Phạm Bá Hoa
Giáo dục.
“Giáo dục, nền tảng đào tạo con người về nhân cách và kiến thức”.
Nhân cách cần kiến thức hậu thuẫn những lư lẽ để tránh bị lợi dụng
vào mục đích không tử tế, ngược lại kiến thức cần nhân cách trợ giúp
biến kiến thức trở thành những dự án những công tŕnh hữu ích trong
cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn,
bởi ngày nay mọi sinh hoạt đều tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả
sinh hoạt từ thiện cũng vậy.
Giáo dục, bao gồm: “Giáo dục gia đ́nh. Giáo dục học đường. Và giáo
dục xă hội”. (1) Giáo dục gia đ́nh do bẩm sinh, do huyết thống, và
cung cách sống của các thành viên trong gia đ́nh, nhất là cha mẹ ông
bà. (2) Giáo dục học đường do chính sách của chánh phủ ngang qua hệ
thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, những chính sách hỗ trợ học
sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy. (3)
Giáo dục xă hội do những chính sách của chánh phủ và những sự kiện
xăy ra trong mọi sinh hoạt. Giáo dục, thể hiện đường lối của lănh
đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển, chánh phủ
hoạch định đường lối phát triển, các ngành căn cứ vào đó soạn thảo
những dự án thực hiện và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia
theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục, và ngành giáo dục đào tạo
cung ứng cho nhu cầu đó, đồng thời phát triển ngành giáo dục từ đội
ngũ sư phạm, sách giáo khoa, dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng
dạy, và ..v..v...
Dưới chế độ cộng sản Việt Nam độc tài, các nhóm lănh đạo trong Bộ
Chính Trị chưa bao giờ có mục tiêu phục vụ đồng bào phục vụ tổ quốc,
mà chỉ có mục tiêu phục vụ đảng cộng sản thể hiện qua những chính
sách tổ chức và điều hành bộ máy xă hội trên căn bản bịt mắt bịt tai
bịt miệng toàn xă hội từ năm 1945 trên lănh thổ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Ḥa, và từ năm 1975 trên toàn cơi nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. Từ năm 1998, tuy lănh đạo CSVN có những kế hoạch cải
tổ giáo dục nhưng chỉ là cải tổ vá víu chớ không cải tổ tận gốc rễ,
cho nên đến nay (2008) giáo dục Việt Nam vẫn là chính sách đào tạo
những thế hệ thần dân để tuân phục chế độ. V́ vậy mà hơn 30 năm qua
kể từ khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Ḥa, chẳng những không có những
thế hệ công dân đúng nghĩa để xây dựng đất nước, trái lại, bản chất
gian manh dối trá của chế độ độc tài đă luồn vào mọi ngóc ngách sinh
hoạt, đặc biệt là trong giáo dục học đường, dần dần biến thành một
nếp trong đời sống b́nh thường của mọi thành phần mọi lứa tuổi trong
một xă hội 86.000.000 dân: “Xă hội xă hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Giáo dục Việt Nam 1954-2000.
Ngược ḍng thời gian. Chính sách giáo dục của cộng sản Việt Nam
(CSVN) từ năm 1954 đến năm 1975, áp dụng hệ 10 năm trong hai bậc
tiểu học và trung học, nghĩa là chỉ học đến lớp 10 là hết bậc trung
học. Điều này tôi đọc được trong sách giáo khoa của CSVN khi tôi bị
giam ở trại tập trung có tên là “Trại Cốc” trong khu rừng già Tây
Bắc Hà Nội thuộc xă Việt Cường quận Trấn Yên tỉnh Hoàng Liên Sơn
trong những năm 1976-1978. Họ bắt anh em tù chính trị chúng tôi phải
đọc sách của họ, ban đầu chúng tôi chỉ mượn về để đó đến ngày đem
trả, dần dần thử đọc và thấy nên đọc. Đọc để hiểu họ theo cách hiểu
hai mặt trong cuộc sống của người tự do, trong khi họ cứ tưởng chúng
tôi hiểu theo cách hiểu một mặt của họ trong xă hội xă hội chủ
nghĩa. Trong quyển giáo khoa lớp 1, khi dạy toán cộng họ dùng xác
người để dạy học tṛ: “5 tên ngụy + 2 tên đế quốc bị bắn chết = 7”.
