THIÊN ĐỨC
1.- NGUỒN:
Cuốn nhật kư Đặng Thùy Trâm của nhà xuất bản hội nhà văn được độc
giả trong và ngoài nước chú ư, toàn bộ hệ thống báo chí Việt Nam
thậm chí cả guồng máy chính quyền đều đề cao tán dương như là một
điển h́nh anh hùng cho thế hệ trẻ Việt Nam, trong lúc đó lại có
nhiều tranh cải tính xác thật của nhật kư trên các diễn đàn BBC,
Talawas, Đàn Chim Việt.... Đâu là sự thật? người viết bắt đầu đi t́m
nguồn tài liệu ở diễn đàn BBC, mở bài “Không xuyên tạc Nhật Kư Đặng
Thùy Trâm” bấm vào tựa bên phải “Nhật kư Đặng Thùy Trâm bản gốc và
bản in”. ( có thể trực tiếp vào trang web:
http://annonymous.online.fr/Upload/Nhat%20ky%20Dang%20Thuy%20Tram/
Sau cùng, người viết đă có đầy đủ 3 tập tài liệu sau đây:
1)- Bản sao viết tay Nhật Kư quyển 1
2)- Bản sao viết tay Nhật Kư quyển 2
Hai bản này gọi là bản GỐC (viết tắt BG)
3)- Bản in thực tế của NXB Hội Nhà Văn. Viết tắt nkdtt .
(Chú ư bản in ở trên internet chỉ là những trích đoạn, không có giá
trị để đối chiếu)
Mở đầu nhật kư bản in, nhà xuất bản cho biết (tr. 7): Trong quá
tŕnh biên soạn và chỉnh lư, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản
câu văn cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả -
chỉ sửa lại một số từ địa phương hoặc lược bớt những từ trùng lặp..
Theo đài BBC, ông Vương Trí Nhàn, xác nhận ông chỉ tham gia ở khâu
cuối cùng và về mặt kỹ thuật nhiều hơn nội dung. Bà Đặng Kim Trâm,
em út của bà Đặng Thùy Trâm là người chủ biên, quyết định nội dung
phần ra mắt công chúng. Theo ông Nhàn rằng bà Kim Trâm khẳng định bà
dám chịu trách nhiệm và không sợ thách thức của dư luận.
Bà Đặng Kim Trâm đă tái xác nhận trong cuộc phỏng vấn với đài BBC
ngày 15-10-2005 “ Ban đầu tôi e ngại là các ư nghĩ quá đỏ có thể
không phù hợp với giới trẻ bây giờ. Nhưng khi tự tay đánh máy cuốn
sách tôi thấy không thể bỏ đi một câu nào....”
Kết quả đối chiếu sau đây đă cho thấy lời nói không đi đôi với việc
làm.
2.- ĐỐI CHIẾU:
2.1- BẢN GỐC:
Bản viết tay quyển 1 có 118 trang quyển 2 có 28 trang.
Nhật kư được viết từ ngày 8-4-68 đến ngày 20-6-70. Một ngày viết một
đoạn ngắn, nhật kư có được 276 đoạn. Nhật kư bản gốc được tŕnh bày
theo thứ tự thời gian và diễn tiến sự việc.
2.2.- BẢN IN của Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn (nkdtt)
Bản in gồm 322 trang, đặt mua tại nhà sách lớn của quận Cam , Cali
vào giữa tháng 11-2005, sau khi chờ đợi 3 tuần mới có được quyển
sách từ Việt Nam gởi sang. Trang đầu ghi Đặng Kim Trâm chỉnh lư,
Vương Trí Nhà giới thiệu. Trang cuối ghi Biên tập : Vương Trí Nhàn.
In 20.000 cuốn, Số đăng kư..... cấp ngày 5.7.2005... nộp lưu chiểu
quư IV-2005. Không thấy ghi lần tái bản. Như vậy từ khi cuốn sách
xuất bản vào tháng 7 cho đến nay khoảng 4 tháng chưa có tái bản lần
nào (?).
Cảm nhận đầu tiên khi so sánh, đối chiếu bản in nkdtt với bản gốc,
người viết có cảm giác cuốn sách được xuất bản một cách vội vàng
phục vụ nhu cầu chính trị hơn là phục vụ độc giả v́ rằng trong cuốn
sách có những lỗi sơ đẳng nhất là đánh máy lộn ngày tháng hay những
đoạn trên đưa xuống đoạn dưới mà người đánh máy biết rơ mà không
chịu sửa chữa v́ với máy computer hiện nay dùng lệnh cut, past điều
chỉnh rất dễ dàng khi người đánh máy bị nhầm lẫn. Nhưng tại sao lại
không làm?
2.2.1.- NHẦM LẪN NGÀY THÁNG: Nhiều ngày ghi nhật kư đă bị đổi thay
hay sáp nhập với nhau nên khó so chiếu với bản gốc.
... 68 là ngày 15-4-68 (bg), 27-7- 68 là 28-7-68 (bg), 19-11-68 là
11-11-68 (bg), 8-3-69 là 3-3-69 (bg), 9-3-69 là 9-3-69 cọng thêm
11-3-69 (bg), 8-1-70 là 3-1-70(bg), ngày 29-3-70 gộp 2 ngày 28-3-70
và 29-3-70 (bg)
2.2.2.- ĐOẠN VĂN BỊ XÁO TRỘN VÀ CẮT XÉN
9-3-69 (tr. 132)
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ
kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở đây trên giường bệnh họ
cũng đă kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết
thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đă làm anh tràn
nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”.
Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt,
nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc ḿnh thương anh vô cùng mà chẳng biết
nói sao. H́nh như ngoài t́nh thương của một người thầy thuốc c̣n có
cả t́nh thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng ḿnh
không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái
nh́n tŕu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến
thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người
bộ đội có đôi mắt đen ngời.
[(bg) ngày 11-3-69
..... Những người giải phóng quân ấy đáng yêu biết chừng nào, họ
kiên cường dũng cảm trong chiến đấu và ở dây trên giường bệnh họ
cũng đă kiên cường dũng cảm vô cùng.
Đó là người cán bộ với sức chịu đựng kỳ lạ, đau đớn đă làm anh tràn
nước mắt mà miệng vẫn cười, vẫn một câu trả lời: “Không sao đâu”.
Những lúc ngồi bên cạnh anh, cầm bàn tay anh nóng hổi trong cơn sốt,
nghe anh thở hổn hển, mệt nhọc ḿnh thương anh vô cùng mà chẳng biết
nói sao. H́nh như ngoài t́nh thương của một người thầy thuốc c̣n có
cả t́nh thương của một người bạn gái cùng quê hương. Nhưng ḿnh
không muốn để lộ điều đó trên lời nói, có chăng chỉ là trong cái
nh́n tŕu mến mà anh không thể nào biết được đâu.
Đó là cậu liên lạc với má núng đồng tiền, lúc nào cũng cười dù vết
thương trên tay sưng và đau buốt
Đó là một người thương binh nặng, bàn tay dập nát mà vẫn cười lạc
quan tin tưởng.
Hôm nay các anh lại lên đường hành quân, một cuộc hành quân chiến
thắng. Chúc các anh lên đường thắng lợi, gửi lời chào tạm biệt người
bộ đội có đôi mắt đen ngời.]
2.3.3.- NHỮNG ĐOẠN VĂN BỊ CẮT XÉN
Ngoài những sửa chữa thay đổi vài từ ngữ có tính cách kỹ thuật,
người viết t́m thấy có đến 21 đoạn nhật kư bị cắt xén, ảnh hưởng đến
nội dung như sau:
2-6-68 Mất đoạn cuối
Tr.53 tiếp theo ḍng cuối trang .... đó là một cuộc đấu tranh giữa
hai luồng tư tưởng lạc hậu và tiến bộ. [”bg): Tư tưởng lạc hậu là
của những người c̣n mang những tàn dư của tư tưởng phi vô sản và tư
tưởng tiến bộ là của những người đang phấn đấu v́ sự nghiệp chung.
Quy luật đó là lẽ tất nhiên. “]
12-5-69 thiếu đoạn cuối
Tr.151 tiếp câu cuối .... nhưng với anh Long th́ đúng như vậy. [(bg)
Nằm nói chuyện với anh nghe anh kể về những ngày công tác của anh
ḿnh thốt lên “Giá mà em được ở gần anh em sẽ học được bao nhiêu
điều hay” được về công tác với anh đó là một mong ước rất thành
thực. Nếu vừa rồi không có sự thay đổi trong biên chế chắc điều đó
đă thực hiện rồi.]
18-5-69
Tr.152 ... chừng nào ... [ (bg) ... Cả miền Nam đang tấn công, trên
suốt dải đất mênh mông này ở đâu lại chẳng có các anh? Đâu chẳng có
bàn chân những người trai dũng cảm.
Tôi biết trong các anh có rất nhiều và rất nhiều người quê ngoài
XHCN . Các anh có nhiều người cũng mới từ những ngày ḥa b́nh bước
vào cảnh lửa đạn này. Hôm nọ, gặp mấy chàng trinh sát trẻ măng nước
da trắng dưới lớp lông măng trên má, chắc rằng đó là những học sinh
cấp hai mới rời cây bút để nhận khẩu súng lên đường đi chống Mỹ cứu
nước.]
.... Vậy đó, cả nước đă lên đường,[ (bg) cả nước đang lăn ḿnh trong
cuộc chiến đâu nhất định phải dánh thắng giặc Mỹ xâm lược nhất định
phải trả về cho chúng ta những ngày độc lập tự do.]
25-6-69 thiếu 2 câu
tiếp ḍng thứ 2 trang 162... như Paven trong trường hợp đó . [(bg)
Cuộc chiến này biết mấy gian lao, chúc Th. đứng vững bên cương vị
của người Cộng Sản...]
16-7-69 16-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.168...” Lối đó là lối bà già vợ thằng Hùng đó”. [(bg) Ôi! những
người dân Việt Nam anh hùng, có lẽ trên trái đất này không ai chịu
nhiều khổ đau như mỗi người dân miền Nam anh dũng.]
26-7-69 thiếu đoạn cuối
Tr.172 cuối trang.... mà chị đêm ngày thương nhớ thiết tha. [(bg)
Con đường em đi những bước đi c̣n chập chững nhưng chông gai gian
khổ đầy nước mắt. Chúc em đi những bước vững vàng.]
6-8-69 thiếu đoạn cuối
Tr.179 cuối trang.... Chắc không thể có nụ cười và tiếng đàn sôi nổi
ấy. [(bg) Ôi! Cuộc cách mạng ở mảnh đất này mới kỳ lạ làm sao, đau
thương tang tóc ở đâu bẵng và lạc quan sôi nổi cũng không đâu bằng.]
1-9-69 thiếu đoạn cuối
\
Tr.187 cuối trang .... Không hiểu anh Sơ có biết rằng trong câu gửi
gắm ấy có t́nh người anh lo cho đứa em gái hay không. [(bg) Anh Năm
ơi, anh đi b́nh an nhé, em sẽ đón anh trở về trong niềm vui và t́nh
thương sâu dậm của một đứa em gái.]
1-11-69 thiếu một hàng cuối
Tr.195 ... Anh đi b́nh an và mau về nghe anh. [(bg) người anh thân
thương rất đỗi!]
5-11-69 thiếu đoạn cuối
Tr.196 .... con cháu nheo nhóc ở vào đâu? [(bg) Ôi! Giặc Mỹ chồng
bao tội ác của bay đă chất đầy như núi. C̣n sống ngày nào tao thề
chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được mối thù vạn kiếp đó.]
26-02-70 Thiếu đoạn cuối
Tr. 228 ... T́nh thương của ḿnh bỗng dột xuất mà sôi nổi lạ lùng.
[(bg) Tuy nhiên lúc em ra về ḿnh cũng chỉ căn dặn em cảnh giác cố
gắng tập cho cánh tay mau b́nh phục rồi nh́n em bằng đôi mắt tŕu
mến. Thôi, đi nghe em, chúc em khỏe mau trở về với đội ngũ chiến
đấu.]
27-02-70 Thiếu mất hai đoạn
Cuối Tr.228. Phải chăng v́ Thuận đă làm được những điều trên?
[(Bg) Tất nhiên trong bước đường đi không ai không vấp phải khuyết
điểm. Ḿnh không hề sợ khuyết điểm, cái ǵ sai th́ cố gắng khắc
phục, cái ǵ đúng cố gắng phát huy không theo đuôi quần chúng, không
độc đoán quan liêu, không v́ sợ mất ḷng mà bỏ nguyên tắc. Trước khi
làm một việc ǵ phải cân nhắc kỹ không hướng ḿnh đang đứng trong
vai tṛ của một diễn viên trên sân khấu bao nhiêu đôi mắt khán giả
đang nh́n, ḿnh làm được điều đó là dĩ nhiên v́ ḿnh là một diễn
viên, họ chỉ khen khi nào ḿnh thật xuất sắc (mà điều đó th́ ḿnh
chưa thể làm được). Nếu ḿnh làm c̣n thiếu sót họ sẽ chê, chê nhiều,
vậy mà cũng đ̣i làm diễn viên, dở quá vv và vv...]
Tr. 229 Bao nhiêu năm thoát ly vào sinh ra tử trên chiến trường miền
Nam bây giờ lại để nó chỉ huy!...”
[(bg) Không các đồng chí ơi!, tôi làm việc cũng chỉ v́ sự nghiệp của
cách mang, Đảng giao phó cho tôi, nhưng trách nhiệm quan trọng cũng
chỉ v́ Đảng muốn tận dụng hết khả năng sức lực của tôi để phục vụ
cho Đảng nhiều nhất. Tôi vinh dự v́ được tin cậy nhưng không v́ vậy
mà tôi kiêu căng. Tôi hiểu lắm chứ tuy rằng được học tập trang bị
nhiều lư luận trong nhiều năm trên ghế nhà trường nhưng có nhà
trường nào lớn bằng trường đại học thực tế đâu? Tôi mới vào đây 3
năm dĩ nhiên không thể bằng những đồng chí đă trải qua 10 năm, 20
năm trên chiến trường gian khổ, cho nên hăy đến với tôi bằng t́nh
thân của những người cùng chung giọt máu để đổ xuống cho đất nước tự
do, bằng t́nh thương của những kẽ xa nhà lấy gia đ́nh cách mạng làm
chỗ dựa duy nhất trong cuộc sống. Hăy chỉ bảo giúp đỡ tôi để tôi trở
thành một đồng chí phục vụ đắc lực cho Đảng. Phần tôi, tôi tự biết
tôi phải làm ǵ, tự biết năng lực của ḿnh và tự nhủ ḿnh phải khiêm
tốn học hỏi thật nhiều mọi người xung quanh.]
8-3-70 thiếu một câu cuối
Tr.233 Phải như Paven, như Ruồi Trâu, hay như M của ḿnh đó. [(bg)
Nhất định phải vậy nghe Th.!]
30-3-70 thiếu câu cuối
Tr. 237 ... hăy mạnh dạn mà đi, vững bước mà đi nghe. [(bg) người
con gái XHCN trên đất miền Nam]
5-5-70 thiếu hai đoạn
Tr.241 Nhưng tao đă thề cùng các đồng chí của tao rồi, dù có chết
cũng quyết đánh cho đến cùng [ (bg) để đánh giập đầu con rắn độc
hiếu chiến].
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột. Tại sao cũng là con người mà lại
có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng bào để làm nước
tưới cho gốc cây vàng của nó như vậy.
[(bg) bao nhiêu cũng không đủ túi tham, bao nhiêu cũng không thỏa
măn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát máu.]
13-5-70 Thiếu đoạn cuối
Tr.243 những ḍng chữ của ḿnh vẫn theo em trên khắp chặng đường
chiến đấu. [(bg) Em ơi, hăy bồi đắp cho t́nh cảm chị em măi măi thắm
thiết như ngày xưa ta sống cùng nhau trên quê hương Phổ Hiệp. Thực
ra trong những ngày qua cũng có đôi nét mờ đi trong bức tranh tuyệt
đẹp của mối t́nh cảm ấy v́ không biết giữ ǵn, lỗi đó ở em hay ở
ḿnh.]
19-5-70 Thiếu đoạn cuối.
