Sự Thực Về Cái Gọi Là "Đại Thắng Mùa Xuân"

Trần Bá Hợi

Tháng 7 năm 1976, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân đúc kết những câu chuyện của tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đă kể trên báo Nhân Dân và phát hành cuốn Đại Thắng Mùa Xuân. Khởi đầu, lời nhà xuất bản đă sặc mùi tuyên truyền rẻ tiền như sau: "Cuốn Đại Thắng Mùa Xuân xuất bản góp phần giúp chúng ta hiểu rơ sự chỉ đạo đứng đắn, sáng suốt, kiên quyết, nhạy bén của Bộ Chính Trị Trung ương Đảng và Quân Uỷ Trung Ương, đường lối và nghệ thuật quân sự xuất sắc của Đảng ta, đồng thời góp phần cổ vũ quân và dân ta phát huy truyền thống anh hùng, nâng cao ḷng tự hào, tin tưởng, tiến lên giành nhiều thắng lợi mới trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xă hội trên cả nước."

Và ngay trong lời nói đầu, tướng Dũng đă bịa đặt huênh hoang: "Một năm đă qua kể từ ngày cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975 giành toàn thắng, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam."

Đoạn áp kết tướng Dũng tiếp tục xuyên tạc sự thực: "Cuốn sách này c̣n nhằm kịp thời bác bỏ những luận điểm sai trái, phản động do những kẻ xuyên tạc lịch sử, những bọn cướp nước và bán nước thua trận đang dựng lên ḥng bào chữa cho thất bại thảm hại của chúng và hạ thấp chiến thắng của dân tộc ta."

Khi phát hành cuốn sách đầy luận điệu tuyên truyền vô giá trị nêu trên 31 năm về trước, có lẽ nhà xuất bản, tướng Dũng và đảng cộng sản Bắc Việt nghĩ rằng những sự thực về cuộc chiến quốc cộng từ 1954 đến 1975 sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi theo thời gian. Do đó, họ nghĩ rằng họ có thể xuyên tạc sự thực để bóp méo lịch sử. Đảng cộng sản tại Hà Nội lại càng muốn che dấu sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê và man rợ tấn công Việt Nam Cộng Ḥa sau khi đă kư kết Hiệp Định tại Ba Lê ngày 27 tháng 1 năm 1973. Họ cố gắng lừa bịp hậu thế hầu trốn tránh tội lỗi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Ḥa bằng chiêu bài chống đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam. Sau khi cuộc chiến chấm dứt, Việt Nam đă lâm vào t́nh trạng nghèo đói khủng khiếp. Kinh tế bế tắc trầm trọng đến độ chủ nghĩa Mác Lê và đỉnh cao trí tuệ của đảng cộng sản Bắc Việt không cứu văn nổi. Người Việt quốc gia di tản ra hải ngoại để tránh nạn cộng sản đă phải gửi tiền và phẩm vật về để cưu mang thân nhân và bằng hữu c̣n kẹt lại. Dân chúng từ Nam ra Bắc đă thấy rơ Hoa Kỳ không hề xâm lăng Việt Nam để áp đặt chế độ thực dân như đảng tuyên truyền. Và toàn dân đều mong muốn Hoa Kỳ trở lại Việt Nam để đời sống được dễ thở hơn. Nếu không có nguồn tài trợ của người Việt quốc gia hải ngoại và nếu Hoa Kỳ không băi bỏ cấm vận năm 1994 mở đường cho nhiều nguồn đầu tư từ Hoa Kỳ và các quốc gia khác vào Việt Nam, chắc chắn chế độ cộng sản không tránh khỏi nạn nghèo đói thảm khốc. Chiêu bài "Chống Mỹ Cứu Nước" trước đây của đảng đă lộ nguyên h́nh là mánh khoé tuyên truyền bịp bợm. V́ đảng và toàn dân hai miền Nam Bắc đă và đang Van Xin Mỹ Trở Lại Để Cứu Nước.

Khi viết những ḍng này, một vài chiến hữu cũa tôi đề nghị nên bỏ qua chuyện cũ. Với tinh thần dân tộc cực đoan, họ muốn cứ để nhập nhằng như vậy rồi sau này lịch sử sẽ ghi rằng Việt Nam đă đánh bại quân Pháp và đập tan đế quốc Mỹ cho rạng danh dân Việt. Tôi tôn trọng ư kiến của vài bạn đó, nhưng không thể toa rập với nhóm người lănh đạo cộng sản Bắc Việt để bóp méo lịch sử. Là người Viêt, tôi rất tự hào về quá tŕnh chống ngoại xâm của tiền nhân. Tôi thường hănh diện kể lại cho các bạn Hoa Kỳ đồng sở về những chiến công hiển hách của tổ tiên nhiều lần đại thắng đám xâm lăng hung hăn từ phương Bắc. Những Thành Cát Tư Hăn, Thoát Hoan, Hốt Tất Liệt và nhiều nữa đă bao phen đại bại trước những danh tướng Việt. Tôi hănh diện v́ tổ tiên tôi đă chiến đấu chống ngoại xâm thực sự và chiến đấu với ḷng ái quốc chân chính cùng với chiến thuật, chiến lược vàphương tiện độc lập . Nhưng tôi không hănh diện với nhóm lănh đạo cộng sản Bắc Việt hay xuyên tạc và gian dối!!! Một sự thực lịch sử khó chối bỏ là nếu không có cuộc Nhật đảo chánh Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Minh không thể trục được Pháp ra khỏi Việt Nam. Nhưng nhóm lănh đạo Việt Minh đă mạo nhận như chính họ đă giành lại độc lập cho quốc gia. Về chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 họ đă lừa bịp quần chúng như chính họ đă đơn phương chiến thắng quân Pháp. Sự thực Việt Minh được Trung Cộng cố vấn và viện trợ tối đa nhưng họ đă cố t́nh che dấu. Với sự cố vấn của hai tướng Trung Cộng Wei Guo-qing và Li Cheng-hu, Vơ Nguyên Giáp phát động chiến thuật biển người tấn công Điện Biên Phủ. Nhưng chỉ trong ba ngày đầu, từ 13 đến 16 tháng 3, tướng Giáp đă nướng 9000 quân trong đó có 2000 tử vong (1). Kể cả cái gọi là Đại Thắng Mùa Xuân mà tướng Dũng huyênh hoang cũng không đáng được coi là một chiến thắng vẻ vang. Đó thực ra chỉ là một kết quả tất nhiên khi Hoa Kỳ, đồng minh của Việt Nam Cộng Ḥa, thay đổi chính sách đối ngoại. Để tái lập bang giao với Trung Cộng hầu khai thác thị trường to lớn trong lục địa, ngoài việc không muốn tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt, Hoa Kỳ c̣n rút quân và bỏ ngỏ Việt Nam Cộng Ḥa. Sau đó Hoa Kỳ cắt quân viện cho Việt Nam Cộng Ḥa trong khi cộng sản Bắc Việt được Nga và Tầu Cộng tiếp tục yểm trợ tối đa để cưỡng chiếm miền Nam. Trong hoàn cảnh thiếu thốn tận cùng về vũ khí và nhiên liệu, không riêng ǵ Việt Nam Cộng Ḥa mà bất cứ quân lực của một quốc gia nào vào hoàn cảnh tương tự cũng phải chịu bó tay. Tương quan hỏa lực và phương tiện giữa hai phe lâm chiến quá chênh lệch.

