Những bài viết của Bất Khuất

Màu áo cũ - Video
Mang theo quê hương  - Video
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

Vũ Hoàng Chương

"Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư,
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do"

Sau Tháng 4, 1975 việc đầu tiên Cộng sản làm là đổi tên Đô Thành Sài G̣n thành Thành phố Hồ Chí Minh, cùng đó là hàng loạt con đường ở Sài G̣n cũng đổi tên theo, như Gia Long đổi thành Nguyễn Văn Trỗi, Hồng Thập Tự thành Nguyễn Thị Minh Khai, Công Lư thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Tự Do thành Đồng Khởi,...

(Việc đổi tên Saigon sang Tp. HCM không phải sau năm 1975 Việt cộng mới nghĩ đến mà nó đă có chủ đích từ khi Saigon c̣n thuộc quyền VNCH, việc này là học theo Liên Xô: Đổi tên Thành phố Saint Petersburg sang Leningrad, tên của lănh đạo Lenin. Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ, địa danh ban đầu Saint Petersburg được khôi phục lại sau một cuộc trưng cầu dân ư.

Cám cảnh trước thời thế đó, Vũ Hoàng Chương đă làm 2 câu thơ:

"Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do"

Hai câu thơ có hàm chứa cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Và nó được ra đời quanh câu chuyện như sau:

Hồi những năm trước kháng chiến, trong Phong trào thơ mới (những năm 1932 - 1945) có 2 người bạn chơi với nhau khá thân là Vũ Hoàng Chương và Huy Cận. Một hôm Huy Cận bất ngờ gặp Vũ Hoàng Chương và rủ nhau đi ăn phở. V́ mới ra tập thơ đầu lại cũng có ư thân mật nên Huy Cận nửa đùa nửa thật vỗ vai Vũ Hoàng Chương nói rằng:

“Đă lâu lại gặp chàng Say
Lửa Thiêng xin đốt chờ Mây xuống trần"

Vũ Hoàng Chương cũng hơi khựng một chút, nhưng vui vẻ đáp ngay:

"Mây kia chẳng chịu xuống trần
Lửa ơi theo khói lên gần với Mây"

(Say, Mây, Lửa Thiêng trong những câu thơ nói trên là ngụ ư nói đến mấy tập thơ "Thơ Say", "Mây" của Vũ Hoàng Chương và "Lửa Thiêng" của Huy Cận)

Hai người đối đáp với nhau như thế, vừa có ư kiêu ngạo, vừa có ư thân thiện, thật xứng đôi.

Rồi thời gian trôi qua, năm 1946 Huy Cận ra bưng theo kháng chiến, dùng thi tài để phục vụ Cộng sản.

(Và sau này, Huy Cận đă giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy lănh đạo như: Bộ trưởng Bộ Văn hóa Nghệ thuật, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ Kinh tế,...Nhưng đời trớ trêu, con trai Huy Cận, Cù Huy Hà Vũ lại là người chống Cộng và bị khép tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng ḥa Xă hội chủ nghĩa Việt Nam" vào năm 2010 và hiện nay đang tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ).

C̣n Vũ Hoàng Chương th́ chạy tản cư, cũng có làm một số bài thơ ái quốc, nhưng sau đó hồi cư về lại Hà Nội rồi di cư vào Sài G̣n theo hiệp định Genneve năm 1954, vẫn tiếp tục làm thơ và dạy học.

...Rồi chiến tranh, rồi dẫn đến biến cố tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam tan vỡ, Sài G̣n thất thủ, Việt Nam Cộng Ḥa trở thành kẻ chiến bại...

Sau biến cố đó, Huy Cận được cử vào Sài G̣n cùng với một phái đoàn với mục đích thăm ḍ và "chiêu hàng" các văn nghệ sĩ miền Nam.

Người đầu tiên Huy Cận muốn gặp là Vũ Hoàng Chương. Hai người bạn cũ gặp nhau sau 20 năm giữa đôi bờ chiến tuyến Quốc gia - Cộng sản. V́ nghĩ có thể chiêu dụ được Vũ nên Huy Cận đă sửa soạn cuộc thăm viếng rất trọng thể. Lễ vật Huy Cận mang đến thăm Vũ Hoàng Chương gồm một chai rượu quí, một lọ đầy thuốc phiện và cũng không quên mang theo một bức chân dung "Bác Hồ". Rượu và thuốc th́ để biếu bạn, c̣n bức h́nh, Huy Cận mong ước sẽ được Vũ Hoàng Chương đề tặng cho mấy vần thơ ca ngợi lên bức chân dung "Bác Hồ".