Tr.246 Vậy ra anh cũng hiểu ḿnh đấy chứ. [(bg) nhưng tại sao vậy hở
anh? Tại sao nỗi lo cho ḿnh trước lúc ra đi “là điều lo anh để lên
hàng đầu” mà anh lại cũng làm thinh không nói? Tại sao lúc chưa gặp
anh mong chờ da diết mà lúc em đến anh lại cũng làm thinh? Ôi người
anh thân thiết, anh rất gần mà lại cũng rất xa. Em hiểu anh hết mà
rồi lại cũng không hiểu hết (mà chính anh cũng thắc mắc với anh nữa
kia mà!) Sao vậy hở anh? ]
4-6-70 thiếu đoạn cuối
Cuối Tr. 247. v́ sao ta không thể đến với nhau trong mối quan hệ tốt
đẹp và chính đáng đó?
[(bg) Cách mạng miền Nam! Nhiều cái anh hùng, nhiều chuyện lịch sử
mà cũng c̣n nhiều phức tạp, nhiều rác rưởi trong xă hội, cũng dễ
hiểu thôi, v́ tất cả cho sự nghiệp đánh Mỹ cứu nước nên ta chưa thể
tập trung sức lực để xây dựng con người XHCN, những con người toàn
diện, biết sống v́ mọi người, biết cách ăn ở và nếp sống có văn
hóa.]
2.2.5.- CHÍN NGÀY BỎ SÓT
10-11-68 :
[(bg) Những hoạt động xă hội ngày một mở rộng đối với ḿnh. Đại hội
phụ nữ tỉnh mời dự, hội thanh niên giải phóng mời dự nhưng ḿnh
không có điều kiện tham gia. Trong cách bố trí sắp xếp kể ra cũng có
những điều kiện chưa hợp lư. Một lần nữa ḿnh hiểu thêm về ḷng ghen
tỵ của người đời, vẫn c̣n những người không vui khi thấy đồng chí
ḿnh tiến lên.
Những phút giây lịch sử trong t́nh chị em, trong đời người. Hăy nhớ
trọn đời nghe em!]
7-12-1968
[(bg) Gặp Thường, rất lâu rồi mới được ngồi bên em nói chuyện cùng
em như những ngày công tác dưới đồng bằng. Một năm qua trong xa
cách, chị vui sướng thấy rằng mỗi chị em ḿnh đều bước đi những bước
trưởng thành và t́nh chị em cũng đă lớn lên dày dạn với thời gian.
Vũng vàng trước sóng gió. Hăy vun xới cho t́nh cảm ấy lớn lên và lớn
măi lên nghe em!]
23-5-69
[(bg) Về công tác Phổ Cường. Đêm mờ biết bao ở nhà chị Hạnh: “Không
bao giờ tự cầm dao cứa đứt mạch máu trong cơ thể ḿnh” Không, thực
tế th́ có vậy nhưng em th́ không có. ]
26-10-69
[(bg) Những ngày sống bên anh có cái ǵ làm ḿnh cảm thấy quên đi
những ngày gian khổ đang đe dọa bên ḿnh. Có phải v́ bàn tay ấm áp
của anh đă nắm chặt tay ḿnh truyền cho ḿnh sức mạnh để đánh bạt
mọi gian khổ hay không? Có phải những ngón tay nhỏ nhắn của anh đă
vuốt trên mái tóc ḿnh thân thiết truyền cho ḿnh t́nh thương ruột
thịt làm ḿnh quên đi cái cô đơn của một kẽ xa nhà? Và có phải đôi
mắt đen anh đă nh́n ḿnh qua bóng đem và qua cả những phút giây ngắn
ngủi giữa mọi người đă nói với ḿnh rằng: “Hăy vững bước nghe em,
trên con đường gian khổ nhưng vinh quang mà em đă chọn, bao giờ cũng
có các anh giúp đỡ em với t́nh đồng chí và có anh d́u dắt em trong
cánh tay của một người anh”
Cảm ơn anh nghe anh, em sẽ sống xứng đáng làm một đứa em và một
người đồng chí của anh, có nghe em nói không hở anh Năm thân thương
của em?]
19-01-70
[(bg) Cám ơn anh, người đồng chí thân thương. Anh đă đến với mẹ bằng
t́nh thương chân thành ruột thịt, anh đă là một chỗ dưa trong cuộc
sống của em. Cuộc đời thật phức tạp, không biết ở sao cho vừa ḷng
tất cả được, cũng như anh đă nói: “Đó là lẽ dĩ nhiên, em không bao
giờ bi quan khi gặp trở ngại trong bước đường đi lên của ḿnh”. Như
bao lần em đă nói cuộc sống là một bức tranh đủ màu sắc, bên cái màu
chủ đạo là màu đỏ chiến thắng và mà xanh ước mơ vẫn có thêm màu đen
trong tóc màu xám lạnh lùng nham hiểm. Dù sao em cũng vẫn yêu cuộc
sống, cuộc sống của những người cách mạng tha thiết t́nh thương và
cháy bỏng niềm tin vào sức mạnh của ḿnh. Anh Năm thân thương, anh
tin em chứ? Tin ở đứa em gái của anh nghe anh.]
15-02-70
[(bg) Những ngày sống bên anh, sung sướng cảm thấy t́nh anh em ngày
thêm gắn bó trưởng thành. Em tin anh như tin chính bản thân em. niềm
tin ấy giúp em đi lên, đạp bằng mọi chông gai trở lực vươn lên làm
chủ cuộc sống của ḿnh. Sung sướng biết bao khi trong bước đi gian
khổ, luôn có anh d́u dắt, anh lo cho em từng ly từng tư, anh dạy bảo
em với t́nh một người anh trai với đứa em gái, anh xây dựng cho em
với trách nhiệm một bí thư huyện ủy với một đồng chí mới làm công
tác Đảng, anh săn sóc em với t́nh đồng đội cùng chung trong cuộc
chiến đấu sinh tử này. Hăy giữ tṛn măi măi “...trong ngần thiết
tha” nghe anh Năm!]
24-3-70
[(bg) Đọc những lá thư của anh càng hiểu càng thương anh vô cùng,
anh Năm ạ. Quả thực anh đă lo, đă thương em với t́nh thương sắt son
ruột thịt, anh em ta thường nói với nhau rằng: Dù trong hoàn cảnh
nào cũng giữ trọn t́nh anh em thủy chung như nhau. Đâu có phải em
không tin anh, em thường nói với chính em rằng em tin anh như tin
bản thân ḿnh nhưng ngay cả bản thân ḿnh em cũng nhiều lúc không
hiểu rằng xử trí như vậy đă đúng chưa. V́ vậy anh đừng trách khi em
giận anh. Thực ra cũng có một t́nh thương sâu đậm nên em mới cảm
thấy giận anh, nếu không, một lá thư như vậy, những câu nói như vậy
hết sức b́nh thường với những người khác nhưng với em lại là khác,
em đ̣i hỏi ở anh một sự quan tâm, đ̣i hỏi ở anh những biểu hiện của
một t́nh thương đằm thắm trong sạch của một người anh trai với đứa
em gái cưng của anh. Đ̣i hỏi ấy có cao không nhỉ? “Anh đă dành tất
cả t́nh thương duy nhất, độc nhất cho em gái anh” Th́ như vậy đâu
phải là cao. Vậy đó anh à, hăy hiểu em nhiều hơn nữa nghe anh, hiểu
cái đứa em gái có trái tim đầy nhiệt t́nh, đầy ưu ái, niềm tin ở
cuộc đời. Em c̣n dại lắm, em tin người ta dễ dàng mà cuộc đời lại
chưa phải đáng để tin như vậy. Mong anh sẽ là người d́u dắt em đi
vững bước một trên con đường chông gai nguy hiểm nhưng rất đỗi vinh
quang mà anh em ḿnh đă chọn.]
01-4-70
[(bg) Kỷ niệm 10 năm ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ một thiếu niên bây
giờ Th. đă là một cán bộ dày dạn trong khói lửa. Th. không thể tự
hào mà chỉ thấy rằng ḿnh đă làm đúng như lời thề dưới cờ Đoàn trong
ngày hôm ấy.
Những đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hăy nghiêm khắc với bản thân hơn
nữa, đừng để một câu hỏi làm đau nhói trong Th. Tại sao mọi người
không hiểu Th? Mà hăy hỏi: Tại sao Th. lại để mọi người không hiểu
ḿnh? Đành rằng có những người không tốt: nhỏ mọn, ghen tuông, kèn
cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ không
thể nói được. Vậy th́ hăy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi,
nước mắt hăy giành cho ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya
nằm bên những người đồng đội, họ đă ngủ, hơi thở đều đều, ngoài kia
từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người đồng chí của tôi, ta
đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hăy thương yêu
đùm bọc lấy nhau, sống chết kề một bên, ghen tuông ḱn cựa để làm
ǵ?]
05-4-70
[(bg) Có phải ḿnh cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay
không hở người anh thân thiết của em? Chiều nay Cúc lên đường về cơ
quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như tăng lên bội phần. Cuộc
sống sao mà phức tạp mà sao ḿnh lại làm một con bé sống với trái
tim giàu t́nh cảm như thế này? Tại sao ư? V́ từ nhỏ đến giờ nó là
như vậy. Nghe những ư kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con
người vẫn có những kẻ sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ không thể có được
những t́nh cảm trong sáng chân thành như một số người khác. Với họ
chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!! Ôi ghê tởm làm sao. Anh trai của
em ơi, có đúng như lời anh đă nói đó không? “T́nh anh em ta sẽ tồn
tại măi măi dù thời gian, không gian biến động thế nào” nghĩa là ta
sẽ đàng hoàng thanh bạch mà sống, đạp qua mọi rác rưởi gai góc cản
trở đường đi của ta. Em cũng sẽ làm như anh, sẽ thực hiện đúng như
lời em đă hứa cùng anh.]
3.- TÁC GIẢ:
Bàn về một tác phẩm mà không t́m hiểu tác giả là một điều thiếu sót
không thể tha thứ được cho dù người đó đă nằm xuống. Trong bản gốc
của nhật kư không có ghi tiểu sử của tác giả, nhưng theo lời kể của
gia đ́nh và nhân chứng trong sách in có thể sơ lượt như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942
1960-1961: Học sinh lớp 10C trường trung học Chu Văn An Hà Nội.
Năm 1966: Tốt nghiệp bác sĩ mắt Đại học y khoa Hà Nội (?)loại ưu.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu, phụ trách một trạm xá nhỏ ở Đức Phổ
Quảng Ngăi.
Chết lúc 17g20 ngày 22-6-1970.
Nhiều người đă đặt nhiều nghi vấn về chức danh bác sỹ của DTT, bởi
nguyên do thời gian theo học đại học y khoa khá ngắn ngủi(?)v́ vậy
người viết phải làm cuộc so sánh như sau:
3.1.- THỜI GIAN: Trước 1975 tại miền Bắc, hệ giáo dục trung học là
10 năm. Đào tạo bác sĩ chỉ có 5 năm (?).Trong khi ở miền Nam hệ
trung học là 12 năm, và đại học y khoa thường là 7 năm.
Như vậy ở miền Bắc, một người bác sĩ chỉ mất 15 năm học ở nhà
trường. Ở miền Nam phải mất 19 năm.
3.2.- HỌC TR̀NH: Học sinh Miền Nam chỉ thuần túy học về chuyên môn
và văn hóa trong suốt thời gian, hoàn toàn không học chính trị hay
sinh hoạt đảng phái đoàn thể.
Trong khi đó học sinh miền Bắc phải tốn ước chừng khoảng 1/3 thời
gian để học tập chính trị từ sơ cấp đến trung cấp Mác Lê ở bậc đại
học, xây dựng chủ nghĩa cộng sản khoa học, đây là những môn thi bắt
buộc. Ngoài ra c̣n phải phấn đấu sinh hoạt ngoại khóa trong phong
trào, tranh thủ để trở thành cháu ngoan bác Hồ, đối tượng Đoàn, đối
tượng Đảng.
Nếu so sánh một cán sự y tế, hay cán sự điều dưỡng miền Nam được đào
tạo 3 năm chuyên môn, với tŕnh độ trung học, tổng cọng thời gian
học cũng từ 12 năm trở lên ( 9 năm bằng trung học đệ nhất cấp + 3
năm chuyên môn).Nếu căn cứ vào học tŕnh để kết luận, th́ người bác
sĩ miền Bắc bị nhồi sọ về chính trị Mác Lê hơn miền Nam. Nhưng
chuyên môn và văn hóa người bác sỹ miền Bắc chỉ có tŕnh độ tương
đương với một người cán sự y tế trung b́nh mà thôi, không thể so
sánh bằng với bác sỹ miền Nam được. (Trước 1975)
3.3.- CÔNG TÁC THỰC TIỄN: Với tŕnh độ chuyên môn như trên, tốt
nghiệp loại ưu (Tr.305) chắc là DTT sẽ đạt nhiều thành tích xuất sắc
trong hoạt động chuyên môn của ḿnh. Sau đây là những thành tích của
một bác sĩ XHCN rất đáng để chúng ta suy gẫm và đánh giá.
08.04.68 (tr.33)
Mỗ một ca ruột thừa trong điều kiện thiếu thốn, thuốc giảm đau chỉ
c̣n vài ống Novoraine nhưng người thương binh trẻ không hề kêu la
một tiếng, anh c̣n cười để động viên ḿnh, nh́n nụ cười gượng trên
môi khô v́ mệt nhọc, ḿnh thương anh vô cùng.
Rất đau xót rằng sự nhiễm trùng trong ổ bụng không do ruột thừa vỡ.
T́m kiếm gần một giờ đồng hồ không thấy nguyên nhân đành đóng lại
cho đặt dẫn lưu và đổ kháng sinh trong ổ bụng.
Nỗi băn khoăn của một người thầy thuốc cộng nỗi thương xót mến phục
người thương binh ấy làm ḿnh không thể yên ḷng, vuốt nhẹ mái tóc
anh ḿnh muốn nói với anh rằng: với những người như anh mà tôi không
cứu chữa được th́ đó sẽ là nỗi đau xót khó mà phai đi trong cuộc đời
phục vụ của một người thầy thuốc.
Bác sỹ định bệnh sai, đưa đến chết người
22.04.68 (Tr.41)
... Một ngày mệt nhọc vô cùng, ba ca thương nặng vào một lúc, suốt
một ngày đứng bên bàn mổ, đầu óc căng thẳng v́ những vết thương, v́
tiếng khóc xé ruột của chú Công (cha Hường) và v́ những tin buồn dồn
dập ...
DTT là bác sỹ mắt nhưng làm công việc giải phẫu là chính.
20.07.68 (Tr.64)
... Những ngày bận rộn công tác dồn dập, thương nặng, người ít, mọi
người trong bệnh xá đều hết sức vất vả. Riêng ḿnh trách nhiệm càng
nặng nề hơn bao giờ hết, mỗi ngày làm việc từ sáng tinh mơ cho đến
đêm khuya khối lượng công việc quá lớn mà người không có nên một
ḿnh vừa phụ trách bệnh xá vừa lo điều trị, vừa giảng dạy. Vô cùng
vất vả cũng c̣n nhiều khó khăn trong công việc nhưng hơn bao giờ hết
ḿnh cảm thấy rằng ḿnh đă đem hết tài năng, sức lực của ḿnh để
cống hiến cho cách mạng....
27.08.68 (Tr.75)
Một ca mổ quan trọng đă kết quả. Thận dập nát đă được may lại, máu
ngừng chảy nước tiểu người bệnh nhân ấy đă trong lại b́nh thường. Lẽ
ra niềm vui ấy sẽ tràn trề, một mạng người được cứu sống nhưng sao
ḿnh rất b́nh thản trước nụ cười và đôi mắt cảm phục của người bệnh
nhân ấy. Một ḍng máu ngừng chảy nhưng bao nhiêu ḍng máu đă chảy và
đang chảy? ...
05.10.68 (Tr.84)
Một ca tử vong sau phẫu thuật cắt đoạn. Đó là một bệnh nhân gần 66
tuổi nhưng sức c̣n khỏe, đó là một Đảng viên già đă 23 năm trời liên
tục chiến đấu. Gia đ́nh và bệnh xá đă tận t́nh cứu chữa mà cũng
không sao cứu thoát cho ông già. Riêng ḿnh dù tập thể và chính bản
thân con trai ông già đă xác định và thừa nhận ḿnh không có lỗi mà
chỉ có ḷng tận t́nh cứu chữa nhưng ḿnh vẫn xót xa.