Chỉ với bài toán cộng này tôi nhận ra tích cách tàn bạo của CSVN
trong mục đích dùng giáo dục học đường trang bị cho trái tim khối óc
tuổi thơ lên 5 lên 6: (1) Không phải người cộng sản là kẻ thù phải
giết. (2) Không giải thích cho tuổi thơ hiểu tại sao gọi là đế quốc
tại sao gọi là ngụy. (3) Giết người một cách nhẹ nhàng như làm bài
toán cộng. Theo cách hiểu đó, nội dung giảng dạy trong toàn bộ hệ
thống giáo dục của CSVN đă dẫn đến t́nh trạng mọi người mọi giới
trong xă hội xă hội chủ nghĩa chỉ được nghe được thấy một mặt của
cuộc sống và chỉ được nói những ǵ đảng với nhà nước cộng sản cho
phép.
Cũng tại Trại Cốc, tên Trung Uư Khảm, với vẻ mặt đầy kiêu hănh khi
hắn nói: “Năm 1964, khi đế quốc Mỹ dùng Hạm Đội 7 tấn công các hải
đảo của ta, phi công cách mạng rất linh hoạt sáng tạo, đă bay sà
thấp và lặn xuống biển chui dưới đáy tàu qua bên kia trồi lên bay
tiếp, súng đạn của chúng trở nên vô dụng”. Chuyện quái đản như vậy
mà hắn vênh mặt lên như thể anh em chúng tôi từ hành tinh khác mới
đến địa cầu vậy. Lại một chuyện quái đản hơn nữa khi hắn hăng say kể
tiếp: “Trong thời gian B52 đế quốc Mỹ thả bom rải thảm, phi công anh
hùng Phạm Tuân của cách mạng đă vọt lên không trung, chui vô mây,
tắt máy, phục kích. Khi thấy B52 bay phía dưới, anh hùng Phạm Tuân
rồ máy tấn công từ trên cao”. Quí vị nghĩ coi, sĩ quan của “quân đội
nhân dân” mà nói chuyện quái đản đó y như thiệt vậy. Trời đất ơi!
Vậy là người cộng sản bị giáo dục học đường và giáo dục xă hội làm
cho họ ngu muội đến không thể tưởng tượng được.
Lần lượt dưới đây là những sự kiện chứng minh cho nội dung giáo dục
nói trên, ngang qua nhận thức và quan điểm của những vị trách nhiệm
giáo dục hoặc ưu tư đến giáo dục, nêu bật tính chất giáo dục phục vụ
chế độ độc tài cộng sản dẫn đến sự băng hoại xă hội Việt Nam ngày
nay.
1. Trong giai đoạn ngắn ngủi gọi là “cởi trói” (đổi mới) cho báo chí
phản ảnh sinh hoạt xă hội, đây là bài viết của Vũ Hạnh đăng trong
báo Công An ngày 31/05/1989 tại Sài G̣n. Theo đó, vào trung tuần
tháng 05/1989, Viện Nghiên Cứu Giáo Dục phía Nam và Ban Khoa Giáo
thành ủy Sài G̣n mà họ gắn cái tên ông Hồ vào đó, phối hợp tổ chức
cuộc hội thảo tại số 36 đường Lê Thánh Tôn với sự tham dự của giáo
viên giáo sư từ các trường học và từ các cơ quan nghiên cứu giáo
dục. Mục đích, t́m hiểu sự suy đồi đạo đức học đường. Bà Tôn Thuyết
Dung, được đánh giá là nhà giáo dũng cảm khi nhận trách nhiệm nghiên
cứu và tŕnh bày đề tài “T́m hiểu nhược điểm và khuyết điểm của sách
giáo khoa và phương pháp giảng dạy đạo đức cho học sinh”. Cuối phần
thuyết tŕnh, bà Tôn Thuyết Dung nhận định:
“… Sách giáo khoa đang sử dụng đă lỗi thời v́ nó được soạn ra trong
thời kỳ chiến tranh, và chỉ nhắm vào lớp trẻ sống ở nông thôn miền
Bắc. Tất cả chỉ phục vụ mà không quan tâm đến đạo đức, chuyên chở
những chủ đề mà tầng lớp thanh thiếu niên không dễ ǵ cảm nhận được
chứ nói ǵ đến học hỏi. Chẳng hạn như “cá thể với tập thể, đả đảo
với ủng hộ, ngụy quyền với chánh quyền, đế quốc với cách mạng, phản
động với trung thành, ..v..v..”. Sách giáo khoa lại tham lam khi đề
cập nhiều vấn đề, nội dung phản lại giáo dục ở điểm trưng dẫn những
sự kiện xấu mà không chỉ dạy cách sửa đổi. Sách giáo khoa không đào
tạo con người trước khi nói đến chủ nghĩa cộng sản. Về các câu hỏi
để học sinh trả lời không nhắm vào chủ đề rơ rệt, không giúp học
sinh phát huy nhận thức, trái lại g̣ ép học sinh trả lời một cách
dối trá”...