Một thực tế đau ḷng không phủ nhận được là Việt Nam Cộng Ḥa chịu nhiều thiệt tḥi từ khi Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến tại Nam Việt Nam. Về chính nghĩa, Hoa Kỳ tạo cơ hội cho Cộng sản Bắc Việt dùng chiêu bài "Chống Mỹ Cứu Nước" để lừa dối dân chúng miền Bắc. Về tâm lư, dân chúng Hoa Kỳ bị xúc động mạnh v́ sự tổn thất nặng về nhân mạng. Về quân sự, kinh phí nuôi dưỡng hơn nửa triệu quân Hoa Kỳ theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ thật quá cao (2). Thêm nữa, sự hiện diện của Bộ Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại miền Nam đă khiến Việt Nam Cộng Ḥa gần như bị tước đoạt đi sự độc lập về quyết định chiến thuật, chiến lược của cuộc chiến. Việt Nam Cộng Ḥa chưa bao giờ được đơn phương hành quân trên không hoặc dưới bộ ra miền Bắc. Sau vụ đụng độ giữa Hoa Kỳ và cộng sản tại Vịnh Bắc Việt ngày 2 tháng 8 năm 1964, Hoa Kỳ quyết định oanh tạc miền Bắc để trả đũa nhưng rất giới hạn. Sau đó, tới ngày 8 tháng 2 năm 1965 Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa mới được tham dự chiến dịch oanh tạc miền Bắc lần đầu tiên nhưng rất hạn chế. Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa không được quyền chọn lựa mục tiêu để oanh tạc và không được vượt quá vĩ tuyến 19 đă định bởi Hoa Kỳ. Chính Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ cùng Không Lực và Hải Quân cũng không được toàn quyền quyết định. Tất cả mục tiêu quan trọng dù mới hay cũ đều phải do chính Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson chấp thuận mới được oanh kích (3). Người viết đă thi hành nhiều phi vụ oanh kích ngày và đêm trên lănh thổ Bắc Việt nhưng chưa bao giờ được phép bay qua vĩ tuyến 19. Sau đó ít lâu, Không Lực Việt Nam Cộng Ḥa hoàn toàn không được phép oanh kích trên miền Bắc. Đă không có thực quyền lănh đạo cuộc chiến, Việt Nam Cộng Ḥa c̣n bị ảnh hưởng tai hại bởi đám báo chí thiên tả và nội t́nh chính trị rối loạn của đồng minh Hoa Kỳ. Thiển nghĩ, nếu Hoa Kỳ chỉ cần trang bị hiện đại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, tăng quân số lên mức cần thiết và chỉ đóng vai tṛ cố vấn khách quan, kết quả cuộc chiến có thể đă khác biệt rất nhiều.

Trong khoảng hơn một thập niên vừa qua, rất nhiều tài liệu tối mật của Hoa Kỳ liên hệ tới cuộc chiến đă được giải mật. Một trong số những tài liệu vô cùng quan trọng liên hệ tới vận mệnh Việt Nam Cộng Ḥa là biên bản buổi họp ngày 20 tháng 6 năm 1972 tại Bắc kinh (4). Trong buổi họp này, Tiến Sĩ Henry Kissinger, Phụ Tá An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon, và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai đă thảo luận nhiều vấn đề thế giới và đặc biệt là giải quyết cuộc chiến Việt Nam. Tài liệu gồm 37 trang dưới đây cho thấy sức mạnh và ảnh hưởng của các cường quốc trên thế giới. Từ trang 1 đến trang 26, Hoa Kỳ và Trung Cộng bàn thảo về tương quan giữa các quốc gia cùng an ninh toàn cầu. Đặc biệt từ trang 27 đến trang chót, Kissinger và Chu Ân Lai bàn luận kế hoạch giải quyết vấn đề Đông Dương. Khai thác sự rạn nứt Trung - Nga năm 1969, Hoa Kỳ muốn tái lập bang giao với Trung Cộng. Bang giao với Trung Cộng sẽ giúp Hoa Kỳ chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, lấy lại hết tù binh, giải quyết những bất ổn chính trị tại Hoa Kỳ và c̣n được khai thác thị trường to lớn trong lục địa. Để tái thiết ngoại giao với Trung Hoa, Kissinger đă nói với Thủ Tướng họ Chu: "Nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương". Ngoài ra Kissinger cũng gián tiếp cam kết với Chu Ân Lai Hoa Kỳ không có ư định tiêu diệt hoặc đánh bại cộng sản Bắc Việt. Hiển nhiên đây là ngôn ngữ của kẻ mạnh. Và cũng là một phản bác hùng hồn lột trần những luận điệu trơ trẽn, lộng ngôn và khoác lác của nhóm lănh đạo cộng sản Bắc Việt cố t́nh thổi phồng một chiến thắng đă được Hoa Kỳ dàn xếp và bố thí. Ngoài ra tôi lại có dịp về thăm Hà Nội vào mùa hè năm 1999 sau 45 năm xa cách. Trong thời gian này tôi có dịp gặp vài sĩ quan cao cấp của quân đội nhân dân đă về hưu, và một số cư dân Hà Nội ở tuổi trên dưới 60. Trong số những sĩ quan này có người đă từng tham chiến trong trận Điện Biên Phủ. Sau khi có dịp tham quan Sàig̣n họ đều tỏ ra rất ngạc nhiên v́ miền Nam thịnh vượng quá. Theo nhận xét của họ, miền Nam đă đi trước miền Bắc cả mấy chục năm, đâu có nghèo đói và lạc hậu như đảng tuyên truyền. Đa số cư dân Hà Nội cho biết là vào mùa Giáng Sinh năm 1972, nếu Hoa Kỳ tiếp tục oanh tạc miền Bắc thêm vài ngày nữa, Hà Nội sẽ phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào Hoa Kỳ đưa ra.