V́ sao ông ta chết? V́ kỹ thuật? Cũng không phải tuy là ca đầu tiên
cắt cụt nhưng ḿnh vẫn b́nh tĩnh vẫn đảm bảo thời gian và kỹ thuật.
Vậy th́ v́ sao? V́ không truyền được lọ plasma? Nhưng sự việc này
cũng không biết nói sao, cứ truyền vào đúng ven lại trật ra do ông
già quẫy cựa. Buồn vô cùng! Một ca tử vong không đáng tử vong mà lại
không rút ra được bài học ǵ đích đáng cả.
Lần đâu tiên giải phẫu cắt cụt, gây chết người, mà không rút ra được
bài học nào cả.
24.10.68 (Tr.91)
Một ca mổ cancer dạ dày ở giai đoạn cuối. Với điều kiện thô sơ ḿnh
cũng đă mỗ thăm ḍ nhưng rất tiếc rằng cancer đă sang giai đoạn di
căn. Không thể làm ǵ hơn đành đóng ổ bụng lại và đau xót nh́n người
bệnh nhân đi dần đến cái chết....
Lại mổ ung thư, gây chết người.
09.01.69 (Tr.115)
... Hôm nay Bốn lại vào viện, da xanh mướt, em nằm im ĺm không rên
la, một chân đă bị ḿn tiêu cụt tơi tả, máu thấm ướt hết áo quần.
Bằng tinh thần trách nhiệm cộng với t́nh thương, ḿnh đă cùng các
đồng chí hết sức cứa chữa cắt cụt chân xong, Bốn cười và nói: “Bây
giờ chắc sống 80% rồi đây“
Riêng ḿnh vẫn lo lắng v́ Bốn mất máu quá nhiều, mạch vẫn rất nhanh
140-150 nhưng cũng nhiều hy vọng.
Cuối cùng Bốn đă không vượt qua nổi, máu ra nhiều quá nên em không
c̣n đủ sức. Bốn ơi máu em đă thấm đầy trên mảnh đất quê hương, máu
em đă chảy dài trên đường em đi chiến đấu....
Cũng cắt cụt gây chết người
15.03.69 (Tr.133)
Một đồng chí bộ đội nữa hy sinh, anh bị một vết thương xuyên thấu
bụng. Sau cuộc mổ t́nh trạng không tốt mà xấu đến có lẽ v́ một sự
chảy máu trong do miến mảnh không t́m thấy cọ xát làm đứt một mạch
máu nào đó. Sau hội chẩn, ư kiến chung không đồng ư mổ lại. Riêng
ḿnh vẫn băng khoăn lưỡng lự.
Cuối cùng anh đă chết. Cái chết của anh làm ḿnh suy nghĩ đến đau
đầu. Anh chết v́ sao? V́ sự thiếu cương quyết của ḿnh chăng? Rất có
thể là như vậy. Nếu ḿnh kiên quyết, ít ra 100% th́ hy vọng cứu sống
anh có thể có 10%. Ḿnh đă theo đuôi quần chúng, bỏ qua một việc làm
nên làm.”
DTT là người có chuyên môn duy nhất trong bệnh xá mà không có quyền
quyết định về chuyên môn bằng lănh đạo quần chúng? Giá trị của lănh
đạo tập thể?
29.07.69 (Tr.174)
Chiến tranh thật tàn khốc hết mức, sáng nay người ta đem đến cho
ḿnh một thương binh toàn thân bị lân tinh đốt cháy, đến với ḿnh
sau cả giờ đồng hồ kể từ lúc bị nạn mà khói vẫn c̣n nghi ngút cháy
trên người nạn nhân....
Tóm lại DTT là một bác sỹ mắt mà đi làm công việc giải phẫu chửa đủ
các loại bịnh theo kiểu “không có chó, bắt mèo ăn cứt” từ cắt cụt
chân, mổ ruột thừa, vá thận, mổ ung thư dạ dày, chửa bỏng c̣n nhiều
nữa chưa kể hết trong nhật kư này (?)
Trong hơn một năm làm phẫu thuật, gây chết 5 người mà vẫn được khen
tặng như sau:
06.10.68 (Tr.85)
Có những lời nữa đùa nữa thật ghen với t́nh thương mà mọi người đă
giành cho ḿnh. Ḿnh cũng suy nghĩ về những lời đùa đó nhưng suy ra
cho cùng đâu phải mọi người thương ḿnh v́ hai chữ “Bác sỹ”...
1.11.68 (Tr.92)
Tổng kết năm qua, bệnh xá Đức Phổ được báo cáo điển h́nh trong toàn
tỉnh về thành tích điều trị và các mặt khác, và trong số những người
xuất sắc ấy có cả ḿnh. Đó là một thắng lợi chung trong đó có ḿnh
một chút.
07.04.1969 (Tr.138)
Được rất nhiều thư, niềm vui tràn ngập thư mẹ, thư em, thư bè bạn từ
trên khu, trên tỉnh, trên huyện, dưới xă ai ai cũng gửi đến ḿnh
ḷng thương mến thiết tha.
Những lời khen ít nhiều cũng làm ḿnh sung sướng: “Thùy Trâm đă được
mọi người thương, bạn mến, Đảng tin...”, “Thật là một người trí thức
toàn diện...”
Không biết bao nhiêu lần ḿnh tự hỏi phải làm ǵ
đây để xứng đáng với ḷng tin của mọi người.
Đây là niềm hănh diện của Đặng Thùy Trâm, người trí thức XHCN toàn
diện(?)
Với thành tích trên đă khơi động sự ṭ ṃ của người viết phải đi t́m
lại dấu tích con đường học vấn của tác giả. Qua lời kể bà mẹ DTT:
Bà cụ nói: “Gia đ́nh không tưởng tượng được là ngay ở Đức Phổ, Quảng
Ngăi mà Thùy c̣n gây dựng được một vườn thuốc và người dân vẫn giữ
ǵn đến tận bây giờ”. Chị Kim Trâm tiếp lời: “Vốn kiến thức về dược
liệu mà chị Thùy có đấy là được mẹ truyền cho từ ngày c̣n nhỏ.
Trường y đâu có dạy chị về dược liệu, nhất là thuốc nam. Hồi bé,
chúng tôi ở với cha mẹ ngay trong khu tập thể Bộ Y tế, đằng sau là
một vườn thực vật rộng mênh mông. Ngoài giờ học và làm việc nhà, mấy
chị em toàn chạy vào vườn thuốc chơi.
Chúng tôi lấy những lá chuối to che lại làm lều, “cắm trại” ngay
trong vườn thuốc, tṛ chơi yêu thích nhất của chúng tôi là “đố cây
đố lá”, lá này của cây ǵ, dùng để làm ǵ. Không biết th́ về hỏi mẹ.
Cứ như thế mà chúng tôi biết được tên gọi và công dụng của các cây
thuốc trong vườn”.
Bà cụ lại tiếp: “Thùy nó học nhiều hơn ở cha. Thùy học chuyên khoa
mắt, không học ngoại, nhưng hằng ngày sau khi học ở trường y về Thùy
vẫn đến bệnh viện của cha để theo dơi cha mổ, để học thêm những kinh
nghiệm điều trị của cha. Tối đến, hay vào các ngày nghỉ, hai cha con
lại say sưa cùng nhau vẽ. Ông ấy không dạy Thùy vẽ tranh phong cảnh
mà dạy con vẽ người trên các bức h́nh giải phẫu. Ông ấy vẽ đẹp lắm,
Thùy nhờ cha cũng vẽ rất khá, và cũng từ các bức vẽ “anatomie” ấy,
cùng với những lần theo cha đi trực giải phẫu mà sau này khi vào
chiến trường, nó có thể bắt tay làm phẫu thuật thương binh được, dù
học chuyên khoa mắt”. (Báo Tuổi trẻ 4-8-2005 bài ngọn nến vẫn cháy
măi)
Tóm lại DTT học tây y chuyên khoa mắt, nhưng ra làm chuyên viên giải
phẫu đủ các loại bệnh và chữa trị bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn,
chẳng khác ǵ các thầy thuốc lang băm. Một kỷ lục đáng hănh diện ghi
vào lịch sử phát triển y tế CNXH Việt Nam(?)
Đọc tiếp nhật kư (tr.314-315) “ Ai biết liệt sĩ Đặng Thùy Trâm? ...
Chúng tôi đă hỏi trường Đại học Y khoa. Sở Lao động Thương binh-Xă
hội, hỏi Ban liên lạc họ Đặng Việt Nam, đến cả Bảo tàng Phụ nữ Việt
Nam cũng không ai biết”.
DTT tốt nghiệp loại ưu là một vinh dự cho nhà trường và gia đ́nh tại
sao không có tên trong danh sách tốt nghiệp? Tại sao gia đ́nh không
có giữ một bằng chứng nào như văn bằng tốt nghiệp, h́nh ảnh lễ măn
khóa, tiệc mừng gia đ́nh lúc DTT tốt nghiệp? Trong khi gia đ́nh vẫn
c̣n giữ h́nh ảnh những ngày cuối cùng trước khi vào Nam chiến đấu.
Điều này chứng tỏ DTT không có làm lễ măn khóa ra trường, không có
đem văn bằng tốt nghiệp về cho gia đ́nh lưu giữ (?)Chỉ có một câu
trả lời hợp lư là DTT chưa bao giờ tốt nghiệp đại học y khoa. và DTT
đă khai man lư lịch trước khi vào Nam chiến đấu?
Hăy nghe lời nhân chứng trong nkdtt (tr.319) lời của ông Ngô Sơn Huy
(nguyên phó hiệu trưởng trường PTDL Đinh Tiên Hoàng) là bạn thân của
Đặng Thùy Trâm như sau: “ Qua lời Trâm kể, tôi biết Trâm được tốt
nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội sớm một năm để đi chiến trường.”
Tại sao DTT lại tốt nghiệp sớm một năm? Theo thông lệ miền Nam sinh
viên ra trường sớm hơn học tŕnh đào tạo chỉ rơi vào những trường
hợp học kém hay bị kỷ luật bị sa thải mà thôi. Sinh viên ở miền Bắc
th́ sao? chắc không ra ngoài thông lệ đó?
Hăy nghe DTT tự thú trong nhật kư:
23-07-69 (Tr.170)
Một chiếc bật lửa Mỹ có khắc tên ḿnh cạnh tên người đồng chí thân
yêu. Anh Đáo đưa nó cho ḿnh và hỏi ai khắc. Ḿnh cười vô tư rồi trả
lại anh nhưng lúc ra về ḿnh cảm thấy nao nao. M. ơi! Anh khắc tên
em cạnh anh v́ sao? V́ những ngày xưa thơ mộng v́ t́nh thương yêu
đằm thắm nơi anh vẫn c̣n hay v́ đó là một động tác b́nh thường của
anh? Thực ra không ai làm việc ǵ mà không có ư nghĩ. M. lại càng
không phải là loại người như vậy nhưng M. ơi, anh hăy nói đi anh, v́
sao anh khắc tên em bên cạnh tên người bộ đội giải phóng quân mà anh
thường nói rằng không phù hợp với cô sinh viên y khoa ấy?
M là người yêu của DTT từ 8 năm trước, vẫn xem DTT là một sinh viên
y khoa dù DTT đă làm việc với chức danh bác sĩ đă 3 năm qua, đây là
điều nghịch lư trong nhật kư. Chỉ có thể lư giải một điều bí mật chỉ
có giữa M. và DTT biết rất rơ mà thôi đó là : DTT là một sinh viên y
khoa và chưa bao giờ tốt nghiệp và măi măi vẫn là một sinh viên y
khoa trong ḷng M. DTT đă chấp nhận sự thật đó! DTT không hề phản
kháng hay hờn giận.
4.- NHỮNG NGHI VẤN XUNG QUANH CUỐN NHẬT KƯ:
Đây là phần nội dung biên soạn trong sách in do những người chỉnh lư
biên soạn và nhân chứng liên quan hoàn toàn không có trong bản gốc
nhật kư.
4.1 NGƯỜI LƯU GIỮ NHẬT KƯ:
Câu chuyện xuất phát từ ông tiến sĩ FREDERIC WHITEHURST, 35 năm về
trước là một người lính trinh sát Hoa Kỳ có lưu giữ hai tập nhật kư
của ĐTT, và ông đă có ư định t́m lại gia đ́nh DTT để tính đến chuyện
xuất bản tập nhật kư trên, phần sau là một trong những thư trao đổi
đầu tiên giữa ông Frederic Whithurs với gia đ́nh DTT.
Chủ nhật, 1.5.2005
Thưa bà Trâm,
Tôi mong rằng lá thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là
niềm tự hào của một người mẹ đă sinh ra một người con gái rất đặc
biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin đó
là cái chết của con gái bà. Tôi ngồi chờ một trận đánh cùng một quân
đoàn Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và chúng tôi nói với
nhau về những trận đánh trong quá khứ.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn
vị gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của anh gặp
nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây huyện Đức Phổ.
Ngay lập tức có người nổ súng vào họ. Người lính thấy rơ nhiều người
đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt họ, v́ thế họ kêu gọi
người đang bắn đầu hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều
viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi v́ lính Mỹ được trang bị rất nhiều
vũ khí và họ chỉ cần tích tắc để chặn một tay súng lại. Khi thấy bị
bắn tiếp lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia trúng đạn. Nhưng toán
lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến được nơi người kia nằm
toán lính Mỹ nhận thấy rằng người đó chết trong khi bảo vệ các bệnh
nhân của một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một khẩu SKS và
một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Di sản của DDT-Talawas)
Bức thư trên đă được chỉnh lư sửa đổi. Người biên tập đă ngang nhiên
sửa đổi nội dung thư từ riêng của một luật sư tiến sĩ (có sự đồng ư
của tác giả bức thư không?) đây là một điều xúc phạm nặng nề, khó
chấp nhận được. Sau đây là bức thư bị sửa đổi:
20g27, chủ nhật 1-5-2005
Thưa bà Trâm.
Tôi mong rằng thư này sẽ không đem đến cho bà nỗi buồn mà chỉ là
niềm tự hào của một người mẹ đă sinh ra một người con gái rất đặc
biệt. Tôi cần phải nói lại với bà điều mà bao năm qua tôi vẫn tin:
đó là trường hợp hi sinh của con gái bà. Tôi đang ngồi chờ một trận
đánh cùng một đơn vị lính Mỹ. Ngồi bên cạnh tôi là một người lính và
chúng tôi nói với nhau về những trận đánh đă từng tham dự.
Người lính đó kể cho tôi nghe về một trận chiến đấu lạ lùng giữa đơn
vị của anh ta gồm 120 người đàn ông với một người phụ nữ. Đơn vị của
anh ta gặp nhiều lều trại trong rừng sâu trên vùng núi phía tây
huyện Đức Phổ. Ngay lập tức có một người nổ súng vào họ. Người lính
thấy rơ nhiều người đang chạy trong rừng để trốn thoát và muốn bắt
họ, v́ thế họ kêu gọi người đang bắn hăy đầu hàng, nhưng đáp lại lời
kêu gọi đầu hàng là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi v́ lính Mỹ được trang bị rất nhiều
vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy
nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia
trúng đạn. Nhưng toán lính Mỹ không bắt được ai khác nữa. Khi đến
được nơi người kia nằm toán lính Mỹ nhận thấy người đó đang bảo vệ
các bệnh nhân trong một bệnh viện. Trên xác người phụ nữ đó có một
khẩu CKC và một cái túi vải bạt đựng vài cuốn sổ và sách vở.
Fred (Tr.259)
Phải chăng ông Fred sợ rằng gia đ́nh không tin câu chuyện kể của
ḿnh , nên ông Fred đă cẩn thận nhấn mạnh lần thứ hai qua bức sau:
9g44, thứ hai, 2-5-2005.
Thưa bà Trâm.
Và giờ đây thắc mắc của tôi đă được giải đáp. Trận đánh mà người
lính nọ tả lại cho tôi đúng là điều đă xảy ra. Con gái bà đă một
ḿnh chiến đấu với 120 lính Mỹ để bảo vệ các bạn ḿnh.