Cũng trong hội thảo này, ông Xuân Diện nhận xét thật ngắn nhưng thật
sâu sắc: “Một trong những thiếu sót quan trọng là giáo dục không đào
tạo con người, nên rốt cuộc xă hội chúng ta chỉ có thần dân mà không
có công dân”
Lại một nhận thức sâu sắc khác: “Giáo dục phải nhắm mục đích tạo nên
con người dân chủ từ bé, phải chống lại sự tha hóa lớn nhất hiện nay
là sự quanh co dối trá, sự thiếu thành thật giữa con người với
nhau…”.
2. Đây là bài viết trên báo Tuổi Trẻ: Tại buổi lễ cuối năm học
1988-1989 tổ chức vào ngày cuối tháng 05/1989 tại một trường trung
học phổ thông Quận 1, khi một nữ sinh lớp 9 đang phát biểu một cách
trôi chảy: “... Nhờ ơn bác dẫn dắt, nhờ ơn đảng soi đường, nhờ ơn
đoàn chắp cánh cho em bay lên, ….”
Nghe đến đây ông đại diện Quận 1 hỏi Bí thư đoàn thanh niên của
trường đang ngồi bên cạnh: “Con bé rất tiến bộ. Vậy nó đă vào Đoàn
chưa?
Anh bí thư đáp: “Nó không chịu vào đoàn. Môn văn của nó khá lắm nên
nó tŕnh bày rất hay, nhưng cứ mỗi lần vận động vào đoàn th́ nó trả
lời, vào đoàn chỉ mất th́ giờ chớ chẳng có lợi ǵ hết. Thành ra nó
nói vậy chớ không phải vậy đâu”.
Cũng trong tờ báo này, có mẫu tin liên quan đến câu “nói vậy nhưng
không phải vậy” trên đây. Trong kỳ thi cuối lục cá nguyệt, thầy giáo
chấm bài đă hết lời khen ngợi bài luận về “Gia đ́nh em trong cuộc
sống hôm nay” của một nữ sinh lớp 8 v́ bài viết rất thực, rất sống
động về cuộc sống nghèo nàn gian khổ. Nhưng thầy rất đau ḷng khi
nói với học sinh của ḿnh rằng: “Em viết rất hay, rất thật, nhưng
thầy khuyên em, nếu như em muốn tiếp tục học nữa, em phải viết theo
bài học, v́ bài luận này tŕnh lên Sở th́ em không thể học nữa đâu.
Thầy thật ḷng khuyên em như vậy”.
Tác giả bài báo thêm một câu vắn tắt rằng: “Từ lâu lắm rồi, dốí trá
là nấc thang trong học đường, và liệu bao giờ giáo dục mới thoát
khỏi cái văn hoá dối trá đó?”
3. Trên màn ảnh đài truyền h́nh Sài G̣n tối 20/07/1989, có bài tường
thuật hội nghị tổng kết năm học 1988-1989 riêng cho các tỉnh phía
Nam, từ Thừa Thiên/Huế xuống đến Cà Mau, như sau: “Hội nghị nhận
định học sinh tiểu học là đầu mối quan trọng của hệ thống giáo dục
lại có tŕnh độ rất kém. Kém đến mức học sinh lớp 1 chỉ có 20% biết
đọc bập bẹ, c̣n lại 80% chẳng biết ǵ cả. Hội nghị đă gióng nhiều
hồi chuông báo động trong toàn diện hệ thống giáo dục, ít nhất là
giáo dục tại các tỉnh miền Nam. Đặc biệt là hồi chuông báo động về
sự suy đồi đạo đức”.
Nội dung các điểm 1, 2, và 3 trên đây, tôi ghi chép trong các báo
của CSVN phát hành tại Sài G̣n từ cuối 1987 đến đầu 1991, và mang
theo khi rời Việt Nam trong đợt HO 5 vào cuối tháng 03/1991. C̣n hầu
hết nội dung các điểm dưới đây do trích từ các Diễn Đàn và các trang
Web hải ngoại lẫn trong nước.
4. Tháng 12/1998, khi được biết lănh đạo cộng sản Việt Nam chuẩn bị
soạn thảo dự luật giáo dục, một số nhà giáo vận động đưa quan niệm
“xă hội hóa ngành giáo dục” vào dự luật. Theo đó, lănh đạo chỉ nên
giữ vai tṛ quản lư hành chánh, c̣n về tổ chức cũng như chương tŕnh
giáo dục và phương pháp giáo dục nên để cho người dân tham gia, nhằm
vận dụng sáng kiến chung vào sự phát triển giáo dục. Quan niệm đó
bao gồm ngoài mục tiêu cải tiến hệ thống giáo dục cho lớp tuổi từ 3
đến 18 tuổi, công tác giáo dục và tái giáo dục cho những thành phần
lớn tuổi trau dồi thêm kiến năng lẫn kỹ năng, nên dành cho những cá
nhân cũng như những cơ quan giáo dục tư nhân góp phần trách nhiệm.
