèo lên cây bưởi hái hoa"
Thằng gà chết
Năm Gà Mổ
Tay muốn chạm tay
Pleiku, thơ và thi
nhân
Tính trước
Trận Pleime năm 1974
Không quên người chiền sĩ QLVNCH
Áo học tṛ và áo trận
Lê Bá Định, vị NT Không Quân khả kính
Động
cơ T53-L-13 của trực thăng UH-1
Câu
chuyện ‘Áo Lụa Hà Đông’
Một thời
vang bóng
Khép một vầng trăng
Sứ mệnh văn
hóa
Một cơn ác mộng
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên
Người tù
đi gánh củi
Chuyến vượt biên của tôi
BV B́nh Dân những ngày khói lửa tháng 4-1975
Tưởng chừng đă quên
30 tháng 4
năm 1975 chị ở đâu?
Hào kiệt
phương Nam - HQ Tr/Ta Ha Ngoc Lương
Hai người lính Dù
Tưởng niệm tháng tư đen lần thứ 46!
Một cơn ác mộng
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên
Hồi kư "Dang
Dở"
Sự trả thù đê hèn và dă man của VC
Về Thăm quê cũ
Buổi điểm danh cuối cùng
Mai vẫn nở
trên điêu tàn của Huế
Thằng "Nước Mắm"
Những
mảng màu khô
Chữ nghĩa
bây giờ
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Thiên lư tương ngộ
Một cái Tết khó quên
Tản mạn về “Trâu” qua Ca Dao VN
Thăm lại đồi Charlie: Nghe người đi, linh
hồn ở lại
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Sóng bạc đầu
Viết về Trâu
Phi vụ tàu phép
Tâm t́nh của một người trẻ...
Trong cơn lốc đời
Mỹ nhân và danh tướng
Như
một gịng sông
Môt chuyến đi Hawaii
Chuyện t́nh đẫm lệ thời chinh chiến
Ba bỏ mẹ con đi rồi