Ở bất cứ đất nước nào trên thế giới điều đó đều được gọi là ANH HÙNG
và những người anh hùng đều được tất cả mọi người tôn kính, dù người
đó là đàn ông hay đàn bà. Thế giới phải được biết về sự dũng cảm của
con gái bà và măi măi học hỏi được điều ǵ đó từ t́nh yêu và những
suy nghĩ của chị. Fred (tr. 261)
Thưa ông tiến sỹ Frederic Whithurs qua nội dung bức thư tự giới
thiệu:
Thứ Ba, 3.5.2005
Hiền và Hồ thân mến,
.... Khi trở về nhà sau chiến tranh, thân thể tôi chỉ bị thương chút
ít nhưng trái tim tôi bị tổn thương. Ngay sau khi trở về tôi quay
lại trường đại học và tiếp tục học môn hóa. Học xong đại học tôi
tiếp tục làm tiến sĩ về hóa học ở đại học Duke trong năm năm rưỡi.
Tôi nhớ đó là một thời gian rất khó khăn. Khi làm luận án tiến sĩ
tôi cần có người tài trợ, và giáo sư hướng dẫn của tôi chọn người
tài trợ là quân đội Mỹ.
Nhưng họ muốn tôi nghiên cứu về các vật liệu có chứa phốt-pho. Những
nghiên cứu như thế có thể giúp phát triển một cuộc chiến tranh khí
hóa học. Tôi tức giận từ chối và nói với giáo sư là tôi sẽ thôi
không nghiên cứu nữa. Tôi sẽ không để cho người ta sử dụng ḿnh để
giết người một lần nữa. Giáo sư nói với tôi rằng một ngày kia tôi sẽ
hiểu bất cứ điều ǵ do con người sáng tạo ra sẽ có một kẻ t́m cách
sử dụng nó với những mục đích hủy hoại, đồng thời sẽ có người khác
t́m cách sử dụng nó với mục đích tốt đẹp. Dẫu thế tôi vẫn từ chối và
cuối cùng đề tài nghiên cứu của tôi là hóa học các-bon. Sau khi nhận
được bằng tiến sĩ hóa học vào năm 1980 tôi tới Texas để tiếp tục học
tập và nghiên cứu, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận thấy không thỏa măn.
Vậy là tôi lại làm việc cho chính phủ Mỹ một lần nữa và trở thành
một nhân viên của FBI. Suốt bốn năm, mặc dù là tiến sĩ hóa học nhưng
tôi lại làm một thám tử đặc biệt của FBI chuyên điều tra các vụ cướp
nhà băng, bắt cóc trẻ em, các vụ ma túy có liên quan đến heroin, cần
sa, cocain và các chất gây nghiện khác. Sau đó tôi chuyển tới làm ở
một pḥng thí nghiệm về các tội phạm h́nh sự của FBI, Washington
D.C. Chính ở đó tôi đă trở nên nổi tiếng cả ở trong nước lẫn quốc
tế. Các bạn thử gơ tên tôi trên Internet và xem người ta đă viết
những ǵ. Cuối cùng tôi đă kiện Tổng thống Mỹ, Tổng Luật sư, Giám
đốc FBI, Cơ quan FBI, Bộ Tư pháp Mỹ và Chính phủ Mỹ.Đó là cả một câu
chuyện dài về một người đàn ông không làm ngơ trước những sai
trái.Năm 1998, sau khi thắng tất cả các vụ kiện, tôi về hưu sớm,
quay về sống ở cái xóm nhỏ Bethel để tiếp tục công việc và chăm sóc
cha mẹ tôi.Năm 2000 cha tôi qua đời nhưng mẹ tôi c̣n sống và là một
kho báu đối với gia đ́nh tôi cũng như đối với tôi.V́ tôi có học luật
trong những năm từ 1992 đến 1996 ở Đại học Georgetown ở Washington
DC cho nên từ khoảng hai năm rưỡi nay tôi bắt đầu hành nghề luật.
... Fred (Di sản DTT - Talawas)
Ông là người có nhiều kinh nghiệm thực tế và kiến thức uyên bác như
trên th́ tôi không nghĩ là ông không biết (trừ phi ông cố t́nh không
muốn biết) câu chuyên của người lính vô danh cách đây 35 năm chỉ là
DỐI TRÁ, là HƯ CẤU. Thế mà ông vẫn cố t́nh tin là sự thật(?)để tạo
dựng nên một mẫu anh hùng ĐẶNG THÙY TRÂM th́ người viết đành phải
đặt nghi vấn về sự trong sáng của cá nhân ông trong công việc lưu
trữ nhật kư này bởi những nghịch lư sơ đẳng như sau:
4.1.1.- Quân số và đơn vị: Trước 1975 hệ thống binh quyền của lính
Mỹ và VNCH được tổ chức theo lư thuyết là đơn vị nhỏ nhất là tiểu
đội gồm 12 người, 3 tiểu đội gộp lại thành một trung đội, và ba
trung đội thành một đại đội và 3 đại đội thành 1 tiểu đoàn. Và lệnh
tác chiến phân bổ theo đơn vị chứ không theo số người dù rằng trên
thực tế quân số đơn vị luôn luôn thiếu do hao hụt bởi cuộc chiến
không bổ sung kịp. Như vậy con số 120 người lính nói trên thuộc bao
nhiêu đơn vị?. Một đại đội quá thừa, mà hai đại đội quá thiếu quân
số không phù hợp với thực tế . Như vậy chỉ có thể kết luận đây là
con số 120 lính Mỹ chỉ là con số phóng đại trong cuộc hành quân nói
trên. Phóng ảnh tr.290 báo cáo quân sự cho thấy chỉ có một trung đội
hành quân lúc bấy giờ tức là dưới 36 người.
4.1.2.- Vũ khí, hỏa lực: Sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân, không
kể các loại súng cộng đồng, hay đại liên, vũ khí cá nhân của hai bên
cuộc chiến đă hoàn toàn thay đổi. lính miền Bắc sử dụng AK.47, riêng
lính Mỹ và VNCH sử dụng súng M.16, M.15 đây là những loại súng tự
động, bắn liên thanh hằng loạt với tốc độ nhanh, sát thương nhiều.
C̣n những loại súng bán tự động như carbin M.1, M.2, garant M.1, CKC
không c̣n được dùng trong trực tiếp chiến đấu nữa v́ hỏa lực yếu,
tốc độ bắn chậm, dễ trở ngại tác xạ, các loại súng này chỉ được sử
dụng canh gác thứ yếu ở những đơn vị pḥng thủ cơ sở, hay nhát ma mà
thôi.
Do vậy với hỏa lực SKS(?)chỉ có khả năng bắn tỉa bắn lén rồi chạy
trốn làm ǵ có trực diện chiến đấu với 120 lính Mỹ. V́ chỉ cần nổ
phát súng, lộ mục tiêu là banh thây ngay tích tắc chứ làm sao mà có
thể cầm cự khá lâu. Đây là một sự hoang tưởng.
4.1.3.- Thực tế hành quân: Đội h́nh hành quân căn bản ở quân trường
đă dạy, nhất là lính Mỹ lại càng được huấn luyện kỹ lưỡng hơn nữa,
để tránh nhiều thương vong th́ khi hành quân thường dùng đội h́nh
quả trám hay đội h́nh hàng ngang và luôn luôn có toán trinh sát đi
đầu. Như vậy DTT bất quá chỉ đụng phải toán trinh sát nhỏ này là đă
chết bởi hỏa lực yếu kém của ḿnh, đâu c̣n thời gian chờ 120 lính Mỹ
đàng sau đi tới để chiến đấu trở thành anh hùng.
4.1.4.- Trở lại lời văn viết trong thư : “Ngay lập tức có người nổ
súng vào họ. Người lính thấy rơ nhiều người đang chạy trong rừng để
trốn thoát và muốn bắt họ, v́ thế họ kêu gọi người đang bắn đầu
hàng, nhưng đáp lại lời kêu gọi là thêm rất nhiều viên đạn bắn vào
họ.
Đây là một người rất anh hùng bởi v́ lính Mỹ được trang bị rất nhiều
vũ khí vậy mà phải khá lâu mới có thể chặn lại một tay súng duy
nhất. Khi thấy bị bắn tiếp, lính Mỹ bèn bắn trả và tay súng kia
trúng đạn”
Trong hành quân tác chiến, địch nổ súng vào ḿnh tại sao không bắn
trả theo phản xạ chiến trường, theo qui luật bất thành văn bắn chậm
là chết, mà lại kêu gọi đầu hàng? Tại sao thấy người chạy trốn lại
không bắn hay đuổi theo, trong khi muốn bắt họ? tại sao súng SKS lại
có thể bắn được nhiều viên đạn bắn vào lính Mỹ mà 120 tay súng bắn
lại khá lâu mới chặn được? Cũng là những điều nghịch lư.
4.1.5.- Đặng Thùy Trâm chiến đấu như một ANH HÙNG?
Chúng ta hăy nghe lời tự thuật của DTT trong nhật kư:
27-7-69 (Tr.173)
Bây giờ rất khó đi v́ pháo bắn nên chị không thể dẫn đi được. Quả
nhiên chưa nói dứt lời pháo đă nổ chát bên tai, lửa rực sáng cả khu
vực ḿnh ở. Đành phải ở lại nhà chị Thịnh đem nay một đêm đầu tiên
ḿnh phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo cho ḿnh ngoài những người
dân đối với ḿnh chỉ có một t́nh thương b́nh thường gần 3 năm nay đi
đâu ḿnh cũng vô tư mặc dù giữa t́nh h́nh rất căng thẳng ḿnh vẫn
yên tâm v́ đă có người bảo vệ ḿnh chu đáo, dựa vào họ ḿnh không
phải lo lắng ǵ cả. Đêm nay chỉ một ḿnh ḿnh lần đầu tiên kể từ
ngày bước chân vào Nam ḿnh phải suy nghĩ, địch càn xuống ḿnh sẽ
chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay th́ phải xử trí thế nào?
Cần liên hệ với ai để có công sự ở
Tính vào thời điểm tháng 7-69, sau 3 năm vào Nam, DTT chưa một ngày
trực tiếp chiến đấu, chưa hề cầm súng, đi đâu có người bảo vệ, chưa
biết phản ứng ra sao khi địch tấn công.
Trong thư ông mô tả DTT một ḿnh chiến đấu như là anh hùng, có phải
DTT đă tự nguyện hay là bị bắt buộc chiến đấu? bị bỏ rơi không lối
thoát? và đây là câu trả lời từ trong nhật kư DTT:
8.4.69 (Tr.139)
Địch càn, vào gần đến máng nước, c̣n một chút xíu nữa là cơ đồ của
bệnh xá tan hoang. Biết địch gần sát bên nách mà sao ḿnh b́nh tĩnh
lạ lùng. Sau khi đưa thương binh đến chỗ trốn rồi ḿnh quay lại đứng
trong pḥng mổ. Ḿnh muốn thử xem nếu địch vào đến đây ḿnh có đủ
can đảm và linh hoạt giải quyết như những người thường hay ở lại hay
không. Cuối cùng địch không vào và đêm đó ḿnh lại ngủ ngon lành
trong căn pḥng trống trải lộn xộn giữa cảnh chạy càn.
28.4.69 (Tr.145)
Dù đă dự kiến trước nhưng khi t́nh huống xảy ra vẫn có những cái lận
đận vất vả vô cùng. Sáng nay theo tinh thần cuộc họp ban lănh đạo
bệnh xá đêm qua, toàn bộ số thương binh nặng và đi lại khó khăn
chuyển sang trường Đảng v́ thấy địch có khả năng lùng sục vào bệnh
xá.
Chưa đến 6 giờ ḿnh giục anh em chuyển thương binh đi rồi cũng tay
xách nách mang theo anh em. Khiêng lên khỏi dốc trường Đảng, mồ hôi
ai nấy chảy dài trên mặt nhưng không thể chần chừ nghỉ cho ráo mồ
hôi được, ḿnh đành động viên anh em quay lại khiêng nốt ba ca
thương c̣n lại ở sau.
Chưa đầy một giờ ba mươi phút sau, mấy loạt súng nổ gần bên tai,
ḿnh nghĩ thầm chắc địch đă đến trạm trực nên quay vào báo cho
thương bệnh binh chuẩn bị tư thế. Chưa kịp làm ǵ th́ anh em du kích
dân tộc hốt hoảng chạy vào báo địch đă vào đến máng nước rồi và tất
cả nhân dân hối hả chạy.
Tất cả lực lượng khiêng thương binh đều chưa về đây, nh́n lại c̣n
năm cas phải khiêng mà chỉ có ḿnh, Tám và mấy đứa học sinh đợt I
đang chuẩn bị đi về. “Không thể bỏ thương binh được, phải cố gắng
hết sức ḿnh khiêng thương binh, các đồng chí ạ!”. Ḿnh nói mà ḷng
thấy băn khoăn khi trước mặt ḿnh chỉ là mấy đứa thiếu nhi gầy ốm,
mảnh khảnh. T́nh thế nguy nan, Tám và Quảng hớt hải chạy đến báo tin
địch đă vào đến suối nước chỗ tắm rồi.
Mấy cas thương được chuyển đi, c̣n lại Kiệm - một thương binh cố
định găy xương đùi. Không biết làm sao ḿnh gọi Lư - con bé học sinh
- lại cùng khiêng. Kiệm lớn xác, nặng quá hai chị em không thể nào
nhấc lên được. Ráng hết sức cũng chỉ lôi được Kiệm ra khỏi nhà được
một khúc, ḿnh đành bỏ đó đi gọi anh em đến chuyển giùm. May quá lại
gặp Minh, Cơ - hai đứa vừa thở vừa báo tin địch đă bắn chết đồng trí
Vận - thương binh. Mấy chị em khiêng Kiệm chạy xuống hố trốn tạm một
nơi.
Một giờ sau mới tập trung đông đủ được số thương binh lại, chỉ thiếu
một ḿnh Vận, c̣n cán bộ th́ vắng chín đồng chí.
DTT đă bị bỏ rơi một ḿnh với 5 thương binh nặng. Một giờ sau 9 cán
bộ vẫn chưa về.
Hăy đọc tiếp trang nhật kư cuối cùng:
20.6.70 (Tr.255)
Đến hôm nay vẫn không thấy ai qua. Đă gần 10 ngày kể từ hôm bị bom
lần thứ hai, mọi người ra đi hẹn sẽ trở về gấp đến đón bọn ḿnh ra
khỏi khu vực nguy hiểm mà mọi người nghi là Điệp đă chỉ điểm nay. Từ
lúc ấy, những người ở lại đếm từng giây phút, 6 giờ sáng mong chờ
đến trưa, trưa mong cho đến chiều... Một ngày, hai ngày.. rồi chín
ngày đă trôi đi mọi người vẫn không trở lại! Những câu hỏi cứ xoáy
trong đầu óc ḿnh và những người ở lại. V́ sao? lư do v́ sao mà
không trở lại. Có khó khăn ǵ? Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn
bỏ bọn ḿnh trong cách này sao?
Không ai trả lời bọn ḿnh cả, mấy chị em hỏi nhau, bực bội, giận hờn
rồi lại bật cười, nụ cười qua hai hàng nước mắt long lanh chực tràn
ra trên mi mắt.
Hôm nay gạo chỉ c̣n ăn một bữa chiều nay là hết. Không thể ngồi nh́n
thương binh đói được. Mà nếu đi, một người đi th́ không đảm bảo,
đường đi trăm ngh́n nguy hiểm c̣n nếu đi hai người th́ bỏ lại một
người nếu có t́nh huống ǵ xẩy ra th́ sao? Và không nói ǵ xa xôi,
trước mắt trời sẽ ập nước xuống, một ḿnh loay hoay lam sao cho kịp,
chăng nilon trước th́ sợ máy bay! Cuối cùng phải hai người đi chị
Lănh và Xăng ra đi, ḿnh đứng nh́n hai người chị quần xắn tṛn trên
vế, lăn lội qua ḍng suối nước chảy rầm rầm, tự nhiên nước mắt ḿnh
rưng rưng.