Đảng với nhà nước không nên cầm tay người dân mà bảo làm việc này
việc khác, mà nên suy nghĩ t́m ṭi những cách tạo điều kiện cho nhân
dân giải quyết nhu cầu, nhất là học tập và tái học tập của trên dưới
40 triệu lao động không có cơ hội học tập và tái học tập để thích
ứng với thời kỳ mở cửa phát triển.
Nhà nước mang ra thử áp dụng mô h́nh loại trường nửa công nửa tư và
mô h́nh trường tư, nhưng những điều kiện để được cấp giấy phép rất
khó khăn do chính sách kỳ thị bất công. Thêm nữa, nhà nước t́m mọi
cách xen lấn vào các quyết định về nội dung giảng dạy, thậm chí có
một số trường tư lại bị lănh đạo đảng đưa cán bộ vào lủng đoạn nhà
trường để thực hiện những cuộc thi giả hay làm thành tích giả cho
học sinh là con em của đảng viên cao cấp. Rốt cuộc là sau nhiều năm
thực hiện cải cách giáo dục theo bộ luật giáo dục gồm 110 điều trong
9 chương với khẳng định “quyết tâm coi giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân”, mà ông
Trần Hồng Quân, Bộ Trưởng Giáo Dục Và Đào Tạo thời cải cách giáo dục
đă nhận xét rằng: “Chính hệ thống tập trung bao cấp đă làm cho công
cuộc cải cách giáo dục tại Việt Nam hoàn toàn thất bại. Đảng đă tổ
chức bao nhiêu hội nghị, cũng lắng nghe nhiều ư kiến, nhưng giáo dục
Việt Nam vẫn chọn học sinh là con em của đảng viên, và nhất là vẫn
tập trung mọi quyền hành để rồi ôm đồm những việc chính yếu của nhà
trường nhưng làm không xuễ”. Rồi ông Quân đưa ra quan điểm: “Chỉ có
tư duy xă hội hóa giáo dục, mới cứu nỗi xă hội Việt Nam không bị tụt
hậu trước sức phát triển quá nhanh của thế giới hiện nay”.
5. Cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, để lại tập nhật kư “Rồng Rắn”
ngày 7/12/2000, có đoạn liên quan đến giáo dục như sau: “Bộ máy quản
lư xă hội đă thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất
cả các thứ chuyên chính. Đó là chuyên chính tư tưởng, được thực hiện
bởi một đội ngũ ṇng cốt là “những lưu manh tư tưởng”. Nền chuyên
chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy
nghĩ, mọi tiếng nói. Nó làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ
ǵ, hay ít nhất cũng không muốn suy nghĩ. Từ đó làm tê liệt toàn bộ
đời sống tinh thần của dân tộc và biến họ trở thành những con rối,
chỉ biết nhai như vẹt những nguyên lư bảo thủ giáo điều. Nó cũng làm
cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật
nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng. Nó cũng làm
cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch. Nó tạo ra và nó
bắt buộc nhân dân phải có một tâm lư lệ thuộc đảng, lệ thuộc nhà
nước, lệ thuộc cán bộ, và một tâm lư phải tuân phục, kể cả người cao
nhất cũng phải tuân phục vào một cái ǵ bí và hiểm. Nói chung, nền
chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là một tổng hợp các tội ác
ghê tởm của Tần Thỉ Hoàng cùng các vua quan tàn bạo của Trung Hoa
phong kiến, cộng với tội ác của các chế độ độc tài phát xít. Nó tàn
phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Suy cho
cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. V́ không phải nó
chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người, mà nó c̣n hủy hoại đời
sống tinh thần, đời sống tư tưởng của cả một dân tộc. Nó đang làm
hại cả một ṇi giống”.