Là một cựu quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa tôi đang nghỉ hưu sau 28 năm bận rộn để tái tạo cuộc sống tại Hoa Kỳ. Ở tuổi 72, tôi dành thời giờ c̣n lại để t́m hiểu thêm về cuộc chiến quốc cộng năm xưa. Hàng triệu chiến hữu của tôi, và riêng cá nhân tôi đă dâng hiến 22 năm đẹp nhất của đời, để bảo vệ một lư tưởng: bảo vệ tự do và dân chủ của Việt Nam Cộng Ḥa. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Việt Nam Cộng Ḥa đă anh dũng đập tan nhiều cuộc tổng tấn công qui mô của tập đoàn cộng sản khát máu Bắc Việt. Nhưng tiếc thay, vào những ngày tháng chót, chính trị quốc tế đă lấn áp sự hy sinh của chúng tôi khiến chúng tôi không đạt được mục đích. Hơn ba thập niên đă qua, tôi đă quên hận thù những cán binh cộng sản. Nghĩ cho cùng, đại đa số họ chỉ là những nạn nhân của một chế độ toàn trị, khắc nghiệt và tàn ác. Thêm nữa, là quân nhân họ bắt buộc phải thi hành quân lệnh. Tôi không oán trách Hoa Kỳ v́ Hoa Kỳ phải bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của 300 triệu công dân Hoa Kỳ. Tôi cũng không đổ lỗi cho Kissinger v́ ông này chỉ là kẻ thừa hành một chính sách được giao phó. Nhưng tôi oán hận những người lănh đạo cộng sản Bắc Việt. V́ chính họ đă đưa quê hương vào ṿng binh lửa khiến cả triệu đồng bào hai miền Nam Bắc phải vong thân. Trên lư thuyết và thực tế, Bắc Việt đă hoàn toàn độc lập sau Hiệp Định Geneva kư năm 1954. Tại miền Nam, do lời yêu cầu của Việt Nam Cộng Ḥa, toàn bộ quân đội Pháp triệt thoái ra khỏi miền Nam ngày 28 tháng 4 năm 1956. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Việt Minh đă dùng khẩu hiệu Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc để khích động tinh thần ái quốc của toàn dân. Và toàn dân không phân biệt già trẻ, trai gái, giầu nghèo, đă hăng say hy sinh cho đại nghĩa. V́ vậy, khi Việt Nam đă dành được độc lập, dù với hai thể chế chính trị khác nhau, Hồ Chí Minh nên chú trọng đến việc thực hiện hai phần c̣n lại là Tự Do và Hạnh Phúc cho toàn dân miền Bắc mới đúng. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đồng bọn chỉ luôn luôn mưu toan thôn tính Việt Nam Cộng Ḥa trong khi Việt Nam Cộng Ḥa đang sống trong Tự Do và Hạnh Phúc yên lành. Nếu Hồ Chí Minh là người thực sự yêu nước thương dân và dồn tất cả nỗ lực cùng tâm huyết vào việc tái thiết miền Bắc, chắc chắn cả hai miền Nam Bắc đă rất phú cường! Tôi hiểu rằng thời gian đă trễ để nhắc lại chuyện xưa, tuy nhiên tôi nghĩ rằng không bao giờ trễ để hiệu chính dữ kiện đứng đắn hầu bảo tồn sự chính xác của lịch sử.

V́ tài liệu quá dài, tôi chỉ chuyển ngữ 10 trang quan trọng liên hệ tới Việt Nam (từ 27 đến 37) để quí độc giả theo rơi cuộc thảo luận giữa Kissinger và Chu Ân Lai. Đọc xong tài liệu này chúng ta đều thấy rơ ràng hơn, tướng Dũng đă gian dối không nói đúng sự thực. Cuộc "chiến tranh xâm lược và ách thống trị thực dân mới của đế quốc Mỹ" hoàn toàn không có như lời tướng Dũng. Thêm nữa, "Cái gọi là Đại Thắng Mùa Xuân" mà tướng Dũng khoe khoang, sự thực, chỉ là một sự bố thí của Hoa Kỳ sau khi thỏa thuận với Trung Cộng để Hoa Kỳ đạt những mục đích chính trị và kinh tế to lớn hơn. Tướng Dũng và nhà xuất bản quân đội nhân dân mới đích thực là những kẻ xuyên tạc lịch sử. Nếu quí độc giả muốn đọc nguyên bản Anh Ngữ, quí vị có thể vào một trong hai trang mạng dưới đây:

1 - www.gwu.edu/~nsarchiv/NSAEBB/NSAEBB193/HAK%206-20-72.pdf

2 - Bản Ghi Nhớ Ṭa Bạch Ốc Hoa Thịnh Đốn Tối Mật / Nhậy Chỉ Để Xem Mà Thôi

xxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxxx

Bản Ghi Nhớ Cuộc Đàm Thoại

Những Nhân Vật Tham Dự: Thủ Tướng Chu Ân; Lai Ch'iao Kuan-hua Phó Tổng Trưởng Ngoại Giao; Chang Wen-Chin, Phụ Tá Tổng Trưởng Ngoại Giao; Tang Wen-sheng, Chao-chu, Thông Dịch Viên Hai nhân viên ghi chú biên bản, Tiến Sĩ Henry A. Kissinger, Phụ Tá Tổng Thống về An Ninh Quốc Gia; Winston Lord, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia; John D. Negroponte, Nhân Viên Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.

Ngày và Giờ: Thứ Ba, ngày 20 tháng 6 năm1972, 2:05 - 6:05 chiều

Kissinger và Chu Ân Lai Địa Điểm: Đại Sảnh Đường Nhân Dân, Bắc Kinh.

Dưới đây là cuộc đàm thoại, thương lượng và trả giá giữa Henry A. Kissinger Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Richard M. Nixon và Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai về tương lai VNCH.

Từ trang 27

Tiến Sĩ Kissinger: Đó không phải là ư định của chúng tôi. Chúng tôi không có ư định thành lập một chế độ công quản - - nó đ̣i hỏi một hoàn cảnh khác thường để chúng tôi thực hiện điều này. Không phải là ư đồ của chúng tôi để tạo ra một chế độ công quản. Chúng tôi thực có ư định tạo dựng một bức tường ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng, dù về chính trị hay là thực thể vật chất. Điều khiến chúng tôi quan ngại nhất là khi cường quốc khai thác những xung đột địa phương cho mục đích riêng của họ.

Thủ Tướng Chu: Trong những phản đối của Nga Sô về bản thông cáo giữa chúng tôi với quí quốc h́nh như họ đặc biệt bày tỏ sự phản đối về nguyên tắc chung: "Không bên nào nên làm bá chủ." Họ có nghĩ là điều đó nhắm vào họ không?

Tiến Sĩ Kissinger: Họ không nói, nhưng h́nh như họ nghĩ rằng điều đó có thể nhắm vào họ. Chúng tôi cho rằng nó nhắm vào những quốc gia muốn tạo chế độ công quản. Tôi có một thắc mắc lư thú từ Ấn Độ - không biết Thủ Tướng có nghĩ vậy không. Họ nói rằng khi Á Châu - Thái B́nh Dương không bao gồm Ấ Độ, vậy những ǵ chúng tôi nói tức là chúng tôi thỏa thuận để Trung Hoa công quản Ấn Độ (cười). Nên tôi nói với họ là không đúng. Tôi mong Thủ Tướng không phật ư.

Thủ Tướng Chu: Ấn Độ là một quốc gia hết sức mập mờ. Đó là một quốc gia rất to lớn. Nhiều khi họ làm ra vẻ một quốc gia lớn, nhưng nhiều khi họ có mặc cảm tự ti.

Tiến Sĩ Kissinger: Họ bị khống chế bởi ngoại bang qua gần hết lịch sử của họ.

Thủ Tướng Chu: Vâng, đó có thể là một trong những nhân tố lịch sử. Và một nhân tố nữa là quá nhiều cạnh tranh vĩ đại trên thế giới. Bây giờ chúng ta sang tới vấn đề Đông Dương - - Tôi muốn nghe ông tŕnh bày.

Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng có nói ông có vài nhận định muốn nói với tôi. Có lẽ chúng ta nên đổi vị trí để Thủ Tướng phát biểu trước.

Thủ Tướng Chu: Có những vấn đề cần tranh luận, và chúng tôi muốn nghe ông trước để biết giải pháp của ông cho vấn đề.

Tiến Sĩ Kissinger: Thủ Tướng muốn gợi ư là sau khi nghe tôi tŕnh bày tôi sẽ thuyết phục được khiến mọi tranh luận sẽ biến mất, và sẽ không c̣n điều ǵ thêm để Thủ Tướng phải nhận định?

Thủ Tướng Chu: Tôi không có những dự tính đó, nhưng tôi thực sự mong sẽ giảm thiểu được những tranh luận.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi sẽ tŕnh bày sự thẩm định thật vô tư của chúng tôi. Tôi biết không hợp với ư Thủ Tướng, nhưng tôi nghĩ dù sao nó cũng ích lợi để Thủ Tướng hiểu quan điểm của chúng tôi về hiện t́nh. Và tôi sẽ tŕnh bày t́nh h́nh từ khi Bắc Việt bắt đầu vụ tấn công ngày 30 tháng 3.

Tôi tin rằng tôi đă giải thích vói Thủ Tướng những mục tiêu tổng quát của chúng tôi ở Đông Dương. Hiển nhiên không phải mục tiêu của chính phủ này là sẽ duy tŕ vĩnh viễn những căn cứ tại Đông Dương hoặc tiếp tục chính sách khởi xướng bởi vị tổng trưởng ngoại giao đă từ chối bắt tay Thủ Tướng. Không phải như vậy? chúng ta đang ở một giai đoạn lịch sử khác. Chúng tôi tin rằng tương lai quan hệ của chúng tôi với Bắc Kinh quan trọng vô biên cho tương lai của Á Châu hơn là những ǵ xảy ra tại Phnom Penh, tại Hà Nội hoặc ở Sài g̣n. Chắc Thủ Tướng c̣n nhớ khi Tổng Thống Johnson đưa quân đội Hoa Kỳ vào Việt Nam ông biện minh rằng v́ một phần những ǵ xảy ra tại Đông Dương đă được kế hoạch tại Bắc Kinh và là một phần của âm mưu thôn tính toàn cầu. Dean Rusk đă diễn đạt như vậy trong một bản tuyên bố. Rồi quí quốc tiến hành cuộc Cách Mạng Văn Hóa và không, với những ǵ tôi đọc, nhấn mạnh đến phiêu lưu ra ngoại bang.

Với thực tế chúng ta đang ngồi họp trong pḥng này đủ thay đổi nền tảng mục đích của cuộc can thiệp đầu tiên tại Đông Dương. Là người thừa hưởng cuộc chiến vấn đề của chúng tôi là t́m cách thanh toán nó với một phương thức không ảnh hưởng đến uy tín toàn cầu của chúng tôi và - - đây không phải là mối quan tâm chính của Thủ Tướng - - để ổn định nội bộ tại Hoa Kỳ. Nên chúng tôi đă chân thành cố gắng để chấm dứt chiến tranh, và Thủ Tướng có thể biết hoặc không biết, tôi đă đích thân khởi xướng thương lượng với Bắc Việt năm 1967 khi tôi c̣n ở ngoại biên của chính quyền khi không được quần chúng ưa thích, v́ tôi tin rằng phải có một giải pháp chính trị để chấm dứt cuộc chiến. Rồi từ khi chúng tôi nắm chính quyền chúng tôi đă cố gắng chấm dứt cuộc chiến. Và chúng tôi hiểu, như tôi đă thưa với Thủ Tướng trước đây là, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa là một nhân tố vĩnh viễn trên bán đảo Đông Dương và có thể là một thực thể mạnh nhất. Và chúng tôi đă không có ư định tiêu diệt họ hoặc ngay cả đánh bại họ. Sau khi chiến tranh chấm dứt chúng tôi sẽ triệt thoái xa 12 ngàn dậm. Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa vẫn chỉ cách Sài g̣n 300 dậm. Đó là một thực tế mà họ có vẻ không hiểu.

Thủ Tướng Chu: Điều mà họ quan tâm tới là vụ gọi là Việt Nam Hóa chiến tranh của quí quốc.

Tiến Sĩ Kissinger: Nhưng họ có một sự thiếu tự tin kỳ lạ. Chúng tôi đă cố gắng làm ǵ? Chúng ta hăy quên "họ là bậc thầy về phân tích những điểm khác nhau nhưng quên những khái niệm toàn bộ". Chúng tôi đă cố gắng tách rời hậu quả quân sự ra khỏi hậu quả chính trị để rút ra khỏi vùng và để những thế lực địa phương tự xếp đặt tương lai của họ. Thật rất kỳ lạ, phía Bắc Việt đă cố níu chúng tôi ở lại để chúng tôi giải quyết vấn đề chính trị cho họ. Thí dụ như ngày 30 tháng 5 vừa qua, chúng tôi đă đề nghị là chúng tôi sẽ triệt thoái tất cả lực lượng nếu có sự ngưng bắn và hoàn trả các tù binh. Đúng là ngày 31, không phải 30. Phía Bắc Việt sẽ ở đâu ngày hôm nay nếu họ đă chấp thuận dề nghị này. Tại sao? V́ họ muốn chúng tôi lật đổ chính quyền và đặt để chính quyền của họ vào. Chúng tôi không thương lượng. Tôi cố gắng giải thích điều chúng tôi suy nghĩ. Hậu quả thực tế của những đề nghị của chúng tôi vẫn là để chúng tôi triệt thoái. Hậu quả thực tế của những đề nghị của họ là giữ chúng tôi ở lại.

Họ có hỏi chúng tôi "có một đ̣i hỏi họ đưa ra mà chúng tôi đă không đáp ứng, không thể đáp ứng và sẽ không đáp ứng, dù phải trả với giá nào với những quan hệ khác", và đó là chúng tôi lật đổ những nhân vật chúng tôi vẫn thường giao thiệp và cũng là những người tin tưởng ở chúng tôi, đă có một hành động nào đó. Đây không phải là sự ưa thích cá nhân của một nhân vật nào đó đối với những nhân vật liên hệ. Không phải v́ chúng tôi muốn có một chính quyền thân Mỹ ở Sài g̣n. Tại sao chúng tôi lại muốn một chính quyền thân Mỹ ở Sài g̣n khi chúng tôi có thể sống với những chính quyền không thân Mỹ tại các quốc gia to lớn hơn nhiều ở Á Châu? V́ rằng một quốc gia không thể bị đ̣i hỏi để ràng buộc vào một hành động phản bội to lớn và coi đó như một nền tảng cũa chính sách đối ngoại.

Thủ Tướng Chu: Ông nói triệt thoái những lực lượng. Ông muốn nói triệt thoái toàn bộ Lục quân, Hải quân, Không quân, các căn cứ và tất cả?