Qua những trang thư trên có thể kết luận rằng DTT chưa hề có một
ngày trực tiếp cầm súng chiến đấu, DTT làm công tác hậu cần săn sóc
thương binh, và đă từng bị bỏ rơi một ḿnh khi có t́nh huống địch
càn, và không có có kinh nghiệm úng xử lúc lâm trận th́ làm ǵ có
chuyện anh hùng chống 120 lính Mỹ. Cũng giống như h́nh ảnh những cán
binh mặt c̣n búng ra sửa, không biết lư do v́ sao mà phải đi chiến
đấu, bị xích lại trong xe tăng lầm lũi tiến đến trong lửa đạn v́ số
lùi đă bị phá hỏng trong tết Mậu Thân tại thành Nội Huế. Cũng được
ca ngợi là anh hùng?
DTT chết trong hoàn cảnh bỏ rơi một ḿnh chỉ là trường hợp vắt chanh
bỏ vỏ mà thôi.
4.1.6.- Thương binh ở đâu:? Theo mô tả t́nh huống trong lá thư ngày
17-06-70 (Tr.253)
“Ngày này Moran không quân, không khí im lặng thỉnh thoảng từng đợt
những chiếc HU1A quần sát trên đồi, chắc chắn địch ở quanh khu vực
này. Chỉ có ba chị em gái ở nhà cùng với năm thương binh cố định”
Ngày 20.6.70 hai người đi t́m lương thực, chỉ c̣n lại một ḿnh DTT
và 5 thương binh nặng nằm một chỗ.
Ngày 22.6.70 DTT chết tại sao không bắt được người nào? Vậy 5 thương
binh ở đâu? Không lẽ 120 lính khỏe mạnh không chạy kịp 5 thương binh
nằm tại chỗ ?
4.1.7.- Tiếng chân người? Với t́nh huống hiện trường như trên, th́
một nghi vấn đặt ra là tiếng chân người chạy là ai? ở đây có nhiều
kịch bản xảy ra trong ngày 21 và 22 như sau:
•KB1: Đoàn người không về. DTT phải chiến đấu cản đường với cây súng
SKS để cho thương binh trốn thoát? Những thương binh nằm liệt giường
mà c̣n khả năng chạy tạo nên tiếng chân th́nh thịch cho lính Mỹ nghe
thấy? Với khoảng cách giữa địch và lính Mỹ phải rất xa? Nếu gần th́
đă bị bắt v́ chạy chậm hoặc đă chết v́ nằm trong tầm hỏa lực của
súng Mỹ.
•KB2: Đoàn người đi, đă trở về, nhưng trước t́nh huống địch tới đă
bỏ chạy, bỏ rơi DTT một ḿnh, với 5 thương binh.
•KB3: Đoàn người đă trở về cứu 5 thương binh, th́ tại sao DTT lại
không đi theo để săn sóc đó là nhiệm vụ chính của ḿnh. Tất cả đi
hết rồi, DTT ở lại chiến đấu làm ǵ?
Ba kịch bản trên đây đều là nghich lư. Và DTT đă nghi ngờ trong nhật
kư là hợp lư theo kịch bản 4:
•KB: Tiếng chân người chạy là hư cấu v́ thực tế trong t́nh h́nh nóng
bỏng vào thời gian đó, không có ai về, để đem thương binh và DTT đi
cả. Lời DTT đă nghi ngờ là bị bỏ rơi là đúng sự thật.
4.1.8.- Vết thương nạn nhân: Theo mô tả DTT nằm chết với cây súng,
không thấy mô tả hầm trú ẩn, cho thấy DTT nằm chết trên mặt đất. Chỉ
có một dấu đạn duy nhất trên trán nạn nhân (lời xác nhận của gia
đ́nh DTT). Đây là một điều nghịch lư v́ với một người chiến đấu trên
mặt đất trước hằng trăm viên đạn của 120 cây súng liên thanh tự động
mà chỉ có một vết thương duy nhất?
Những ai đă từng tập bắn bia ở xạ trường sẽ biết rơ chỉ cần một tiểu
đội bắn vào một tấm bia nhỏ (chứ đừng 120 cây súng bắn vào một con
người) sẽ biết có bao nhiêu dấu đạn.
Với vết thương này chỉ có thể kết luận là bị lạc đạn chết mà thôi.
Chứ không thể là vết thương của người trực tiếp chiến đấu trước số
đông người được.
4.1.9.- Súng SKS hay CKC ? Trong thư ông Fred xác nhận cây súng trên
ḿnh DTT là súng SKS và ông đă giải thích:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
... Kim hỏi về súng SKS. Em Kim ạ, tôi tin chắc câu chuyện mà người
lính Mỹ nọ kể cho tôi nghe chính xác là về chị của các bạn. Người Mỹ
gọi đó là súng trường SKS, đó không phải là AK47 mà là một khẩu súng
bán tự động bắn từng phát một. Nhưng dù cho đó là súng ǵ th́ cũng
không khiến chúng ta phải ngờ ngợ về những giây phút cuối cùng của
cuộc đời chị Thùy cũng như những hành động cuối cùng của chị. Mọi
chi tiết khác quá giống nhau qua những câu chuyện bạn chị kể lại
cũng như câu chuyện của người lính Mỹ kia.
Anh trai Fred. (Di sản DTT - talawas )
Với lời giải thích này ông đă xác quyết rằng trên xác DTT có cây
súng SKS là loại súng bán tự động.
Nhưng thực tế trên chiến trường Việt Nam không hề có loại súng nào
tên SKS cả mà chỉ có loại súng CKC hoặc SKZ mà thôi. Người biên tập
đă sửa đổi súng SKS thành CKC như một lời xác nhận sự thật này.
Không thể có sự lầm lẫn được, mà có thể giải đáp là không có cây
súng đó hay chỉ là sự bịa đặt.
4.2.- THƯỢNG SĨ NGUYỄN TRUNG HIẾU:
Đây là nhân chứng thứ hai mà ông Fred đă kể ra trong thư với gia
đ́nh DTT:
5.2.1-Thứ bảy, 30.4.2005
Hiền và Kim,
Tôi nhớ rơ cái ngày đó tựa như hôm qua. Người lính đó là thượng sĩ
Nguyễn Trung Hiếu, là phiên dịch cho đơn vị tôi. Anh ấy là một người
bạn rất thân của tôi. Hôm ấy chúng tôi nhận được rất nhiều tài liệu,
và sau khi đă t́m kiếm các tài liệu có giá trị quân sự chúng tôi bèn
đem chất đống chúng lại để đốt. Trong khi tôi đang đốt các tài liệu
th́ Hiếu chặn tôi lại. Tay Hiếu cầm cuốn sổ nhật kư của chị các bạn
và nói: “Fred, đừng đốt cuốn sổ này. Bản thân trong nó đă có lửa
rồi.” Tôi vô cùng cảm động thấy Hiếu có thể kính trọng một kẻ thù
nên làm theo lời anh. Nhiều đêm sau đó chúng tôi đă ngồi bên nhau và
bắt đầu dịch cuốn nhật kư.
Nhưng chẳng được bao lâu, chiến tranh khiến tôi phải gác cuốn nhật
kư qua bên. Khoảng một năm sau đó, trong khi tôi dịch thêm một số
tài liệu với Hiếu th́ anh lại một lần nữa nói với tôi rằng đây là
cuốn nhật kư thứ hai của cô bác sĩ.
Fred (Di sản DTT - talawas)
Những nghi vấn trong câu chuyện này như sau:
•Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết quyển nhật kư của DTT có lửa? Trong
khi tài liệu do chính tay ông Fred nhận được, đích thân tuyển chọn,
số c̣n lại sửa soạn đốt đi.
•Ông Hiếu đă đọc tài liệu lúc nào? Tại sao lúc đọc phát hiện nhật kư
có lửa lại không để riêng hay báo cho ông Fred biết để lưu ư, mà
phải chờ lúc ông Fred đem thiêu hủy mới ngăn cản?
•Tại sao ông Hiếu biết quyển nhật kư (1970) là của Đặng Thùy Trâm
trong khi trên bản nhật kư này ở trang đầu trang cuối không có ghi
tên họ người viết nhật kư?
•Tại sao một năm sau, Hiếu lại có quyển nhật kư thứ hai (1968-1969)?
Tại sao ông Fred không đặt ra nghi vấn về cuốn nhật kư này trong tay
Hiếu? Đây là một trong hai cuốn nhật kư mà DTT đă bị ăn cướp theo
như đă ghi trong nhật kư ngày 15-01-70 (Tr.216). Tính từ thời gian
này đến ngày DTT chết 22-6-70 là hơn 5 tháng cọng thêm một năm sau
tính từ ngày Fred nghe lời Hiếu nói nhật kư có lửa. Như vậy là cuốn
nhật kư 68-69 đă lưu lạc trên dưới 18 tháng mới xuất hiện trong tay
Hiếu đễ đưa cho ông Fred. Ở đây có 4 kịch bản xảy ra:
-KB.1: Cuốn nhật kư thất lạc trong rừng, 18 tháng sau Hiếu nhặt được
? Đây là chuyện hy hữu khó xảy ra v́ sau 18 tháng tập sách phơi mưa
nắng ở khó có thể c̣n nguyên vẹn và Hiếu cũng khó có thể t́nh cờ may
mắn như vậy được.
-KB.2: Cuốn nhật kư này bị lính Mỹ hay lính VNCH tịch thu th́ với
thời gian này đă bị xử lư hoặc thiêu hủy rồi.
-KB.3: Đơn vị của Fred đă tịch thu từ lâu mà Hiếu đă ém lại để 18
tháng sau mới đưa ra lại càng nghịch lư.
Tóm lại ba kịch bản trên đây không có tính xác thực và khả thị. Vậy
chỉ c̣n duy nhất kịch bản sau đây là hợp với t́nh huống trên mà
thôi:
-KB.4: Cuốn nhật kư thực tế không bị ăn cướp, mà chính ban phản gián
hay chính trị của đơn vị Thùy Trâm ăn cướp mà không cho DTT biết.
Hành động này nằm trong kế hoạch đă được dàn dựng sẵn(?)(Sẽ có kết
luận ở phần sau)4.2.2.- Theo báo Tuổi trẻ số 21.10.2005 - bài hành
tŕnh đi t́m Nguyễn Trung Hiếu kỳ cuối:
Ông Hiếu đă tiết lộ một t́nh tiết thú vị liên quan đến bài thơ Núi
Đôi: Khi cuốn nhật kư lọt vào tay Nguyễn Trung Hiếu, một mảnh giấy
rời chép nguyên văn bài thơ Núi Đôi được kẹp giữa những trang viết.
Nguyễn Trung Hiếu mê mẩn những câu thơ và đă đánh liều giữ lại nó
cho ḿnh trước khi đưa cho Fred cuốn sổ nhỏ. Tiếc là đến giờ ông
không c̣n giữ được trang giấy viết tay mà ông cho đó là của người
bạn tên MINH mà chị Thùy Trâm nhắc tới trong nhật kư đă chép tặng
chị.
Tại sao trong nhật kư không kể lại chuyện M tặng bài thơ Núi Đôi?
Một sự kiện quan trọng trong đời sống t́nh cảm của DTT. Trong nhật
kư ngày 14.8.1968 (Tr.72) DTT chỉ ghi là Khiêm cũng rất thích bài
“Núi đôi”. “Quê hương”.. mà không hề nhắc nhở ǵ đến M. cả.
Tại sao Nguyễn Trung Hiếu biết rơ tên Minh người yêu của Thùy Trâm
là tên hoàn toàn viết tắt M. trong nhật kư?
4.3.- NHÂN CHỨNG CHÍNH QUYỀN::
Anh Tâm bí thư huyện ủy Đức Phổ hiện nay, cho biết anh được nghe kể
lại trước khi hi sinh chị c̣n hô vang: “Hồ Chí Minh muôn năm. Đả đảo
đế quốc Mỹ” (Tr.258)
Lời hô này xảy ra trước hay sau khi bị bắn? Trước khi chết không lo
chiến đấu, mà hô khẩu hiệu để lộ mục tiêu ẩn núp cho địch bắn chết?
Nếu sau khi bị bắn với viên đạn vào trán th́ có c̣n thở được không
chứ đừng nói là hô to. Viên đạn ở trán cũng giống như phát súng ân
huệ của người chỉ huy bắn vào đầu tội phạm nơi pháp trường.
5. Nét bút thật của Đặng Thùy Trâm
5.1.- NÉT BÚT:
Dựa vào sự khác biệt của lối bỏ dấu, sự khác biệt của chữ G, chữ N,
phong cách viết, người viết t́m thấy có sáu nét chữ khác biệt trong
nhật kư như sau:
Nét bút của người thứ hai
5.1.2. Người thứ hai: có nét chữ nắn nót, chữ G thường đá cao lên
đầu, có chữ kư cũng khác biệt chữ kư của DTT. Mặc dù đương sự cố bắt
chước theo nhưng vẫn thấy rơ nét khác biệt, sau đây là toàn bộ nét
chữ và vị trí viết của người thứ hai.
5.1.3. Người thứ ba: Xem lại BT7 có chữ XHCN được viết ở dưới địa
chỉ trang cuối của quyển 1. Đặc biệt nét nút này viết cẩu thả, chữ g
đi thẳng xuống không hề đá lên như của DTT và người thứ hai.
5.1.4 Người thứ tư: là người vẽ h́nh b́a trang đầu quyển 2. Chữ T
hoa (Xuân Canh Tuất) của người này hoàn toàn khác các người trên.
Nét chữ c̣n vụng về, không vững chải).
5.1.5 Người thứ năm: Nét bút của lá thư Khiêm dán vào Nhật Kư
5.1.6 Người thứ sáu: Nét bút lá thư của Thuận dán vào Nhật kư.
5.1.7.- DTT: Tác giả đă viết nội dung chính của nhật kư và câu đầu
tiên của trang thứ nhất quyển 1
BT.1 Nét bút DTT ở trang 1 quyển 1
BT2 Nét bút DTT ở những trang trong nhật kư
BT.3: trang 1 quyển 2: Cùng nội dung với (BT1) nhưng nét bút và chữ
kư hoàn toàn khác.
BT.4: bên trái trang 1 quyển 1
BT.5: trang 2 quyển 1
BT.6: trang 3 quyển 1
Loại ra nét chữ của DTT và hai lá thư được dán vào, c̣n lại 3 nét
chữ của ai?
NGƯỜI THỨ HAI là ai? Đây là người đă 7 lần viết vào nhật kư DTT
Người viết dùng phương pháp loại suy và đi ngược thời gian đi t́m
dấu vết của người thứ hai như sau:
•Chữ kư ở trang ngày 1.2-.70 (BT.8) chỉ có thể kư sau ngày này khi
trang nhật kư đă được viết.
•Những ḍng địa chỉ ở trang cuối quyển 1 (BT.7) phải được ghi sau
ngày kết thúc nhật kư 04-12-69 và trước ngày 15-01-70 (là ngày bị
mất nhật kư) (Điểm suy luận này sẽ được xét lại ở phần sau)
•Ḍng chữ “Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giống
tố ở trang 3 quyển 1 (BT.6) giống câu DTT ghi nhật kư ngày
30-6-1968. Vậy ai đă sao chép của ai? Ở đây có thể phân tích hai
trường hợp:
-Trường hợp 1: DTT sao chép của người thứ hai, tức là nét chữ ở
trang 3 quyển 1 (BT.6) phải được viết trước ngày 30-6-68 là ngày ghi
nhật kư.
-Trường hợp người thứ hai sao chép của DTT, tức là nét chữ này ghi
sau ngày 30-6-68 và trước ngày mất nhật kư 15.01.70
•Ḍng chữ “Những ngày rực lửa, vui buồn tràn ngập giữa tim ta” của
DTT (BT.1) trang 1 quyển 1 được người thứ hai chép sai lại ở trang 1
quyển 2 (BT.3)
•Người thứ hai đă 4 lần viết vào nhật kư, với nội dung vay mượn của
Hoàng văn Thụ (BT.9), N.A. OSTROTSKY (BT.5), và DTT (BT.3 và BT.6).
Chứng tỏ người thứ hai không có bản lĩnh sáng tạo hay nói cách khác
tŕnh độ rất kém xa DTT. Chỉ có khoa trương bề ngoài qua nắn nót chữ
viết thôi.
•Tên DTT (BT.4) có thể viết cùng một ngày viết địa chỉ (BT.7).