Tóm tắt giai đoạn 1954-2000. Chính sách giáo dục của lănh đạo CSVN
từ thời ông Hồ 1954 trên đất Bắc và từ 1975 đến 2000 trên toàn cơi
Việt Nam trong mục tiêu phục vụ chính trị, chỉ nhắm đào tạo những
thế hệ thần dân để tuân phục họ, trong khi dối trá ích kỷ với mọi
người chung quanh. Giáo dục, chẳng những không giúp tuổi trẻ khai
phá óc sáng tạo, trái lại chính sách của chế độ đă bịt mắt bịt tai
bịt miệng tuổi trẻ và mọi người, đồng thời trừng phạt những ai suy
nghĩ khác, làm khác, nói khác với những ǵ đảng dạy. Tôi nói “đảng
dạy” v́ sách giáo khoa theo lời của “bí thư chi bộ trường trung học
Mạc Đỉnh Chi” (Phú Lâm, Sài G̣n) đă nói với giáo sư Vơ Hồng Lạc
rằng: “Sách giáo khoa do trung ương đảng duyệt, mà khi trung ương
đảng duyệt th́ tuyệt đối đúng”. Chuyện là anh Vơ Hồng Lạc sau khi bị
bắt buộc giao chức Hiệu Trưởng trường trung học Mạc Đỉnh Chi cho một
phụ nữ từ ngoài rừng vào Sài G̣n đầu tháng 5/1975, anh dạy sử địa.
Anh tŕnh bày sách sử địa in sai, v́ sông Cửu Long không có đoạn nào
chảy ngang Sài G̣n mà trong sách đă viết. Anh Lạc bị tên bí thư ghép
tội chống đối đảng (CSVN) suưt chút nữa anh vào tù ngay lúc ấy. May
mắn là anh được nghỉ việc. Rơ ràng giáo dục của CSVN tạo cho con
người tuân phục tuyệt đối vào những ǵ đảng dạy, tuân phục đến mức
không dám nh́n vào sự thật hoàn toàn trái ngược.
Giáo dục Việt Nam 2001-2008.
6. Theo tài liệu của Tiến sĩ Bửu Sao (trong nước), năm học 2003-2004
tại Việt Nam có những con số sau đây:
“Giáo dục bậc tiểu học, gồm cả vườn trẻ và mẫu giáo, có 22.600.000
học sinh trong hơn 10.000 cơ sở giáo dục. Trở ngại lớn nhất ở bậc
tiểu học là thiếu giáo viên, trong khi số giáo viên đang giảng dạy
cũng không đạt tiêu chuẩn. Cơ sở pḥng học cũng như dụng cụ hỗ trợ
giảng dạy cũng thiếu thốn. Riêng số lượng học sinh mẫu giáo chiếm
90% trên tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học”. Tỷ lệ số học sinh học
xong lớp mẫu giáo ở những vùng khó khăn là thấp. Giáo dục bậc trung
học, gồm cả hai bậc, có 17.600.000 học sinh. Đa số trong số hơn 17
triệu học sinh này có tŕnh độ rất thấp về kiến thức xă hội, kỹ năng
thực hành, và vận dụng kiến thức trong tinh thần sáng tạo. Đội ngũ
giáo viên giáo sư trong t́nh trạng vừa thiếu lại vừa thừa, thiếu về
số lượng và thừa v́ tŕnh độ thấp nên không sử dụng được bao nhiêu.
Giáo dục trung học chuyên nghiệp, có 1.500.000 học sinh. Kiến thức
chuyên nghiệp không cao so với đ̣i hỏi của thị trường lao động.
Trong hằng chục năm qua đă đào tạo được khoảng 1.500.000 chuyên
viên, nhưng khả năng của họ không thích ứng với nhu cầu việc làm, đă
dẫn đến t́nh trạng “thầy không phải thầy mà thợ cũng chưa phải thợ”,
họ đành phải làm những công việc không phải là những ǵ mà họ đă học
mấy năm trong trường. Giáo dục bậc đại học, có 1.030.000 sinh viên.
Số lượng giáo sư vào khoảng 40.000 nhưng tŕnh độ c̣n thấp, chỉ
khoảng 45% có tŕnh độ thạc sĩ mà đa số trong số này đều cao tuổi.
Cơ sở vật chất nghèo nàn, phẩm chất mà trong nước gọi là chất lượng
giáo dục thấp. T́nh trạng “học th́ giả mà bằng th́ thật” khá phổ
biến trong xă hội Việt Nam ngày nay. Trong mấy chục năm qua, lănh
đạo đảng với lănh đạo nhà nước xem Giáo sư với Phó Giáo sư đại học
là “học hàm” do nhà nước phong, chớ không phải tước vị của người
giảng dạy có tŕnh độ đại học trở lên. Muốn được nhà nước phong chức
“học hàm” này, cho dù có mấy cái bằng đại học đi nữa mà không có
bằng chính trị do Học Viện Chính Trị Quốc Gia cấp, vẫn không được
phong chức vị đó!“
Mở ngoặc. Theo Vietnam Net ngày 3/9/2008, năm học 2008-2009 có gần
22.000.000 học sinh sinh viên nhập học. Trong số này có 3.400.000
học sinh tiểu học, 9.300.000 học sinh 2 cấp trung học, 710.00 học
sinh trung học chuyên nghiệp, 1.650.000 sinh viên theo học Cao Đẳng
và Đại Học. Như vậy, tổng số học sinh viên thấp so với năm học
2003-2004. Đóng ngoặc, trở lại bài của tiến sĩ Bửu Sao.