Cuộc gặp gỡ diễn ra tốt đẹp. Vũ Hoàng Chương đón Huy Cận như một người bạn cố tri nồng nàn vui vẻ. Đến khi Huy Cận ngỏ ư muốn Vũ đề thơ th́ Ông trầm mặc không nói ǵ. Huy Cận khi ra về có hẹn ba ngày sau sẽ cho người đến xin lại bức h́nh, Vũ Hoàng Chương cũng chỉ ậm ừ tiễn bạn.

Đúng ba ngày sau khi nhân viên của Huy Cận tới th́ thấy trên bàn vẫn c̣n y nguyên hai món lễ vật và bức h́nh, Vũ Hoàng Chương không hề đụng tới mặc dù rượu với thuốc phiện đối với Ông là rất quí hiếm. C̣n bức h́nh th́ vẫn chỉ là bức h́nh như khi đem tới, không một nét chữ được đề.

Được báo cáo lại, Huy Cận giận tím mặt. Nhưng vốn biết tính họ Vũ là người không dễ lung lạc nên Huy Cận cũng đành thôi. Nhưng cái họa cũng đă có mầm cớ để năy sinh từ đó.

Và cái họa nó đă thật sự đến khi Vũ Hoàng Chương dám thẳng thắng nhận xét thơ Tố Hữu giữa những "sĩ phu Bắc Hà".

Trong phái đoàn từ Bắc vô Nam cùng với Huy Cận c̣n có nhiều nhân vật tên tuổi như: Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu,...Phái đoàn này được kư giả (nằm vùng) Thanh Nghị tiếp đón và tổ chức một đêm "Họp mặt văn nghệ" để đánh giá Văn hóa hai miền, ngơ hầu thống nhất tư tưởng về một mối.

Buổi họp này Vũ Hoàng Chương đă được mời và có tham dự. Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố Hữu đă làm khóc Stalin, khi tên "diệt chủng" Stalin này chết vào năm 1953:

"Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười"

Sau những lời tán dương, ca tụng, để cho xôm tụ, diễn đàn cũng cần có tiếng nói từ miền Nam, Vũ Hoàng Chương dù đă từ chối, nhưng sau những lời mời khẩn khoản từ Hoài Thanh cũng đă đưa ra lời b́nh:

“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của ḿnh, để hồn trí phản ứng theo thất t́nh con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một t́nh tự nào đó, rồi đăi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được 'đóng khung' tự bao giờ trong tâm cảnh ḿnh, Tố Hữu đă xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đăi lọc nỗi u hoài của ḿnh thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng, tôi chịu...

Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đă có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế th́ thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của t́nh tự phổ diễn nên lời. T́nh tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ, nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính ḿnh vào miệng một bà mẹ Việt Nam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việt Nam yêu cụ Stalin thay cho ḿnh. Cũng chẳng sao v́ đó cũng là một kỹ thuật của thi ca; nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việt Nam có cùng tâm cảnh với ḿnh không, có chung một mối cảm xúc hay không? Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài 'Đời đời nhớ Ông' Tố Hữu đă đặt vào lời bà mẹ hai câu:

'Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu ḷng con gọi Stalin'

Chắc chắn là không có một bà mẹ Việt Nam nào, kể cả bà Tố Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một t́nh tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm; đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đ̣i hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một ḿnh. Nhưng bà mẹ Việt Nam trong bài đă khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm".

Lời nhận định của Vũ Hoàng Chương đă gây sôi nổi trong thính giả có mặt hôm đó.. Muốn phản bác luận điệu của họ Vũ, có người đă yêu cầu Ông nói về thơ để ḥng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:

"Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những t́nh tự thực. Không chấp nhận loại thơ t́nh tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo; nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lư cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.

Tôi xin nhắc: Sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca, v́ có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lư cuộc sống".