•Quyển 2 nhật kư luôn luôn ở bên ḿnh DTT từ ngày viết cho đến khi
chết thế mà đă có nét bút người thứ hai. Vậy người thứ hai viết lúc
nào. Có hai giả thiết:
-Được thêm vào sau khi DTT đă chết th́ người thứ hai là lính Mỹ hay
Nguyễn Trung Hiếu. Nhưng hai người này làm sao biết được tên cha, mẹ
và địa chỉ của DTT để viết vào trang cuối quyển 1 (BT.7). V́ nét chữ
địa chỉ và nét chữ trang đầu quyển 2 đều của người thứ 2. Vậy giả
thiết này không vững.
-Người thứ hai đă viết vào nhật kư lúc DTT c̣n sống, và biết rơ lư
lịch DTT không ai khác hơn là người trong đơn vị, có thẩm quyền đọc
nhật kư, kiểm tra mọi hành vi của DTT. Đây có phải là một sự xúc
phạm nhân phẩm xen vào đời tư người khác không?
Ngoài ra c̣n một nghi vấn nữa, tại sao DTT khi viết nhật kư lại chừa
7 trang giấy trắng (tức là 4 trang đầu của bản copy) ? là một điều
bất thường trong t́nh h́nh khan hiếm giấy mực của thời chiến tranh.
Trong khi quyển thứ 2 chỉ chừa lại 2 trang đầu như thường lệ.
NGƯỜI THỨ BA và THỨ TƯ chỉ xuất hiện một lần trong nhật kư, không
đóng vai tṛ quyết định, cũng không loại trừ hai người này là một.
Họ là ai mà có thể ghi vào nhật kư?
Như vậy chỉ có người thứ hai đă nhiều lần đọc nhật kư DTT, nhiều lần
ghi chép vào nhật kư, thậm chí lại c̣n biết rơ tên cha mẹ, địa chỉ
của từng người để viết vào nhật kư. Trong thời gian này DTT không có
người yêu, cũng không có người thân gia đ́nh. Th́ chỉ có thể kết
luận người thứ hai là người có thẩm quyền nắm sinh mạng chính trị
của DTT. Đó là bí thư chi bộ hay chính trị viên đơn vị. Và người này
đă cho lệnh DTT viết nhật kư với điều kiện chừa lại 7 trang đầu để
đơn vị kiểm duyệt, và mỗi lần ghi vào nhật kư là đánh dấu một lần
kiểm tra?
Tổng hợp nội dung hai phần 4 và 5.1 người viết có thể tạm đúc kết
câu chuyện dàn dựng như sau: Vào thời kỳ sau 1968 phong trào phản
chiến Mỹ lên cao, các đơn vị Việt Cọng được mật lệnh khuyến khích
viết nhật kư (theo xác nhận của Thượng sĩ Nguyễn Trung Hiếu với báo
Tuổi Trẻ là có 40% lính CS viết Nhật kư), dưới sự giám sát theo dơi
của Đảng. Sự kiện viết nhật kư này có ba tác dụng : 1- Kiểm soát tư
tưởng đảng viên . 2- Nếu đảng viên chết th́ đem nhật kư này về động
viên gia đ́nh . 3- Nếu nhật kư có giá trị tuyên truyền phản chiến
th́ được Mỹ ăn cướp(?)sau khi đă cắt xén hoặc thêm bớt theo nhu cầu
cuộc chiến.
Nhật kư DTT đă từng bị kiểm duyệt và được đánh giá có thể sử dụng
theo tác dụng thứ ba là làm tài liệu tuyên truyền. Do vậy đơn vị
(Đảng) đă đánh cắp nhật kư DTT, gởi thượng cấp phê duyệt, nghiên cứu
hơn một năm sau mới được chấp thuận cho làm tài liệu tuyên truyền.
Sau đó người đạo diễn chính là người thứ hai viết tên địa chỉ nơi
làm việc cha mẹ DTT vào nhật kư trước khi bố trí cho Hiếu nhặt được
cuốn nhật kư này? Trước đó Hiếu đă từng bị lợi dụng Hiếu được rỉ tai
là nhật kư có lửa, rồi Hiếu báo lại cho Fred biết về nhật kư của
DTT, chứ thật sự Hiếu chưa hề đọc trước nhật kư DTT.
Ở đây c̣n có một nghi vấn nữa tại sao lại không ghi địa chỉ cư trú
của gia đ́nh DTT, mà lại ghi rỏ tên cha, mẹ và hai địa chỉ làm việc
của họ? Theo lời khai của gia đ́nh Cha DTT tiểu tư sản lư lịch không
rơ ràng, đến chết chưa được vào đảng dù là chuyên viên giải phẫu
xuất sắc. Mẹ là dược sĩ, đối tượng đảng sau 30 năm mới được kết nạp.
Vào thời điểm DTT vào miền Nam cha mẹ của DTT ở trong diện lư lịch
không rơ ràng, nằm trong thành phần nghi ngờ, (thành phần có vấn
đề). V́ thế sự tiết lộ tên cha mẹ địa chỉ làm việc trong nhật kư đă
được tính toán kỹ như là một cái bẩy chờ bắt cá cả ổ, nếu cha mẹ DTT
có sơ hở ǵ sau khi nhật kư DTT rơi vào tay địch mà thôi.
5.2.- NHẬT KƯ LÀ G̀?:
Với tự điển trên tay bạn đọc có thể t́m thấy câu trả lời dễ dàng,
thế nhưng đối với DTT nhật kư lại mang ư nghĩa khác. Và sau đây có
thể là một trong những câu trả lời đó:
5.2.1.- LÀ NHỮNG CHUYỆN HƯ CẤU
Theo Nguyễn B́nh “Đọc Nhật kư DTT” - Đàn Chim Việt:
Trước hết về cái chết của Khiêm. Trong nhật kư đề ngày 14.8.68 DTT
viết “ Khiêm đă chết rồi! Trong một buổi càn giặc Mỹ đă t́m thấy
công sự của Khiêm. Chúng mở nắp công sự, Khiêm vọt lên dùng quả lựu
đạn duy nhất trong tay quăng vào lũ giặc. Bọn quỷ khát máu sợ hăi
nằm rạp xuống. Khiêm chạy được một đoạn nhưng quả lựu đạn chó chết
đă câm, bọn giặc chồm dậy đuổi theo Khiêm và đến băm nát người
Khiêm. Khiêm chết rồi, đôi mắt đen dịu hiền giờ đây mở trừng căm
giận. Mái tóc đen xanh của Khiêm giờ đây đẫm máu và bụi cát.. Chiếc
áo Ninfan màu xám giờ đây rách nát và loang lổ máu“Đọc đoạn trên
chúng ta có cảm tưởng là DTT đang trốn ở đâu đó, gần nơi Khiêm bị
giết. DTT đă mô tả rất rơ ràng từng chi tiết.
Nhưng đọc tiếp th́ ḿnh mới thấy “nghe tin..” tức là do người khác
kể lại! Vậy ai đă khiếp nhược nằm trốn để chứng kiến cảnh “đồng chí”
của ḿnh bị giết, hay đó là óc tưởng tượng của DTT. V́ chỉ có DTT
th́ mới có thể nh́n và nhận ra chiếc áo “ Ninfan màu xám” đầy ắp kỷ
niệm “Chiếc áo ấy Khiêm đă mặc hôm đầu tiên gặp ḿnh, cũng chiếc áo
ấy Khiêm đă cùng Th. len lỏi trên con đường nhỏ hẹp đầy gai lưỡi
hùm&.. Và cũng chiếc áo ấy một đêm trăng đẹp từ Phổ Khánh trở về.
Gió lạnh từ biển thổi vào làm Kh. Khẽ run.Th. đă đưa chiếc áo của
Quế cho Khiêm mặc, trên nền áo xám giản dị nổi bật màu đỏ đậm đà như
lời nói Khiêm hôm ấy: “ Thùy ơi! Trên đời này trừ ba má, Khiêm không
thương ai hơn Thùy, kể cả người yêu Khiêm”.
Chúng ta phải đợi đến 13 ngày sau (17.9.68) khi “ Nghe chị Cấp kể
lại ngày hy sinh càng thương Khiêm đến đứt ruột”. Điều này chứng tỏ
nhật kư ngày 14.8.68 là không có thật, đó là sản phẩm của óc tưởng
tượng của DTT ( hay của ai đó). Ngoài ra chúng ta hăy nghe chị Cấp
kể tiếp “ Cha Khiêm hai tay bị trói chặt, vai ṛng ṛng máu v́ vết
thương. Khi nh́n thấy xác Khiêm ḍng nước mắt ông tuôn trào, trong
đôi mắt rực lửa căm thù và đau xót ấy người ta đă thấy t́nh thương
vĩ đại của người cha”. Chúng ta thấy ngay cảnh bọn lính Mỹ đă bắt
được cha của Khiêm, và dẫn đến để nh́n xác con !?.
Người kể lại cảnh này phải là một cán binh CS, bị bắt cùng với cha
của Khiêm, nên mới có thể nh́n rơ “ đôi mắt rực lửa căm thù”. Như
vậy người đó được thả ra lúc nào để kể lại cho chị Cấp nghe?
Câu chuyện thứ 2:
19-02-69 (Tr.126)
:... Một buổi sáng trên đường hành quân cũng rừng cây cao im lặng
cũng ánh nắng hồng chói chan trên đỉnh núi... một buổi sáng dưới
đồng bằng nắng xuyên qua rặng tre len lỏi chiếu lên chiếc bàn sau
khung cửa...
DTT đă đi hành quân diệt Mỹ với tâm hồn của nhà văn? Đọc đoạn sau là
lời tự thú của DTT
27-7-69 (Tr.173)
Đêm nay một đêm đầu tiên ḿnh phải sống bơ vơ không có ai đảm bảo
cho ḿnh ngoài những người dân đối với ḿnh chỉ có một t́nh thương
b́nh thường gần 3 năm nay đi đâu ḿnh cũng vô tư mặc dù giữa t́nh
h́nh rất căng thẳng ḿnh vẫn yên tâm v́ đă có người bảo vệ ḿnh chu
đáo, dựa vào họ ḿnh không phải lo lắng ǵ cả. Đêm nay chỉ một ḿnh
lần đầu tiên kể từ ngày bước chân vào Nam ḿnh phải suy nghĩ, địch
càn xuống ḿnh sẽ chạy đi đâu, nếu chúng tập kích vào đêm nay th́
phải xử trí thế nào? Cần liên hệ với ai để có công sự ở.
DTT đă tự tố cáo vẫn c̣n vô tư trước t́nh h́nh căng thẳng th́ làm
sao có thể xảy ra cảnh DTT đi hành quân ở đoạn trên. Như vậy chuyện
đi hành quân ở trên là chuyện hư cấu để viết văn chơi mà thôi chứ
không có thật.
5.2.2.- LÀ LỜI NÓI DỐI HOANG TƯỞNG:
26.07.69 (Tr.172)
Đoàn du kích đi cơng đàn về qua Khe Sanh bị phục kích tại núi cửa,
mấy thằng Mỹ đi phục mà nằm ngủ như chết, mấy đồng chí của ḿnh đi
sát đến nơi mới nhận ra những thằng Mỹ nằm ngổn ngang trên những
tảng đá. V́ vội vàng, một đồng chí lọt chân rơi xuống vực sâu may mà
vướng một mỏm đá nên mắc lại, bọn Mỹ liệng ḿn ra nhưng không gây
thiệt hại ǵ.
Cả toán lính Mỹ phục kích mà lại nằm ngủ ngổn ngang trên những tảng
đá? Tại sao đoàn du kích (đông người?) không giết lính Mỹ lúc ngủ để
lấy vũ khí lập thành tích cá nhân cơ hội ngàn năm một thủa, mà để Mỹ
liệng ḿn chạy trối chết như vậy? Một đồng chí rơi xuống vực thẳm
kẹt vào mỏm đá bị ḿn không chết? mà c̣n leo lên được thoát khỏi sự
phục kích của Mỹ? Phải chăng cả bọn Mỹ c̣n nhắm mắt ngũ sau khi
liệng ḿn?
5.2.3.- LÀ NƠI BÁO CÁO THÀNH TÍCH TUYÊN TRUYỀN
19.9.68 (Tr.83)
Em Hằng, 14 tuổi trong 6 tháng đần năm giết được 6 tên Mỹ, đánh lật
được hai xe bằng vũ khí tự tạo, lấy được bảy súng giặc trong có hai
cối cá nhân và các loại khác. Em Phổ Châu lấy năm súng có hai cối cá
nhân, một đài RC. Các em đă anh hùng từ trong trứng nước. Đáng tự
hào thay dân tộc của ta!
30.08.1969 (Tr.186)
Trong một tuần chiến đấu liên tục ta diệt 14 tăng, 1 HU1A, 15 xe nhà
binh, diệt 150 tên Mỹ, một du kích hy sinh, 2 đồng chí bị thương.
Chỉ có lính Mỹ chết, c̣n lính VNCH không chết trong các cuộc hành
quân hỗn hợp(?).
5.2.4.- LÀ SỔ TAY LÀM VIỆC HỘI HỌP HẰNG NGÀY:
29.11.68 (Tr.100)
Chỉnh huấn Đảng:
Ưu:
•Tập thể kiên định, không sợ ác liệt, không ngại hy sinh hoàn thành
nhiệm vụ
•Ư thức tổ chức cao
•Ḥa nhă được quần chúng yêu mến
•Lo lắng cảm thông với thương binh tốt
•Công tác huấn luyện tốt
Khuyết:
•Lănh đạo không quán xuyến hết
•C̣n thiếu linh hoạt trong công tác có lúc chưa tranh thủ hết sự
lănh đạo tập thể
•Tác phong c̣n tiểu tư sản
•Công tác bảo mật pḥng gian c̣n yếu
•Kiểm tra đôn đốc thực hiện c̣n yếu.
16.03.69 (Tr.134)
Chỉnh huấn Đảng, học tập 3 xây, 3 chống. Ư kiến đóng góp của chi bộ
Ưu:
•Lănh đạo có nhiều tiến bộ, quán triệt nhiệm vụ, quán xuyến các mặt
công việc.
•Làm trọn nhiệm vụ nặng nề trên giao phó
•Lập trường tư tưởng kiên định, ư thức tổ chức cao
•Kế hoạch sát sao, có kiểm tra đôn đốc
Khuyết:
•C̣n có lúc có nơi chưa sâu sát công việc
•Chưa tận dụng hết khả năng nghiên cứu rút kinh nghiệm kịp thời
trong công tác điều trị
•Chăm lo cải thiện đời sống cho cán bộ c̣n yếu
5.2.5.- LÀ NƠI THỀ TRẢ THÙ DIỆT MỸ MÀ DTT KHÔNG CẦN ĐI HÀNH QUÂN.
10-01-69 (Tr.117)
:... Biết nói thế nào đây... một ngày c̣n bóng giặc Mỹ, một ngày c̣n
đau thương tang tóc. Ôi! Mối thù này bao giờ mới trả hết đây.
28-4-69 (Tr.148)
Không có con đường nào khác hơn là phải đánh cho không c̣n một tên
đế quốc Mỹ nào trên đất nước chúng ta lúc đó mới có thể có hạnh phúc
05-11-69 (Bản in cắt bỏ)
[BG: Ôi! Giặc Mỹ chồng bao tội ác của bay đă chất đầy như núi. C̣n
sống ngày nào tao thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để trả được
mối thù vạn kiếp đó.]
05-05-70 (Bản in cắt sửa đổi)
[BG: Cuộc chiến tranh lan rộng trên dải đất Đông Dương, thằng chó
đểu Nickson đă liều lĩnh điên cuồng mở rộng thêm cuộc chiến, chúng
ta sẽ phải đương đầu với một khó khăn ghê gớm hơn nữa đấy. Nhưng tao
thề cùng những đồng chí của tao rồi, dù có chết cũng quyết định đánh
cho đến cùng để đánh giập đầu con rắn độc hiếu chiến.
Ôi! Căm thù đến bầm gan tím ruột, tại sao cũng là con người mà lại
có những con người độc ác tàn tệ muốn lấy máu đồng loại để làm nước
tưới cho gốc cây vàng của nó, như vậy, bao nhiêu cũng không đủ túi
tham, bao nhiêu cũng không thỏa măn cái cuồng vọng của bọn quỷ khát
máu.]
Đối với lời thề rất sắt máu nhưng không trực tiếp cầm súng giết
địch.
5.2.6.- LÀ NƠI CÓ THỂ LÀM TRÁI LỆNH ĐẢNG.