“Hiện nay có khoảng 6.384 Giáo sư và Phó Giáo sư, mà một số đáng kể
trong số này không đọc được một tờ báo ngoại ngữ. Thêm nữa, có
khoảng 75% trong số đó không giảng dạy trong ngành giáo dục, trong
khi ngành này không bao giờ đủ giáo sư. Có khoảng 20.000 thạc sĩ, và
dự tính đến năm 2010 sẽ tăng lên 38.000 thạc sĩ và 15.000 tiến sĩ.
Xem ra bằng cấp đại học và trên đại học khá nhiều, nhưng đa số là
bằng cấp giả, hoặc những bằng cấp loại nâng đỡ với vài năm đại học
là có bằng tiến sĩ. Một điển h́nh là giáo sư Cao Xuân Hạo, khi làm
biện chứng cho một luận án tiến sĩ ngôn ngữ học dài 380 trang, trong
tờ tŕnh lên Bộ Giáo Dục, có đoạn ông viết: “Là tiến sĩ phải hơn một
học sinh trung học”. Nghiên cứu sinh này không bằng một học sinh lớp
3 th́ làm sao trở thành một tiến sĩ?” Thế nhưng Bộ Giáo Dục vẫn cho
nghiên cứu sinh này bảo vệ luận án, và Bộ cử 3 vị gọi là trong làng
“ngôn ngữ học” vào Hội Đồng,kèm theo cái lệnh “bằng mọi cách phải
giúp thí sinh đó có bằng tiến sĩ!”
7. Trường hợp này, tiến sĩ Dương Thiệu Tống, giảng dạy tại trường
đại học Bách Khoa Hà Nội, mỉa mai rằng: “Thật ngược đời, khi có
những người không có tŕnh độ về chuyên môn lẫn đạo đức lại được cử
vào Hội Đồng, c̣n người không có tŕnh độ trung học lại có bằng tiến
sĩ”.
Vẫn theo giáo sư Tống, chiều sâu của đại học Việt Nam vẫn c̣n chịu
ảnh hưởng sâu xa của đại học Liên Xô cũ, dù đất nước đó đă thay đổi
nền giáo dục của họ đến tận gốc rễ từ hơn chục năm qua. Giáo dục
nước Nga ngày nay dựa theo kinh nghiệm giáo dục Châu Âu Châu Mỹ. Cái
tai hại nặng nhất của giáo dục Việt Nam là trong Pháp Quy Giáo Dục,
tại điều 52 có ghi rằng: “Tổ chức đảng cộng sản Việt Nam trong các
trường tư thục ở vị trí lănh đạo nhà trường, lănh đạo Đoàn Thanh
Niên cộng sản, lănh đạo Đội Thiếu Niên Tiền Phong, và Sao Nhi Đồng.
Mọi hoạt động phải theo quyết định của Bộ Giáo Dục và điều lệ của tổ
chức liên hệ.”
Điều này thể hiện chính sách của lănh đạo CSVN là tổ chức đảng kềm
kẹp học sinh trong hệ thống trường công lẫn trường tư.
8. Về thời lượng giảng dạy. Theo giáo sư Nguyễn Đ́nh Trí, giảng dạy
tại Đại Học Bách Khoa Hà Nội: “Công tác đào tạo có gia tăng nhưng cơ
sở cũng như mọi phương tiện giáo dục chẳng những không tăng mà cũng
không cải tiến ǵ mới. Thời lượng trung b́nh là 1.177 giờ trong một
năm học. Đó là số giờ chánh thức, các giáo sư c̣n phải chạy đua dạy
kèm để có thêm lợi tức cho cuộc sống. Trong nhiều hoàn cảnh đối với
giáo sư, lợi tức dạy kèm là chánh, dạy học tại trường lớp trở thành
phụ, v́ đồng lương không đủ sống dù là tối thiểu”.
9. Về cấu trúc giáo dục. Trên trang Web “Vietnam Education” năm
1997, Việt Nam cộng sản dự trù tái cấu trúc hệ thống giáo dục Việt
Nam từ năm 2000 như sau: Sau lớp Mẫu Giáo là bậc Tiểu Học từ lớp 1
đến lớp 5. Tiếp đến là Trung Học có 2 bậc: từ lớp 6 đến lớp 9 là
trung học cơ sở, từ lớp 10 đến lớp 12 là trung học phổ thông. Song
song với Trung Học Phổ Thông là Trung Học Chuyên Nghiệp với 2 năm
học, và sau Trung Học Phổ Thông là Đại Học Cộng Đồng với 3 năm học.