Sau đêm ấy, dường như có một buổi họp khẩn cấp của các "nhân vật then chốt" và Vũ Hoàng Chương đă bị bắt và bị giam ở khám Chí Ḥa.

Vũ Hoàng Chương bị bắt v́ tội danh ǵ? Là "Biệt kích văn nghệ" như hàng trăm Văn nghệ sĩ khác ở miền Nam sau biến cố 30 tháng 4 đă bị khép tội như thế? Hay v́ tội yêu tự do không luồn cúi, nói thẳng và dám dạy khôn bên thắng cuộc?

Và nghe đâu, hai câu thơ: "Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lư / Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do" được nhà thơ Vũ Hoàng Chương làm trong lúc đi tù ở khám Chí Ḥa, đọc cho những bạn tù, những quân dân cán chính VNCH mất tự do nghe.

P.s: Có nhiều người biết 2 câu thơ trên nhưng không biết tác giả là ai, giống như ca dao khuyết danh, không rơ tác giả; Có người cho rằng Vũ Hoàng Chương v́ làm 2 câu thơ trên mà bị bắt đi tù; Có người cho rằng Ông làm 2 câu thơ ấy trong tù. Riêng tôi, tôi nghĩ Ông làm 2 câu thơ ấy ở trong tù th́ hợp lư hơn, v́ trong hoàn cảnh mất tự do th́ Ông mới làm ra những câu thơ “mất tự do” như vậy.
(Copy from FB Phạm Văn Đức)
----------------------------------------------------------
TỐ HỮU "GIẢI PHÓNG" VĂN NGHỆ SĨ MIỀN NAM
Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của nhà thơ Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 năm 1916 – 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam, với văn phong được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông Phương. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.

Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937.

Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm th́ bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm.

Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Pḥng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đ́nh về Thái B́nh, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975. Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng tác ở Sài G̣n.

Vũ Hoàng Chương với Tố Hữu là bạn nhưng Vũ Hoàng Chương lớn hơn Tố Hữu vài tuổi. Năm 1946 Huy Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của ḿnh để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đă leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ Hoàng Chương không theo kháng chiến, sau hiệp định Genève năm 1954 di cư vào Sài G̣n tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.

Năm 1976, Huy Cận được cộng sản cử vào Sài G̣n cùng với một phái đoàn gồm có Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Vũ Đ́nh Liên, ..., với mục đích thăm ḍ và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.

Phái đoàn được Thanh Nghị kư giả (một cộng sản nằm vùng) tiếp đón và tổ chức một đêm "họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngơ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ Hoàng Chương đă được mời và ông đă tham dự.

Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố Hữu đă làm để khóc Stalin chết vào năm 1953. Hai câu thơ đă gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp với Tố Hữu:

“Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương ḿnh thương một, thương ông thương mười".

Hoài Thanh mời Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ của Miền Nam góp ư. Vũ Hoàng Chương đă yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố v́ ông sợ rằng những ǵ ông muốn tŕnh bày sẽ làm tổn thương cái "sáng giá" của đêm họp "văn nghệ đặc biệt" này. Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:

“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của ḿnh, để hồn trí phản ứng theo thất t́nh con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một t́nh tự nào đó, rồi đăi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được "đóng khung" tự bao giờ trong tâm cảnh ḿnh, Tố Hữu đă xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đăi lọc nỗi u hoài của ḿnh thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao... Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đă có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế th́ thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của t́nh tự phổ diễn nên lời. T́nh tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép...

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính ḿnh vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho ḿnh. Cũng chẳng sao v́ đó cũng là một kỹ thuật của thi ca. Nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với ḿnh không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài "Đời Đời Nhớ Ông", Tố Hữu đă đặt vào lời bà mẹ hai câu:

“Yêu biết mấy nghe con tập nói

Tiếng đầu ḷng con gọi Stalin"

Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một t́nh tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đ̣i hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một ḿnh. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đă khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm".

Lời phê b́nh của Vũ Hoàng Chương đă gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ Hoàng Chương, có người đă yêu cầu Ông nói về thơ để ḥng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:

“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những t́nh tự thực. Không chấp nhận loại thơ t́nh tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lư cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.