Hồ Chí Minh đă ra lệnh chiến đấu “Đánh cho Mỹ cút đánh cho Ngụy
nhào” thế mà DTT chỉ có đánh Mỹ qua nội dung 5.2.5 chứ không căm thù
đánh Ngụy. Trong báo cáo thành tích cũng không có xác ngụy. Như vậy
DTT đă không chấp hành nghiêm túc lệnh Đảng. DTT ngang nhiên không
chấp hành đúng mệnh lệnh của Đảng mà vẫn được tuyên dương điển h́nh
toàn tỉnh.
5.2.7.- LÀ NƠI CA TỤNG LƯ TƯỞNG CS VÀ XHCN TỐT ĐẸP. Để cho ai đọc?
08-10-68 (Tr.86)
:... Người Cọng Sản rất yêu cuộc sống nhưng khi cần có thể nhẹ nhàng
mà chết được.
01-9-68 (Tr.78)
Biết sống sao đây, tốt hơn hết là Thùy hăy ngẩng cao đầu mà sống,
sống với t́nh cảm trong trẻo, với lư tưởng cao đẹp của ḿnh: “Hăy
giữ vững t́nh cảm của người Cộng Sản, tinh thần sáng suốt như pha
lê, cứng rắn như kim cương và chói lọi muôn ngh́n hào quang của ḷng
tin tưởng...”
24-07-69 (Tr.172)
Sang ơi, ra miền Bắc có nói cho những người đang sống trên mảnh đất
XHCN rằng miền Nam c̣n đau khổ, chỉ khi nào hết giặc Mỹ lúc đó mới
thực sự có cuộc sống mà thôi!
5.2.8.- LÀ NƠI CHÔN GIẤU ƯU TƯ THẦM KÍN, KHÔNG VIẾT ĐƯỢC TRÊN GIẤY
25.05.68 (Tr.49)
Những ngày u uất của tâm hồn. Cái ǵ đè nặng trên trái tim ta? Đâu
phải chỉ có một nỗi buồn của vết thương rỉ máu của con tim do đâu?
Mà c̣n những ǵ nữa kia? Những sự thiếu công bằng vẫn c̣n trong xă
hội vẫn diễn ra hằng ngày, vẫn có những con sâu, con mọt đang gặm
dần danh dự Đảng, những con sâu mọt ấy nếu không bị diệt đi nó sẽ
đục khoét dần ḷng tin yêu của Đảng. Rất buồn rằng ḿnh chưa được
đứng trong hàng ngũ Đảng để đấu tranh cho đến cùng có lẽ v́ thế mà
những người đó cứ chần chừ không dám kết nạp ḿnh mặc dù tất cả Đảng
viên trong chi bộ, và rất nhiều người có trách nhiệm trong huyện,
trong tỉnh này đều đôn đốc thúc giục việc giải quyết quyền lợi chính
trị cho ḿnh. Càng nghĩ càng buồn, muốn tâm sự với những người thân
về những bực tức ấy nhưng với ḿnh lại lặng thinh. nói ra liệu có ai
hiểu hết cho ḿnh hay không? Có ai phải sống những ngày nặng nề u
uất như ḿnh hay không? Sống giữa yêu thương mà không hề cảm thấy
hạnh phúc bởi v́ luôn có người ghen ghét trước ḷng yêu thương mà
nhiều người đă dành cho ḿnh. Đă đành rằng đời bao giờ cũng có hai
mặt tốt và xấu, không bao giờ có toàn mặt tốt, vậy mà sao Thùy cứ
xót xa cay đắng măi hở Thùy?
23-12-68 (Tr.107)
Chiều nay, Th. đă biết dẹp mọi nỗi bực dọc lại, tươi cười cầm quyển
vở đứng lên giảng bài, tối nay Th. đă biết mỉm cười b́nh tĩnh trước
những phản ứng của một kẻ bị đụng chạm đến quyền lợi cá nhân vậy th́
cớ sao bây giờ bên ngọn đèn khuya với trang sổ nhỏ Th. lại rưng rưng
nước mắt? Đừng khóc Thùy ơi! Hăy b́nh tĩnh vững vàng khi biết ḿnh
là kẽ đúng đắn. Có khóc th́ hăy đợi khi cầm bàn tay của một người
thân yêu nào đó mà kể mọi nỗi niềm. C̣n trước mọi chông gai cay đắng
của cuộc đời, trước mọi gian nguy thử thách mong Thùy hăy giữ vững
nụ cười như bấy lâu nay Thùy vẫn giữ được. Dù đă che dấu đằng sau nó
biết bao nhiêu nước mắt. Nước mắt hăy để dành riêng cho những người
thân yêu thôi, nghe không hở Thùy?
Với trang giấy riêng tư mà cũng không dám kể hết uất ức của ḿnh cho
nhẹ ḷng mà phải chôn chặt trong ḷng chờ bộc lộ với người thân yêu
thôi(?)
5.2.9 LÀ NƠI KHÔNG PHẢI VIẾT CHO RIÊNG M̀NH:
Đây chính là câu trả lời chính thức của Đặng Thùy Trâm
20-10-69 (Tr.191)
Rất lâu rồi không ghi nhật kư, cuộc sống lẽ nào lại để mất dần những
suy tư của một con người biết suy nghĩ hay sao? Không ḿnh không
muốn như vậy nhưng công việc đè nặng bên ḿnh và hàng ngày trong cái
chết đau xót của anh em đồng chí làm minh quên đi những cái thuộc về
bản thân ḿnh nhưng quyển nhật kư này đâu phải chỉ là cuộc sống của
riêng ḿnh mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa
chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép
trên mảnh đất miền Nam này.
Đây là h́nh thức chối bỏ minh thị thân phận DTT trong nhật kư. DTT
đă khéo léo giấu giếm nỗi niềm thật sự của ḿnh khi viết nhật kư?
DTT đă biết nhật kư của ḿnh thường bị kiểm duyệt nếu nói những suy
nghĩ của ḿnh chắc chắn cũng sẽ nhận lấy hậu quả như tác giả Trần
Vàng Sao người cùng thời, “Hồi ức của một người tù không bị giam vào
ngục” (Talawas)
Và nhật kư chỉ là bản tường tŕnh công khai những câu chuyện chiến
đấu chung chung chứ không phải riêng cá nhân Đặng Thùy Trâm. Với tầm
giới hạn của nhật kư như vậy có đáng để Vương Trí Nhàn so sánh với
nhật kư của Anne Frank hay không? Tr. 13 Anne Frank thú nhận: “Điều
tuyệt diệu nhất là tôi có thể viết ra tất cả những cảm nghĩ bằng
không sẽ chết ngạt mất”. “Những người nào không viết, không biết
được những kỳ ảo của nó. Ngày xưa tôi luôn luôn đau đớn v́ không
biết vẽ, nhưng bậy giờ ḷng tôi phơi phới v́ ít ra tôi đă có thể
viết.”
6.- KỶ LỤC CỦA NHẬT KƯ BẢN IN:
Hội Nhà Văn Việt Nam nên chuẩn bị báo công với Đảng và Nhà nước nhân
kỳ Đại hội Đảng X sắp đến, về kỷ lục của nkdtt đạt được như sau
6.1.- TỐC ĐỘ XUẤT BẢN
Kỷ lục đầu tiên đáng ghi nhận đối với sách truyện Việt Nam đó là
thời gian chưa đầy một tháng mà hội nhà văn, nhà Xuất bản đă chỉnh
lư, ra mắt dộc giả tác phẩm nhật kư DTT. Hiên ngang đi bằng cửa
chính, không bị kiểm duyệt, không lót tay hay làm thủ tục “Đầu
tiên”.
Trong khi một bản thảo b́nh thường muốn được ra mắt độc giả phải đi
qua cửa ải “Đầu tiên” phải mất hết từ sáu tháng đến một năm hay lâu
hơn nữa là măi măi đợi chờ.
6.2.- SỐ LƯỢNG ẤN BẢN:
Theo lời ông Vũ Hoàng Giang, Phó giám đốc Cty Nhă Nam đợt in đầu
tiên là 1.500 cho một tác phẩm thuộc loại truyền thống được bán hết
trong một thị trường có 2 triệu đảng viên CS và trên 83 triệu dân.
Chưa kể Việt kiều Hải ngoại là một con số đáng tự hào(?).Nếu so sánh
cảnh người xếp hàng rất lâu mới được mua sách “Khi Đồng Minh tháo
chạy” của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, với 300 cuốn sách không đủ cung
ứng trong buổi ra mắt sách đầu tiên ở thành phố Westminster, chỉ có
300.000 Việt Kiều th́ số lượng bản in đầu tiên nhật kư DTT không
đáng kể ǵ.
Điều kỷ lục nói ở đây là theo báo Tuổi trẻ 7-10-2005 trong bài “Âm
hưởng từ chuyến đi đánh động lương tri” cho biết tác phẩm này đă bán
hơn hai trăm ngàn cuốn chỉ hơn trong vài tháng là một điều đáng
mừng. V́ con số này đúng sự thật th́ nó đă vượt qua mặt các tác phẩm
truyền thống khác kể cả tác phẩm nói về Hồ Chí Minh xuất bản kiểu
“T́nh cho không biếu không” mà cũng không đạt được số lượng trong
cùng thời gian đó.
Đối chiếu thực tế cuốn sách người viết mua được vào thời điểm
15-11-2005 là bản in trong số 20.000 cuốn của lần xuất bản đầu tiên.
Vậy đâu là sự thật? Có hai cách trả lời
•Báo Tuổi Trẻ đă dối trá thổi phồng số lượng bản in ḥng quảng cáo
lường gạt độc giả?
•Nếu báo Tuổi trẻ nói sự thật, th́ nhà xuất bản đă làm ăn gian dối
không nói rơ số lượng bản in cũng như lần tái bản?. Ta thử làm bàn
tính với một lần in 20.000 cuốn. nếu bán đúng theo số lượng của báo
Tuổi Trẻ th́ nhà xuất bản đă tái bản hơn 10 lần trong ṿng 4 tháng
Tại sao một bản in đă tái bản nhiều lần, lại không hiếu đính, vẫn vi
phạm những lỗi sơ suất kỹ thuật cơ bản như đă tŕnh bày ở phần đầu.
Phải chăng NXB đă làm ăn cẩu thả, xem thường độc giả.
6.3.- CHI PHÍ QUẢNG CÁO:
Cũng là một kỷ lục lớn lao cho một cuốn sách tư nhân (nhà xuất bản
Nhă Nam) lại được sự quảng cáo chùa của 600 tờ báo trong nước, tất
cả đài truyền h́nh, phát thanh ( nếu tính mỗi tỉnh một đài, mỗi
huyện một đài th́ cả cũng lên đến vài trăm đài, cũng may hiện nay
không c̣n đài phát thanh xă, phường. Nếu c̣n, th́ có lẽ DTT sống lại
sẽ giàu to nhờ chuyển nghề bác sĩ mắt thành bác sĩ tai chữa điếc cho
nhân dân). Lại được chính quyền ngầm hổ trợ bằng cách chỉ thị cơ
quan đoàn thể mua để học tập nhân điển h́nh anh hùng Đặng Thùy Trâm.
Như vậy theo kinh tế thị trường mà nói chi phí quảng cáo số không,
sách in ra bán hết nhà xuất bản được lợi nhuận tối đa, một cách làm
ăn mới trên bước đường hội nhập WTO. Vái trời đừng có kẽ thối mồm
nào vác chiếu ra ṭa thưa về tội cạnh tranh không công bằng như vụ
kiện cá ba sa th́ thật là cảnh “ biết rồi! khổ lắm nói măi!”.
6.4.- LẬP THÀNH TÍCH DÂNG ĐẢNG SỚM NHẤT:
Thật vậy đại hội Đảng X sắp tới c̣n vấn vương nhiều vấn đề nhân sự
nóng bỏng, thế mà hội Nhà Văn đă nỗ lực lập thành tích sớm nhất hoàn
thành vượt bực chỉ tiêu xuất bản ngoài dự kiến khi gấp rút cho xuất
bản nhật kư DTT tạo chiến dịch rầm rộ nhằm ru ngủ tầng lớp thanh
niên trong hào quang anh hùng mới, nhằm quên đi vấn đề thời sự hiện
tại. Để cho Đảng CS và nhà nước rảnh tay đối phó với những tiếng nói
dân chủ, nhân quyền. Thật là một công hai ba cái lợi, chẳng đáng ghi
kỷ lục cho hội nhà văn hay sao?
6.5.- TẬP SÁCH SỚM ĐI VÀO HIỆN THỰC NHẤT:
Nhật kư xuất bản chưa đầy hai tháng, mà những kẽ bảo hoàng hơn vua
đă tâng bốc, nâng bi đă đề nghị gây quỹ lập bệnh viện DTT, đề nghị
lập tên đường DTT giữa ḷng Hà Nội. Lại c̣n có hăng phim dự định xây
dựng thành phim bộ nhiều tập.( Báo Tuổi trẻ 12-8-2005 bài đưa nkdtt
lên màn ảnh). Một tác phẩm văn học đi vào hiện thực c̣n nhanh hơn
những tác phẩm đoạt giải Nobel thế giới... Và đây cũng là lần đầu
tiên một cuốn sách Việt Nam được đánh gia sớm nhất, ngang tầm cỡ
sách văn học quốc tế: Nhật kư Anne Frank(?)
6.6.- SÁCH TRUNG THỰC NHẤT SO VỚI BẢN GỐC(?)
Đây là cuốn sách được đảm bảo công khai bởi người biên tập và chỉnh
lư đúng theo bản gốc. Chỉ cần đọc lại phần đầu bạn đọc có thể tự
đánh giá kỷ lục này.
6.7.- KỶ LỤC CUỐI CÙNG LÀ CUỐN SÁCH DỐI TRÁ VÀ PHẢN BỘI NHẤT:
Phần dối trá đă tŕnh bày ở trên từ nội dung nhật kư đến câu chuyện
hư cấu đưa nhật kư từ tay DTT đến chiến trường, lưu giữ và xuất hiện
vào thời điểm nóng bỏng hiện nay. Phần phản bội xem tiếp phần sau.
7.- TIỂU SỬ ĐẶNG THÙY TRÂM:
Nhằm mục đích giúp cho thế hệ trẻ Việt Nam dễ đọc thuộc ḷng, dễ
nhớ, học tập phấn đấu theo gương anh hùng Đặng Thùy Trâm.
Nhằm tiếp tay với Đảng CS và Nhà Nước quảng bá sâu rộng cho toàn thế
giới biết mẫu “Anh hùng XHCN Việt Nam“
Dựa vào nhật kư, lời xác nhận của gia đ́nh, nhân chứng liên quan,
báo chí của Đảng, Nhà nước. Cuộc đời hoạt động của Đặng Thùy Trâm có
thể tạm đúc kết rơ ràng như sau:
Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26-11-1942 trong một gia đ́nh trí thức tiểu
tư sản. Cha, Đặng Ngọc Khuê, là một chuyên gia giải phẫu có tiếng
theo kháng chiến cho đến khi về hưu vẫn không được vào Đảng v́ lư
lịch không rơ ràng. Mẹ, Dược sĩ Doăn Ngọc Trâm, sau 30 năm cảm t́nh
đảng mới được kết nạp, năm nay 81 tuổi, có một em trai Đặng Hồng
Quang em trai út (đă chết ở Nga) và ba chị em gái là Đặng Kim Trâm
em gái út, Đặng Hiền Trâm, và Đặng Phương Châm.
Từ nhỏ đă là cháu ngoan bác Hồ. Ngày 01.04.1960 kết nạp Đoàn. Năm
1960-1961 học sinh lớp 10C trường Chu Văn An Hà Nội. Sau đó học đại
học y khoa chuyên về mắt. Trong 5 năm đại học, hằng ngày DTT học
chính trị, học chuyên môn, hoạt động đoàn viên c̣n theo cha vào
pḥng mổ học lóm mổ xẻ, theo mẹ và chị em ra vườn đố vui học cây lá
thuốc Nam, tối về theo cha học vẽ “anatomice”.