Đến bậc Đại Học với 4 năm tốt nghiệp cử nhân hay kỹ sư, nếu tiếp tục
thêm 2 năm nữa sẽ là tiến sĩ.
10. Theo Giáo sư Thạch Trung Giá (Nha Trang): “… Văn hoá là phần hồn
của một nước. Chính văn hoá đă tạo ra mọi hoạt động của đời sống dân
tộc. Do đó, những sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt chính trị, sinh hoạt
trí thức, là những h́nh thái văn hoá. Văn hoá là văn minh, văn hoá
cũng là giáo dục. Giáo dục là xây dựng cơ sở cho ngày mai thừa hưởng
và vun bồi truyền thống hôm nay. Nếu guồng máy giáo dục đă khó,
nhiệm vụ của nhà giáo càng khó hơn khi mà đất nước thay đổi, và năo
trạng của dân tộc cũng không c̣n như xưa, v́ tự nó đă không c̣n
giống nó th́ làm sao giống những người khác trong xă hội, mà sự mất
c̣n của một nước là do giáo dục. V́ giáo dục đào tạo linh hồn, từ
người lănh đạo cao nhất đến những chuyên viên các ngành các cấp, đến
toàn thể dân tộc, tất cả phải được trang bị một ư thức lành mạnh về
cộng đồng. Nếu một nền giáo dục mô phỏng thiếu linh động, sẽ đào tạo
một xă hội lệch lạc bệnh hoạn, và dân tộc đó chuẩn bị đưa nhau xuống
vực thẳm”.
Ông mượn lời của sử gia Guizotia (người Pháp) để chỉ t́nh trạng giáo
dục xă hội chủ nghĩa Việt Nam: “Trí dục không đi đôi với đức dục, sẽ
là nguồn gốc của tính kiêu ngạo, bất phục tùng, ích kỷ, và rất nguy
hiểm cho xă hội”.
Câu nói của sử gia Guizotia có giá trị vượt thời gian ít nhất là đối
với nền giáo dục nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, v́ giáo
dục Việt Nam trong mấy chục năm trở lại đây đă đổ vào xă hội hằng
ngàn hằng vạn trường hợp điển h́nh về hệ quả của nền giáo dục phục
vụ chính trị độc tài. Rơ ràng là nền giáo dục trái khuấy đó đă dẫn
xă hội đến đổ vỡ giá trị đạo lư, nói chung là đổ vỡ nếp sống văn hoá
dân tộc.
11. Theo Giáo Sư Hoàng Tụy trong nhóm nghiên cứu giáo dục Hà Nội
phát biểu: “Chương tŕnh giáo dục Việt Nam trong bao nhiêu năm qua
vẫn trong t́nh trạng lạc hậu, thi cử nặng nề với phẩm chất (mà ông
gọi là chất lượng) rất kém. Sách giáo khoa cũng không thích ứng với
hoàn cảnh đất nước, nghĩa là những cải cách trước đây không đạt được
hiệu quả so với nhu cầu đất nước. Những sự kiện gian dối trong giáo
dục cũng như trong thi cử, làm xói ṃn niềm tin của tuổi trẻ lẫn của
phụ huynh mà thành phần này luôn kỳ vọng vào nền giáo dục nước nhà,
đă dẫn đến t́nh trạng ngày càng trở nên trầm trọng, thậm chí nó đánh
mất niềm tin của mọi người trong xă hội”.
Nhóm nghiên cứu giáo dục này cho biết: “Ngày 23/2/2004 Bộ Giáo Dục &
Đào Tạo đă ban hành Quyết Định, bắt buộc sinh viên đại học toàn quốc
phải học và thi tốt nghiệp các môn học chính trị, bao gồm triết học
Mác-Lê, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xă hội khoa học, lịch sử đảng,
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quyết định này có hiệu lực từ ngày
9/3/2004, và tất cả sinh viên không có quyền chọn lựa mà phải học
theo giáo tŕnh chọn sẳn. Các môn học bắt buộc này chiếm đến 203
giờ, chiến khoảng 9% (?) thời lượng của chương tŕnh đại học”.
12. Theo ông Quốc Việt, một chuyên viên giáo dục tại Hà Nội nhận
định: “Việc Bộ Giáo Dục bắt buộc sinh viên phải học các môn vô bổ đó
là một quyết định phản khoa học, không phù hợp với chuẩn mực giáo
dục quốc tế. Đồng thời lăng phí thời gian học, lăng phí tiền thuế
của đồng bào đóng góp cho ngân sách quốc gia, nhất là tước bỏ quyền
chọn lựa môn học thích hợp của sinh viên”.