Tiến Sĩ Kissinger: Năm ngoái khi tôi ở đây, Thủ Tướng đă hỏi tôi điều này. Tôi đă tŕnh Thủ Tướng chúng tôi muốn lưu lai một số cố vấn. Rồi Thủ Tướng có nói một câu rất hay về hậu quả của cái mà Thủ Tướng gọi là "để cái đuôi ở lại." Phần lớn do lời nói đó, chúng tôi, trong ṿng một tháng, đă thay đổi đề nghị của chúng tôi nên bây giờ bao gồm luôn việc triệt thoái toàn bộ cố vấn trong những loại Thủ Tướng nêu lên bây giờ. Chúng tôi đă chuẩn bị triệt thoái tất cả lực lượng.

. . . . .

Thủ Tướng Chu: C̣n về quân lực của quí quốc ở Thái Lan?

Tiến Sĩ Kissinger: Chúng tôi chưa chuẩn bị di chuyển quân lực của chúng tôi ra khỏi Thái Lan. Nhưng với những điều kiện của ngưng bắn chúng tôi đồng ư sẽ không sử dụng lực lượng này trong cuộc chiến ở Việt Nam. Và tất nhiên sẽ giảm thiểu xuống mức độ trước cuộc tấn công nếu ḥa b́nh đạt được.

Để giải thích điều tôi muốn nói về hành động phản bội này, dù tôi biết điều này có phần nhức nhối, thưa Thủ Tướng, nhưng tôi muốn giải thích: Nếu khi tôi tới đây lần đầu vào tháng 7 Thủ Tướng nói, "Chúng tôi không thương lượng với quí quốc cho tới khi quí quốc lật đổ Tưởng Giói Thạch và thay thế bằng một nhân vật nào đó chúng tôi chấp nhận được", th́, dù tận tụy với quan hệ Trung Hoa - Hoa Kỳ như tôi, chúng tôi cũng không thể thỏa măn được. Việc sẽ không thể xảy ra. Bí quyết của quan hệ giữa chúng ta là chúng ta chuẩn bị mở đầu một tiến tŕnh mà Thủ Tướng đă bày tỏ với nhiều tin tưởng. Hành động như vậy sẽ hoàn toàn làm ô danh chúng tôi và biến chúng tôi thành một người bạn vô dụng của quí quốc, v́ nếu chúng tôi hành xử như vậy với một cộng sự viên th́ chúng tôi sẽ hành xử như vậy với tất cả.

Nhưng để trở lại vấn đề Thái Lan. Trong mọi quyết định quan trọng chúng ta đă bàn thảo, tối thiểu có hai khía cạnh, quyết định và xu hướng. Trong buổi tiệc hôm nọ với năm người Hoa Kỳ Thủ Tướng có viện dẫn đến trường hợp năm 1954. Và vào năm 1954, dù việc ǵ đă xảy ra, dù chúng tôi kư kết tài liệu ǵ. Sự thực là Tổng Trưởng Dulles đă t́m những lư do để can thiệp, v́ ông ta tin rằng Trung Cộng đă có âm mưu thôn tính Á Châu. Chúng tôi đang t́m những lư do ngược lại.

Thủ Tướng Chu: Hậu quả của chính của chính sách Dulles đă kết thúc với một số thương thuyết và kư kết Hiệp Định, nhưng bây giờ ông muốn tuân thủ những Hiệp Định này. Như vậy có nghĩa là duy tŕ chính sách của ông ta?

Tiến Sĩ Kissinger: Duy tŕ ở một mức độ. Nhưng về phía khác, khi chúng ta thỏa thuận về vụ Đông Dương, chúng ta sẽ tạo một quan hệ mới. Nếu chúng tôi tạo được quan hệ mới với Bắc Kinh tại sao chúng tôi không tạo được với Hà Nội? Hà Nội có làm ǵ chúng tôi đến độ khiến chúng tôi không, giả tỉ trong mười năm, tạo một quan hệ mới?

Thủ Tướng Chu: Nếu sau khi quí vị triệt thoái và các tù binh đă hồi hương, nếu sau đó, nội chiến tái phát ở Việt Nam, quí quốc sẽ hành sử ra sao? Có thể vấn đề khó khăn cho ông để trả lời.

Tiến Sĩ Kissinger: Vấn đề có khó cho tôi trả lời một phần v́ tôi không muốn khuyến khích để sự việc xảy ra. Nhưng để tôi trả lời với nhận định tốt nhất của tôi. Thí dụ, nếu đề nghị ngày 8 tháng 5 của chúng tôi được chấp thuận, tức có 4 tháng để triệt thoái và 4 tháng để trao đổi tù binh. Nếu vào tháng thứ năm chiến tranh tái phát, diều này có thể khiến chúng tôi cho rằng đây chỉ là một xảo thuật nhằm đẩy chúng tôi ra và chúng tôi không thể chấp nhận được.

Nếu Bắc Việt, về phía khác, tiến hành nghiêm chỉnh sự đàm phán với miền Nam, và nếu sau một thời gian dài sự việc bùng nổ trở lại sau khi chúng tôi đă hoàn toàn tách rời, ư kiến riêng của tôi là rất khó có thể khiến chúng tôi trở lại, rất khó có thể.

Thủ Tướng Chu: Năm ngoái ông cũng nói như vậy.

Tiến Sĩ Kissinger: Năm ngoái nếu họ đă chấp nhận đề nghị của chúng tôi th́ bây giờ đă được một năm. Nếu Bắc Việt có thể thay đổi?

Thủ Tướng Chu: Ông có nói năm ngoái sau khi quí ông triệt thoái và lúc đó những tù binh đă được trao trả rồi những ǵ xảy ra lúc đó là việc của họ. Trên nguyên tắc ông có nói vậy.

Tiến Sĩ Kissinger: Trên nguyên tắc chúng tôi đang có ư như vậy, tất nhiên, tùy thuộc vào mức độ các quốc gia bên ngoài can thiệp. Nếu có ai chuyển được từ một cuộc xung đột quốc tế trong đó có nhiều thế lực lớn tham dự thành một cuộc cuộc xung đột địa phương, th́ tôi nghĩ những ǵ Thủ Tướng nói có thể xảy ra. Nhưng đây là ư định của chúng tôi và khi chúng tôi sẽ thực hiện chính sách đó, đó là vài bảo đảm.

Hiện tại, điều khó khăn là, với những lư do dễ hiểu, phía Bắc Việt - những người tôi đă nhiều lần bày tỏ với Thủ Tướng, tôi rất kính trọng - đang phô trương bài thơ thiên anh hùng ca về cuộc đấu tranh dành độc lập qua nhiều thế kỷ và đặc biệt lại đang tái diễn những kinh nghiệm của 20 năm trưóc.

Thủ Tướng Chu: Nếu chúng ta kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt, 27 năm, và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đă chết cho mục đích này trước khi hoàn tất. Chủ Tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, nhưng cũng là một người nhân đạo và ái quốc. Tôi quen biết thân t́nh với Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Tôi đă biết ông ta 50 năm. Tôi đă gia nhập đảng cộng sản 50 năm và đă biết ông 50 năm.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi chưa hề gặp ông ta, nhưng tôi biết một người Pháp có nhà mà Hồ Chí Minh đă cư ngụ. Thực ra, tôi đă nhờ người Pháp này nói chuyện với Hồ Chí Minh năm 1967 -và do đó tôi đă liên hệ đến những sự việc tại Đông Dương.