Năm 1966 DTT ra trường sớm một năm, loại ưu(?).Nhà trường không có
hồ sơ lưu trữ, không có tên trong danh sách đă tốt nghiệp. Gia đ́nh
không lưu giữ văn bằng tốt nghiệp, hay h́nh ảnh kỷ niệm ngày ra
trường. Năm 1967 đă khai man lư lịch là bác sĩ mắt để được làm công
tác chuyên môn ở một bệnh xá nhỏ tại Đức Phổ Quăng Ngải. Ngày
17-9-1969 kết nạp Đảng.
Đă lập thành tích xuất sắc:
VỀ CHUYÊN MÔN: là bác sĩ mắt nhưng làm công việc của chuyên gia giải
phẫu đủ các bệnh ruột thừa, ung thư dạ dày, cắt cụt chân tay, vá
thận, chửa bệnh bằng thuốc Nam cây nhà lá vườn. Tổng kết hoạt động
trong một năm chết 5 người. Được tuyên dương diễn h́nh toàn tỉnh
ngày 1.11.1968. Hănh diện với hai chữ “Bác Sỹ”. Người trí thức toàn
diện XHCN.
VỀ CHIẾN ĐẤU: Chưa một ngày cầm súng trực tiếp chiến đấu, đi đâu đều
có người bảo vệ như là vốn quư của Đảng. Từng bị bỏ rơi một ḿnh khi
lính Mỹ càn quét, và không biết xử trí ra sao. Hăng say thề trả thù
rất sắt máu, chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ trên giấy. Đă từng bị đế
quốc Mỹ đánh cướp hai quyển nhật kư. Những ngày cuối cùng DTT bị đơn
vị bỏ lại một ḿnh với năm thương binh giống như một vỏ chanh đă vắt
hết nước. DTT một ḿnh chống lại 120 lính Mỹ như là một chuyện cổ
tích vậy.
Lúc 17g20 ngày 22-6-1970 bị một viên đạn duy nhất bắn vào trán chết.
Đặc biệt trước khi chết c̣n hô to khẩu hiệu “Hồ Chí Minh Muôn năm,
đă đảo đế quốc Mỹ”. Khi chết để lại một cây súng SKS và một túi vải
trong đó có sổ tay. Đó là nhật kư không phải là chuyện riêng của
DTT.
Cuốn nhật kư được thông dịch viên Nguyễn Trung Hiếu cho là nhật kư
có lửa, và được luật sư tiến sĩ FRED WHIDERICST lưu giữ 35 năm.
•Nay trước t́nh h́nh chính trị phức tạp sau chuyến đi Mỹ, Canada và
Nhật Bản của Thủ tướng Phan Văn Khải.
•Nay trước t́nh h́nh Việt Nam vuốt ve Mỹ để được dễ dàng gia nhập
WTO.
•Nay thực hiện lời kêu gọi của Thủ Tướng sau 30 chiến tranh “Xếp lại
quá khứ hướng về tương lai”. Kêu gọi Việt kiều hải ngoại trở về xây
dựng đất nước.
•Nay trước t́nh h́nh nóng bỏng về nhân sự tiền Đại Hội Đảng X
•Nay định hướng mới về lư tưởng tương lai cho thế hệ trẻ Việt Nam.
Nhật Kư Đặng Thùy Trâm được cấp tốc chỉnh lư, xuất bản nhằm phục vụ
các nhu cầu chính trị nói trên. Câu chuyện này được Thủ tướng đích
thân viết thơ khen tặng, cựu bí thư Đảng Lê Khả Phiêu, Đại tướng Chu
Huy Mân, Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ đến gia đ́nh thăm hỏi, chúc
tụng, nhiều nhân vật khác nữa. Sáu trăm tờ báo Đảng, toàn bộ hệ
thống truyền thanh truyền h́nh quảng cáo xây dựng chiến dịch tôn
vinh DTT thành mẫu anh hùng thời đại đối với thế hệ trẻ Việt Nam,
ngang hàng với Paven trong “Thép đă tôi thế đấy!”. Qua các hoạt động
họp báo quốc tế, đồng hành thắp sáng, triển lăm bán tranh, hội thảo,
hội thoại. Lập nhiều kỷ lục sáng chói cho nền văn học Việt Nam.
Để đền ơn đáp nghĩa, Đảng và nhà nước hô hào toàn dân lập quỹ xây
dựng bệnh viện DTT, lập con đường DTT giữa ḷng thủ đô Hà Nội. Trong
chiều hướng phát triển tương lai đưa nhật kư vào phim bộ nhiều tập
để chiếu khắp thế giới.
Và c̣n ǵ nữa, phần sau để dành cho Đảng và Nhà nước viết tiếp.
Ôi! Nhục nhă thay! Ê chề thay! Một thần tượng của tuổi trẻ thanh
niên XHCN Việt Nam!
Một cú lừa vĩ đại vô tiền khoáng hậu của một nữ du kích tiểu tư sản,
đă chết mà vẫn c̣n lừa được Đảng, Nhà Nước và báo chí truyền thanh
truyền h́nh Việt Nam. Khâm phục! khâm phục!
Người lính già này xin ngả nón chào. Nếu có ǵ c̣n thiếu sót xin
linh hồn Đặng Thùy Trâm linh thiêng báo mộng để điền khuyết nhất là
những điều ấm ức chưa nói rơ trong nhật kư, cũng như tên tuổi người
dàn dựng chưa xuất hiện trong câu chuyện anh hùng vĩ đại này.
8.- LỜI KẾT: SỰ PHẢN BỘI.
Thưa luật sư tiến sĩ Frederic Whitehurst,
Người đă lưu giữ và đọc đi đọc lại nhật kư DTT rất nhiều lần suốt 35
năm nay. Người viết xin nghiêng ḿnh ngưỡng mộ ḷng kiên nhẫn của
ông. Ông cũng là người biết rơ và tôn trọng ư nguyện sau cùng của
người viết nhật kư là gởi về cho gia đ́nh.
05-06-69.:... Đêm rất khuya rồi, không ai chợp mắt. Th. ngồi lặng
thinh bên ḿnh, em không nói một lời nào măi đèn lúc chia tay em mới
nói một câu ngắn: “Chị làm sao chứ em lo quá đi...” và ḿnh th́
không nói hết một câu: “Chị gửi ba lô cho em trong đó có quyển
sổ...” muốn nói tiếp rằng: “nếu chị không về nữa th́ em giữ quyển sổ
đó và sau này gửi về cho gia đ́nh” (Tr.157)
Thế mà ông lại có ư định phổ biến công khai nhật kư DTT cho toàn thế
giới biết trước khi trao lại cho gia đ́nh. Phải chăng dự kiến hành
động này là một sự phản bội lại ư nguyện của người đă chết?. Cũng
giống như Đảng Cộng Sản Việt Nam đă phản bội lại di chúc Hồ Chí
Minh, ướp xác, chôn nổi giữa Ba Đ́nh Hà Nội. Hành động của Đảng CS
là một sự phản bội lănh tụ, lịch sử sẽ phê phán. Riêng ư định của
ông có thể châm chước, khoan dung khi mà ông đă thành tâm viết thư
cho gia đ́nh:
Thứ Sáu, 6.5.2005
Em gái Kim,
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là một anh hùng đối với toàn thế giới. Đó
không phải một lời khoa trương mà hoàn toàn là sự thật. Anh Robert
và tôi đă nghĩ rằng nếu không t́m được gia đ́nh chị th́ chúng tôi sẽ
xuất bản một cuốn sách về chị Thùy, qua đó, nếu c̣n sống th́ gia
đ́nh em sẽ biết về chị. Ư tưởng của em về một cuốn sách cũng trùng
với ư tưởng của chúng tôi. Chúng tôi nghĩ phần đầu của cuốn sách sẽ
viết về Thùy bằng tiếng Việt và sẽ bao gồm cả những trang nhật kư.
Phần giữa cuốn sách sẽ là những bức ảnh gia đ́nh và các chiến sĩ
giải phóng ở Đức Phổ, những người đă được Thùy che chở chăm sóc, rồi
những bức ảnh do người phóng viên người Hà Nội đă hy sinh mà tôi đă
kể cho em nghe. Phần cuối cuốn sách sẽ là bản tiếng Anh dịch phần
thứ nhất sang. Cuốn sách sẽ được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế
giới trong một thời gian ngắn. Thùy đă cho chúng ta mọi hy vọng về
tương lai. Chị nhận thấy cái đẹp ngay giữa cuộc chiến tranh, điều đó
quá đặc biệt, mọi người phải cùng biết tới. Đó là ư tưởng của chúng
tôi. Đó là ư tưởng của chúng tôi. Fred (Di sản DTT - Talawas)
Giờ này ông đă cầm trên tay bản in của NXB Hội Nhà Văn, do gia đ́nh
DTT đích thân kư tặng. V́ thế tôi rất vững tin rằng: Hơn ai hết ông
đă đọc kỹ và biết rơ ràng bản in nhật kư đă cắt xén và chỉnh lư, sửa
đổi và bóp méo nội dung. Trong đó có cả những bức thư của ông cũng
bị sửa đổi. Thế mà cho đến nay ông vẫn im lặng! Và sẽ măi măi im
lặng(?).Sự im lặng khó hiểu này có thể giải tŕnh theo hai trạng
thái đối nghịch như sau:
8.1.- IM LẶNG LÀ MỘT H̀NH THỨC ĐỐI KHÁNG KHÔNG THÀNH LỜI:
tŕnh hoạt động của ông theo thư ông tự giới thiệu. Lại đi chọn một
giải pháp thuận theo thời thế của một người hèn nhát trước bất công,
áp lực, dối trá và phản bội. Đây là một việc rất khó xảy ra đối với
ông(?)
8.2.- IM LẶNG LÀ BẰNG L̉NG :
Nếu ông chấp nhận sự im lặng theo ư nghĩa này, cũng là có nghĩa ông
đă phản bội ư nguyện tác giả nhật kư chỉ viết cho gia đ́nh đọc chứ
không phải cho thế giới đọc (Như đă tŕnh bày trên). Ngoài ra ông đă
phản bội lại ước mong của ông, cuốn nhật kư được xuất bản phải in
toàn bộ các trang nhật kư bản gốc, thế mà giờ đây bản in trên tay
ông chỉ là sản phẩm què quặt, méo mó so với bản gốc. Và ông cũng
phản bội lại chính ông khi mà thư của ông bị chỉnh lư sửa đổi mà ông
vẫn không có lời than phiền hay đính chính.
Theo luật học, sự im lặng trong trường hợp này phải chăng là một
bằng chứng của sự đồng lơa? Là bằng chứng của đồng bọn? Thưa ông
Frederic Whitehurst có phải thế không nhỉ?
Riêng bà Đặng Kim Trâm người đại diện cho gia đ́nh đă đọc nhật kư
DTT không những bằng lư trí của người biên tập mà c̣n bằng con tim
của người em út đối với người chị đă tức tưởi nằm xuống. Hơn ai hết
bà phải hiểu cuốn nhật kư đó không phản ảnh trung thực con người của
Đặng Thùy Trâm. Thế mà bà vẫn làm công việc đóng góp phần ca tụng
giả dối con người DTT theo nhật kư đă viết.
Chắc bà cũng đă hiểu rơ bề sâu của những trang nhật kư cuối cùng DTT
nằm xuống trong hoàn cảnh bỏ rơi không lối thoát. Lời DTT ngày
20-6-70 ... Những câu hỏi cứ cứ xoáy trong đầu óc ḿnh và những
người ở lại. V́ sao? Lư do v́ sao mà không trở lại. Có khó khăn ǵ?
Không lẽ nào mọi người lại đành đoạn bỏ bọn ḿnh trong cách này
sao?”. (Tr.255)
Đây là lời trăng trối của DTT. Là lời trăng trối chưa bao giờ nói
hết. Với con tim chảy cùng ḍng máu của bà, người viết tin rằng bà
đă hiểu. Cuốn nhật kư không phản ảnh đúng cuộc đời thật của Đặng
Thùy Trâm. Thế nhưng bà vẫn biên tập, đành đoạn cắt xén chỉnh lư nội
dung bản gốc, sai lạc hết ư nghĩa đích thật nhật kư mà DTT đă viết.
Như vậy bà đă lợi dụng nhật kư của chị bà như là một cái phao nổi
trong xă hội. Hành động này chính là một tội lỗi khó tha thứ được
đối với người đă chết. Nói một cách nào đó cũng là sự phản bội. Phản
bội chính người chị ruột của bà.
Và bà vẫn xác định trên đài BBC bà đă biên tập lại hoàn toàn không
bỏ sót câu nào(?)Trong khi bản in và bản gốc đă nằm trong tay bạn
đọc như là một bằng chứng dối gạt của bà. Bà đă phản bội ḷng tin
yêu của độc giả đến với DTT như là một biểu tượng thời đại theo cách
nói của Đảng và nhà Nước. Lời của bà “dám chịu trách nhiệm và không
sợ thách thức của dư luận” có c̣n ư nghĩa nào không thưa bà Đặng Kim
Trâm?
Bài viết trên đă dài, thế nhưng vẫn chưa nói hết những điều c̣n thắc
mắc trong ḷng người viết như là động cơ trong sáng nào đưa nhật kư
DTT đến với độc giả? Đàng sau sự dàn dựng câu chuyên anh hùng là cái
ǵ? Đảng và Nhà Nước CS đề cao Nhật kư DTT trong t́nh h́nh xếp lại
quá khứ hương về tương lai là nhằm vào mục đích ǵ? c̣n nhiều nữa...
người viết không nhớ hết xin dành cho độc giả viết tiếp vậy.
THIÊN ĐỨC
Tản mạn cuối năm
H́nh ảnh
đáng ghi nhớ trong năm
Miệng kẻ sang
có gang có thép
Hiến dâng máu !
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông
Hành
Thất bại hay
thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ
Phu
Trái khoáy cuộc đời
Một chế độ hèn hạ
Chữ với nghĩa
Cơm với cá…
Tuyên bố đầy
tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người
không?
Cả tin hay nghi ngờ
Ca sĩ hải
ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ
trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một
chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống
Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người
Trách niệm về đâu
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?
Gần 2
triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?
Văn hóa "Giả Vờ"
Tổng Thống Donald
J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân
chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn
Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng
chấm hết !
Dốt như
chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ
được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói
dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán
chó
Hai cái băy
nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30
Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn
nữa?
V́ sao
Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn
Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự
thật cần phải biết về VNCH
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong!
Thăm dân cho
biết sự t́nh
Cái giá của Tự Do
Con chuột và cái b́nh
Đàn ḅ vào thành phố
Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không
Thôi
rồi...
Chuyện biển đông
Quả đại pháo cuối
cùng
Biển Đông dậy sống
Vụ HD 981: Việt Nam
xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời
một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân
Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc
muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt
cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng
Một âm mưu thâm độc của Việt
Cộng
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?
Việt cộng hóa
Kinh nghiệm
tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật
cần phải biết
Giọt nước
mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn
Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp
đổ
Tổ Quốc Việt Nam
- C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt
chính tả
Đứng chàng hảng
Thời sinh viên ở Sài G̣n
Hăy nói trước ngày
chết
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của
tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS -
Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn
và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí
quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản
VN
Phản hồi về bài
báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán
nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời
Sông Núi!
Nhân ngày Quân Lực 19
tháng 6...
Hai câu chuyện
phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho
đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín
nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri"
và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của
Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện
không đơn giăn
Triệu
con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra
đặc quyền
Những viên Đạn Hợp
Âm
Đảng là tên
đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy
hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền
trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của
cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền
trong rừng luật
Những người "vọng
quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để
giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới
tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị
Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu
tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối
của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và
nay
Lại viết về
nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học
30 tháng 4
36
năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận
tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi
bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để
thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ
VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện
và bệnh Mù Loà
Triển vọng
chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở
Đâu?
Lộn xộn tiếng
Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n
nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai
Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con
chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn
Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con
người
Chuyến xe buưt và khúc
hát người lính mù
Vài suy nghĩ về biểu t́nh
chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không
tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại
đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền
Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi
những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu
tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở
thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân
chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt
tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại
nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con
cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà
không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng
của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da
cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ
lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă
hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến
chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của
csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh
đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc
gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10
điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản
phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại
thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh
chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay
đă quên
Cảnh giác âm mưu
"tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư
đen"
Tổng phản công nghị
quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc
nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của
người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và
niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một
truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...