“Tôi xin nhắc, sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca. V́ có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lư cuộc sống".

Tố Hữu không ngờ bị Vũ Hoàng Chương chê bai là nịnh hót Stalin nên bực tức. Sau đêm đó, Vũ Hoàng Chương đă bị công an nửa đêm ngày 3/4/1976, tràn vào nhà bắt giam tại khám Chí Hoà nhốt chung với BS Phan Huy Quát (cựu Thủ Tướng VNCH).

Trong nhà tù bị hành hạ, ăn uống thiếu thốn, bệnh không có thuốc uống nên ông kiệt sức, cộng sản biết ông sắp chết nên thả về. Chỉ 5 ngày sau đó, ngày 6/9/1976 th́ ông qua đời... Việt Nam đă mất đi một thi nhân tài hoa, bởi bàn tay sắt máu của Tố Hữu.

Fb Ngọc Tuyên Đàm

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Một Thoáng “AT ... TEN”  
 

Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu nhất
Lạc giữa mùa xuân
Cố Thiếu Tướng Trương Quang Ân  
Thủ Đức vang tiếng gọi  
Vũ Hoàng Chương  
Giai nhân tự cổ…  
Mẹ chồng, nàng dâu  
Lính thư sinh  
Thư gởi Ba  
F1, F2, F3..!?  
Cao nhân
Lính Rùa...!?  
Bước đường tị nạn tại Mỹ vào năm 1975  
Bảy tháng giữa xác người  
Một thời oan trái
Cuối đời của Nam Phương Hoàng hậu tại Pháp  
Người muôn năm cũ  
Đưa vợ đi đẻ 
Câu chuyện của nữ HQ Đại Tá Quân Y Mỹ gốc Việt  
Úc trang bị tàu ngầm hạt nhân Mỹ  
Sống "bụi"  
Đêm kinh hoàng

Bài thơ phá giặc xâm lăng nhà Tống
Sự tích bài thơ "Trèo lên cây bưởi hái hoa"
Thằng gà chết
Năm Gà Mổ
Tay muốn chạm tay
Pleiku, thơ và thi nhân
Tính trước  
Trận Pleime năm 1974
Không quên người chiền sĩ QLVNCH
Áo học tṛ và áo trận
Lê Bá Định, vị NT Không Quân khả kính  
Động cơ T53-L-13 của trực thăng UH-1  
Câu chuyện ‘Áo Lụa Hà Đông’  
Một thời vang bóng  
Khép một vầng trăng  
Sứ mệnh văn hóa  
Một cơn ác mộng  
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên  
Người tù đi gánh củi
Chuyến vượt biên của tôi
BV B́nh Dân những ngày khói lửa tháng 4-1975
Tưởng chừng đă quên
30 tháng 4 năm 1975 chị ở đâu?
Hào kiệt phương Nam - HQ Tr/Ta Ha Ngoc Lương
Hai người lính Dù
Tưởng niệm tháng tư đen lần thứ 46!
Một cơn ác mộng
T́nh yêu giữa tôi và nàng tiên  
Hồi kư "Dang Dở"  
Sự trả thù đê hèn và dă man của VC
Về Thăm quê cũ  
Buổi điểm danh cuối cùng  
Mai vẫn nở trên điêu tàn của Huế
Thằng "Nước Mắm"
Những mảng màu khô
Chữ nghĩa bây giờ
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...  
Thiên lư tương ngộ  
Một cái Tết khó quên  
Tản mạn về “Trâu” qua Ca Dao VN  
Thăm lại đồi Charlie: Nghe người đi, linh hồn ở lại  
Đêm xuân nào tôi đến thăm anh
Sóng bạc đầu
Viết về Trâu  
Phi vụ tàu phép  
Tâm t́nh của một người trẻ...  
Trong cơn lốc đời  
Mỹ nhân và danh tướng  
Như một gịng sông  
Môt chuyến đi Hawaii  
Chuyện t́nh đẫm lệ thời chinh chiến  
Ba bỏ mẹ con đi rồi
Lăng kính dân tộc tôi...
Môt chuyến đi Hawaii  
Chuyện t́nh đẫm lệ thời chinh chiến  
Ba bỏ mẹ con đi rồi