Thủ Tướng Chu: Ông Salisbury cũng đă ở Hà Nội. Nhưng là một kư giả địa vị của ông ta khác với ông.

Tiến Sĩ Kissinger: Đó là một vị trí tôi không bí mật được.

Thủ Tướng Chu: Nhược điểm đó có thể là nguyên nhân sự việc vẫn chưa giải quyết được. Có thể nếu ông có hiện diện ông đă rơ ràng hơn về t́nh h́nh.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi rơ về t́nh h́nh. Nhưng giải pháp là điều tôi không được rơ.

Thủ Tướng Chu: Ông có một chuyên viên mới. Ông Smyser bị bệnh ruột.

Tiến Sĩ Kissinger: Nhưng ông ta phục hồi ngay trước khi Thủ Tướng đăi vịt Bắc Kinh. (cười)

Thủ Tướng Chu: Ông ta vẫn hợp tác với ông?

Tiến Sĩ Kissinger: Không, ông ta trở lại Đại Học một năm, nhưng sẽ trở lại sau một năm.

Thủ Tướng Chu: Phương pháp này của quí quốc thật hay, cho cộng sự viên nghỉ để dự Đại Học một năm rồi trở lại.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi không nghĩ rằng Smyser sẽ tái hoạt động về những vấn đề Việt Nam. Có thể sẽ không c̣n vấn đề Việt Nam để làm nữa.

Thủ Tướng Chu: Không nhất thiết như vậy. Vấn đề Sài g̣n thực sự là một việc quá nhức đầu. Và đây là một trái đắng do Dulles lưu lại chưa giải quyết được. Đó là một thảm kịch do Dulles tạo nên mà bây giờ chính ông cũng đang nếm mùi trái đắng đó.

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi đồng ư với Thủ Tướng là những ǵ chúng ta đang phải đối phó ở Việt Nam là một thảm kịch.

Thủ Tướng Chu: Quí quốc có thể rũ sạch thảm kịch này.

Tiến Sĩ Kissinger: Không. Tùy thuộc vào Thủ Tướng có ư định ǵ với câu rũ sạch thảm kịch này. Việc triệt thoái chúng tôi có thể thực hiện; những đ̣i hỏi khác chúng tôi không thực hiện được. Xin để tôi tŕnh bày trọn vẹn sự thẩm định t́nh h́nh của tôi.

Tôi công nhận khách quan mà nói vấn đề rất khó khăn, và tôi thú thực chúng tôi đă chứng minh trong 20 năm là chúng tôi không hiểu hoàn cảnh Việt Nam rơ lắm. Nhưng chính quyền Bắc Việt cũng đă làm cho giải pháp vô cùng phức tạp.

Trước hết, tới giờ tôi đă thương lượng 13 lần "tám lần với Lê Đức Thọ; năm lần với Xuân Thủy". Mục đích chính yếu khi tôi thương lượng là gi? Mục đích chính yếu của tôi là để có thể đi vào thực chất của vấn đề và để đạt những quyết định quan trọng - - đó là mục đích chính yếu của tôi trong những buổi thương thuyết. Tôi hữu dụng trong những quyết định lớn, không phải để giải quyết một loạt những tiểu tiết. Những tiểu tiết nên để những nhà ngoại giao thi hành.

Trong 13 buổi họp với họ, họ đă ràng buộc tôi vào những chuyện chiến tranh du kích lặt vặt trong đó chúng tôi hành sử như ở cấp luật sư trung cấp nhằm t́m kiếm những kẽ hở của những điều khoản trong những thành ngữ. Tôi lập đi lập lại với ông Lê Đức Thọ - Tôi hiểu điều này làm ông buồn phiền tiện đây, thưa Thủ Tướng, và tôi biết ông là người của nguyên tắc luôn luôn sát cánh với đồng minh, nhưng tôi đang cố gắng giải thích - hăy để chúng tôi sắp đặt một mục đích, thí dụ trong 6 tháng chúng tôi sẽ thực hiện điều này điều nọ, và rồi chúng tôi sẽ t́m một giải pháp khôn khéo. Và lần nào họ cũng từ chối. Lần nào họ cũng làm vậy với hai lư do. Một là họ e ngại thủ đoạn gian trá nên dành thêm thời giờ t́m hiểu những kẽ hở của những điều khoản thay v́ t́m hiểu những điều khoản chính của bất cứ sự thỏa thuận nào. Và họ ép buộc để đ̣i hỏi tức thời những ǵ chúng tôi có thể chuẩn bị để thực hiện trong thời gian vài năm. Và thứ nữa là, tính chất chiến lược của họ. Chiến lược của họ là ǵ? Chiến lược của họ là theo đuổi một chiến dịch quân sự với ư đồ, một là, phá hoại chính quyền Sài g̣n, mà tôi hiểu, và về phía khác, một sự phối hợp quân sự với chiến dịch tâm lư để phá hoại chính quyền Hoa Kỳ, và đó là điều chúng tôi không bao giờ chấp nhận. Họ không bao giờ quyết định được, hoặc họ muốn thương thuyết với chúng tôi hoặc tiêu diệt chúng tôi, hoặc ít nhất đẩy chúng tôi vào một vị thế bị mất sự hỗ trợ của quần chúng. Và v́ vậy, họ sẽ không nhượng bộ, hoặc cho tới hiện tại không chịu nhượng bộ, với tôi hoặc với bất cứ người điều đ́nh Hoa Kỳ nào, v́ họ e ngại nếu có một giải pháp hoặc ngay cả việc ít trở ngại nhất, chúng tôi sẽ có sự ủng hộ của quần chúng và do đó họ sẽ không đat được mục tiêu chính là triệt ha sự ủng hộ của quần chúng đối với chúng tôi hầu làm tê liệt chúng tôi. Đây chính là nguyên nhân làm buổi họp giữa tôi và Lê Đức Thọ thất bại. Khi họ nghĩ họ đang thắng thế, chiến lược thực của họ là tŕnh diễn cho quần chúng Hoa Kỳ t́nh trạng vô vọng, và do đó ép chúng tôi vào trường hợp tiến thoái lưỡng nan không c̣n sự lựa chọn nào ngoài sự nhượng bộ về những đ̣i hỏi của họ. Đây là tại sao họ đối xử với chúng tôi về vấn đề những tù binh, không qua chính quyền hoặc Hội Hồng Thập Tự, nhưng qua những nhóm Hoa Kỳ chống đối không hiểu tầm quan trọng của sự việc.

Thủ Tướng Chu: Nhưng cũng không chỉnh khi quí quốc đột kích trại giam tù binh của họ.

Tiến Sĩ Kissinger: Đây, trước hết tôi nghĩ đó là một việc khác mà tôi rất vui ḷng thảo luận với Thủ Tướng, nhưng tôi không nói rằng tất cả những hoạt động chúng tôi làm trong cuộc chiến đều nhất thiết là đúng cả. Tôi đang nói là chúng ta đang đối diện với một hoàn cảnh cần thiết một giải pháp. Nhưng tôi nhận - tuy không trong trường hợp này - nhưng chúng tôi đă làm nhiều lầm lỗi. Đây là lư do tại sao họ đang làm lớn chuyện về việc triệu tập lại những phiên họp khoáng đại, và tuy vậy những ai chín chắn đều nhận ra là nó chẳng thay đổi được ǵ dù có phiên họp khoáng đại khi không có điều ǵ để thảo luận. Cho tới khi có một chương tŕnh để thương lượng trong phiên họp khoáng đại, tất cả chỉ là tuyên truyền rỗng tuếch.

Chúng tôi đă chuẩn bị để tái nhóm phiên họp khoáng đại chỉ để kết thúc riêng vấn đề đó, nhưng chắc họ sẽ không đạt được nếu không có một nền tảng mói để thương lượng, và nếu họ không thay đổi sách lược. Chúng tôi cố gắng - và Thủ Tướng sẽ có nhận định riêng về việc này - chúng tôi tin rằng để thương thảo với các quốc gia khác nếu thiếu đạo đức và danh dự, dù có lợi về chiến thuật rồi về lâu dài cũng thất bại. Nhưng rất khó khăn để thương thảo với một quốc gia muốn phá hoại thẩm quyền của nhân vật đàm phán.

Giờ đây, chúng ta bàn về cuộc tấn công của Bắc Việt. Không có cuộc tấn công đó chúng tôi đă rút thêm quân và phi cơ nữa. Chúng tôi không có chút ư định nào để gia tăng mức độ hoạt động quân sự. Trái lại, chúng tôi sẽ giảm quân nhanh hơn. Nhưng cuộc tấn công của Bắc Việt đưa chúng tôi vào một vị trí mà họ muốn dùng sự việc của cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ để làm khó và bắt chúng tôi phải chấp nhận đ̣i hỏi của họ mà chúng tôi không thể thỏa măn. Chúng tôi có thể thỏa măn tất cả các đ̣i hỏi khác, nhưng không phải điều đó.

Hiện tại t́nh trạng hôm nay ra sao? Tôi biết phải nói ǵ về tuyên truyền, nhưng với sự phán đoán của tôi th́ cuộc tấn công của Bắc Việt bị ngăn chặn và không có một triển vọng quân sự nào trong năm nay. Họ đă không tạo được phong trào chống đối to lớn tại Hoa Kỳ, dù rằng có vài kẻ đi loanh quanh với cờ Việt Nam, mà cũng chẳng được bao nhiêu. Vào thời gian vụ Cam bốt đă có 200,000 người chống đối tại Hoa Thịnh Đốn, và họ cũng không ngăn chặn được việc chúng tôi làm. Sau ngày 8 tháng năm họ cố gắng lôi kéo 200,000 và họ có được 5 ngàn. Vậy t́nh trạng chúng ta ra sao? Hy vọng duy nhất của Bắc Việt là sự đắc cử của McGovern vào tháng mười một. Chúng tôi không nghĩ chuyện này sẽ xảy ra. Cuộc thăm ḍ chót cho thấy Tổng Thống trên McGovern 20 điểm.

Thủ Tướng Chu: Ngay cả nếu McGovern đắc cử, ông ta có thể loại Thiệu được không?

Tiến Sĩ Kissinger: Tôi không chắc.

Thủ Tướng Chu: Không cần thiết.

Tiến Sĩ Kissinger: Không cần thiết.

Thủ Tướng Chu: Quan niệm của tôi giống ông.

Tiến Sĩ Kissinger: Và đừng quên chúng tôi c̣n tại vị (cầm quyền) bẩy tháng nữa.

Thủ Tướng Chu: Đó lại là một vấn đề khác. Ngay cả nếu ông ta đắc cử liệu ông ta có từ bỏ hỗ trợ thể chế Sài g̣n không?

Tiến Sĩ Kissinger: Nói th́ dễ hơn làm.

Thủ Tướng Chu: Con đường chông gai quí quốc tạo nên làm khó khăn cho quí quốc thoát ra.

Tiến Sĩ Kissinger: Điều đó đúng.

Thủ Tướng Chu: Dù là Tổng Thống Nixon hay McGovern hoặc Ed Kennedy. Ngay cả nếu ông là Tổng Thống hoàn cảnh cũng khó khăn. Nhưng thật đáng tiếc, ông không có điều kiện.

Tiến Sĩ Kissinger: Chúng ta đề cử cô Tang.

Thủ Tướng Chu: Ngay cô ta cũng không thoát ra nổi.

Tiến Sĩ Kissinger: Nếu cô ứng cử và để tôi làm cố vấn, có lẽ cùng nhau chúng tôi có thể làm được việc ǵ đó.

Thủ Tướng Chu: Việc này ràng buộc vào việc khác và hầu hết đều bất lợi.

Tiến Sĩ Kissinger: Điều đó đúng. Nhưng những lực lượng bầu cho McGovern sẽ đem lại một định hướng mới trong chính sách Hoa Kỳ không những đối với Việt Nam, mà tất nhiên là liên quan tới Nga Sô, Ấn Độ, Nhật Bản, như Thủ Tướng đă thấy trong bài xă luận của tờ Nữu ước Thời Báo. Tôi không phải giải thích. Nếu Thủ Tướng thấy cái xu hướng của Nữu ước Thời Báo, thí dụ như lúc tôi đe dọa hủy bỏ buổi họp thượng đỉnh tại Mạc Tư Khoa hoặc trường hợp bên Ấn Độ mà không thể nhờ họ đăng bất cứ quan điểm nào khác, ngay cả trên những cột tin tức, Thủ Tướng sẽ có vài khái niệm của thực tế về những ǵ sẽ xảy ra nếu điều đó xảy ra. Tôi sẽ tŕnh bày rất thực tế. Tất cả đều ủng hộ quan hệ Trung Hoa - Hoa Kỳ. Không c̣n có sự chống đối cơ bản nữa. Nhưng hậu quả thực tế họ chuẩn bị gặt hái và những quyết định thực họ muốn làm ngoài sự xác nhận t́nh cảm và trao đổi văn hóa, sẽ khác rất nhiều. Và do đó, chúng tôi tin rằng phải ngưng chiến tranh ngay v́ lợi ích chung. Nếu chiến tranh tiếp diễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa chắc chắn sẽ thiệt hại thêm hơn là có thể có lợi. Thế tấn công quân sự của họ đă ngưng; t́nh trạng nội bộ khó khăn; và chúng tôi có thể bị cưỡng bách đối sử với Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa những điều trên tất cả những ǵ tương xứng với mục đích của chúng tôi. Chúng tôi không muốn họ yếu kém. Và chúng tôi không nh́n thấy triển vọng họ có thể đảo ngược t́nh h́nh. V à chúng tôi muốn chấm dứt chiến tranh, v́ hiện nó đ̣i hỏi một nỗ lực không cân xứng với mục đích, nhưng v́ nó liên hệ chúng tôi vào cuộc thảo luận với những quốc gia mà chúng tôi có nhiều dịch vụ quan trọng hơn.

Nếu chúng tôi có thể thảo luận với họ như thảo luận với quí vị, thưa Thủ Tướng - tôi không muốn nói về ngôn ngữ mà về thái độ - tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể giải quyết chiến tranh. Như một sự việc thực tế, chúng tôi nghĩ cách thức nhanh nhất để chấm dứt là trên căn bản ngưng bắn, triệt thoái, và trao trả những tù binh. Đó là giải pháp ít phức tạp nhất và tương lai tính sau. Chúng tôi sẵn sàng ngoài việc tuyên bố sự trung lập của chúng tôi trong mọi tranh chấp chính trị khi có và về chính sách đối ngoại chúng tôi chuẩn bị để thấy Nam Việt Nam thiết lập một chính sách đối ngoại trung lập. Chúng tôi củng có thể trở lại với đề nghị Tổng Thống tŕnh bày ngày 25 tháng Giêng năm ngoái và được chính thức đệ tŕnh ngày 27 tháng Giêng, và có thể sửa đổi điều khoản này hoặc điều khoản khác liên hệ tới thảo luận chính trị luôn. Nhưng trên thực tế, thảo luận chính trị kéo dài rất lâu. Và hậu quả thực tế của bất cứ cuộc thảo luận chính trị nào là hoặc xác nhận sự hiện hữu của chính quyền Sài g̣n th́ không chấp nhận được với Hà Nội, hoặc lật đổ chính quyền hiện hữu tại Sài g̣n th́ chúng tôi không chấp nhận được. Và gần như vô vọng để nghĩ đến một biện pháp có thể tương nhượng giữa hai phe này. Cho nên chúng ta cần t́m một phương thức để chấm dứt chiến tranh, ngăn chặn nó trở nên một vấn đề quốc tế, và để hoàn cảnh khai triển tới chỗ mà tương lai của người Đông Dương được hoàn lại cho người Đông Dương. Và tôi cam đoan với Thủ Tướng đó là mục tiêu duy nhất của chúng tôi tại Đông Dương, và tôi không tin nó khác biệt với Thủ Tướng. Chúng tôi không đ̣i hỏi ǵ cho chúng tôi tại đó. Và trong khi chúng tôi không thể đưa một chính quyền cộng sản lên nắm chính quyền, nếu, do sự xoay vần của lịch sử mà nó xảy ra sau một thời gian, th́ nếu chúng tôi sống chung được với một chính quyền cộng sản Trung Hoa, chúng tôi sẽ chấp nhận được ở Đông Dương. Thủ Tướng gặp được ngày tôi nói khá nhiều. (Cười)

Thủ Tướng Chu: Vậy chúng ta chấm dứt hôm nay. C̣n về sáng mai, trước hết tôi sẽ tham khảo ông Phó Chủ Tịch Yeh Chien-ying, và rồi có thể sáng hôm sau ông sẽ thảo luận với ông ta. Tôi nghe ông muốn có một buổi tiệc ngoài trời tại Cung Đ́nh Mùa Hạ.

Tiến Sĩ Kissinger: Có người hỏi tôi muốn thăm thêm chỗ nào ngoài Cung Cấm. Tôi trả lời Cung Đ́nh Mùa Hạ đẹp quá và tôi muốn thăm nữa. Nhưng ư kiến về buổi tiệc ngoài trời là một ư thêm rất đẹp nhưng không do tôi. Đó là ư kiến của Ban Nghi Lễ. Nhưng công việc phải ưu tiên hơn tiệc tùng.

*************************************************************************************

(1) New Perspective on Dien Bien Phu by Pierre Asselin. Volume 1, No. 2 Fall 1997.

(2) Apprentices of War - Memoir of a Marine Grunt by Gary L. Tornes. In 1967, base pay: $155.00. Combat pay: $75.00. Overseas pay: $45.00. Total gross:: $255.00. Trang 247. Căn cứ theo Global Finacial Data, hối xuất chính thức tại Nam Viet Nam August 1965: $1.00 US = $118.00 VN piastres. Như vậy lương tháng của một Hạ Sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ độc thân năm 1967 = $26,550.00 đồng VN. Và một Thiếu Tá phi công Việt Nam Cộng Ḥa lănh khoảng $65,000 đồng VN trong đó có cả phụ cấp gia đ́nh (vợ + 3 con) và phụ cấp phi hành.

(3) The Air War Against North Vietnam. USAF in S.E Asia 1961-1973 report 1984. Chapter IV. "The President retained such firm control of the air campaign against the North that no important target or new target areas could be hit without his approval. Page 1." And on page 4: "During the first two years of operations over the North, President Johnson periodically ordered bombing pauses in an effort to bring Hanoi's leaders around to discuss a political settlement of the war."

(4) The White House - Memorandum of Conversation. Top Secret/Sensitive/ Exclusive Eyes Only.

 


B̀NH LUẬN

Tản mạn cuối năm  
H́nh ảnh đáng ghi nhớ trong năm 
Miệng kẻ sang có gang có thép 
Hiến dâng máu ! 
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông Hành
Thất bại hay thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ Phu
Trái khoáy cuộc đời 
Một chế độ hèn hạ 
Chữ với nghĩa 
Cơm với cá…  
Tuyên bố đầy tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người không? 
Cả tin hay nghi ngờ 
Ca sĩ hải ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu 
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người 
Trách niệm về đâu 
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?  
Gần 2 triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?  
Văn hóa "Giả Vờ"  
Tổng Thống Donald J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng chấm hết !
Dốt như chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán chó
Hai cái băy nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30 Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn nữa?
V́ sao Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự thật cần phải biết  về VNCH  
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong! 
Thăm dân cho biết sự t́nh 
Cái giá của Tự Do 
Con chuột và cái b́nh  
Đàn ḅ vào thành phố 

Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không

Thôi rồi... 
Chuyện biển đông 
Quả đại pháo cuối cùng  
Biển Đông dậy sống  
Vụ HD 981: Việt Nam xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng  
Một âm mưu thâm độc của Việt Cộng 
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?  
Việt cộng hóa

Kinh nghiệm tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật cần phải biết
Giọt nước mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp đổ
Tổ Quốc Việt Nam - C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt chính tả
Đứng chàng hảng 
Thời sinh viên ở Sài G̣n  
Hăy nói trước ngày chết  
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS - Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản VN
Phản hồi về bài báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời Sông Núi!  
Nhân ngày Quân Lực 19 tháng 6...  
Hai câu chuyện phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri" và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại  
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện không đơn giăn
Triệu con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra đặc quyền
Những viên Đạn Hợp Âm
Đảng là tên đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền trong rừng luật
Những người "vọng quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và nay
Lại viết về nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học 30 tháng 4
36 năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện và bệnh Mù Loà
Triển vọng chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở Đâu?  
Lộn xộn tiếng Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con người
Chuyến xe buưt và khúc hát người lính mù  
Vài suy nghĩ về biểu t́nh chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10 điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay đă quên
Cảnh giác âm mưu "tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư đen"
Tổng phản công nghị quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...