13. Trong cuộc hội thảo ngày 12/7/2004 tại Hà Nội, Thủ Tướng đảng
cộng sản Phan Văn Khải nói với cử tọa rằng: “Tôi kêu gọi các nhà
giáo hăy dành tâm huyết mà đánh giá khách quan về t́nh trạng giáo
dục nước nhà. Để qua đó, mà cùng chánh phủ t́m ra những nguyên nhân
khắc phục những yếu kém, hầu thúc đẩy nền giáo dục Việt Nam. Về phần
chánh phủ, chánh phủ sẽ mạnh tay với các hiện tượng tiêu cực gian
lận trong giáo dục”.
Bà Trần Thị Tâm Đoan, Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn Hoá Giáo Dục, thanh thiếu
niên và nhi đồng, tŕnh bày về t́nh h́nh gian lận như sau: “Trong 10
năm qua, sự gian dối trong giáo dục tuy chỉ tồn tại trong một bộ
phận dân cư, song ở cấp học nào cũng có gian dối và thể hiện rơ hơn
hết là trong các kỳ thi vào đại học”.
Theo giáo sư Trần Thanh Đạm: “Giáo dục của Việt Nam ta hiện nay như
cỗ xe hai bánh, nhưng một bánh cao một bánh thấp. Chúng ta đào tạo
nhiều mà thất nghiệp cũng nhiều, bằng cấp cao mà thất nghiệp cũng
cao”.
Dưới nét nh́n của giáo sư Hoàng Tụy: “Giáo dục phổ thông hiện có ba
khối U cần cắt bỏ. Đó là thi cử nặng nề nhưng không phẩm chất (mà
ông gọi là chất lượng), nạn học thêm dạy thêm tràn lan nhưng không
hiệu quả, và phẩm chất sách không cao nhưng giá th́ quá cao. Hậu quả
mà những khối U đó gây ra là chi phí giáo dục ngày càng tăng cao
nhưng hiệu quả giáo dục đạt được rất thấp”.
14. Ban biên tập Vietnamnet khẳng định rằng: “Phẩm chất giáo dục
đang là nỗi ưu tư của toàn xă hội với những vấn nạn, như: bằng cấp
giả, học thêm dạy thêm, học phí, mua điểm, học vẹt học tủ, ..v..v..
Điều này đă thể hiện rất rơ qua 197 ư kiến chất vấn của cử tri tại
kỳ họp thứ 5 của Quốc Hội. Vậy đâu là nguyên nhân của t́nh trạng tŕ
trệ trong giáo dục mà đảng với nhà nước từ lâu coi việc đầu tư giáo
dục là quốc sách?
Quốc sách đâu không thấy, chỉ thấy ông Nguyễn Minh Hiển, Bộ Trưởng
Giáo Dục & Đào Tạo đă trần t́nh một cách nản chí. Ông nói: “So sánh
về chỉ số thông minh th́ học sinh Việt Nam không thua kém học sinh
các nước, nhưng chỉ số sáng tạo th́ thua xa học sinh các nước phát
triển. Điều đáng lo ngại là một số nhà giáo và cán bộ quản lư giáo
dục thiếu gương mẫu, thiếu đạo đức, lại vi phạm pháp luật, nói chung
là làm giảm uy tín của ngành giáo dục nước nhà”.
15. Dưới đây là một số ư kiến về giáo dục trên Vietnamnet:
(a) “Từ địa chỉ <infin> ngày 28/8/2004: Các hệ chính quy đào tạo
theo lư thuyết một cách cứng nhắc, trong khi thực hành chỉ có tính
cách tham khảo nên không đạt đến một cụ thể nào mà xă hội cần thiết.
Dường như chúng tôi học đại học chỉ để nghiên cứu chứ không phải để
làm việc. Về học, theo tôi chỉ khoảng 30% là tâm huyết học hành, đa
số c̣n lại chỉ là thành phần cóp bài, chạy điểm. Về dạy th́ người
giáo viên đến lớp chỉ làm rẹt rẹt cho xong là hết trách nhiệm”.
(b) Từ địa chỉ <noname> là lời trách móc: “Tại sao trên thế giới có
những phương pháp giáo dục rất hay mà sao chánh phủ ta không chịu
học hỏi người ta! Tôi thấy chúng ta cứ suốt ngày ṃ mẫm cách này
cách nọ. Cái ǵ của người ta tốt mà ḿnh chẳng chịu học hỏi, nên
phẩm chất giáo dục cứ lùi hoài, rốt cuộc chẳng bằng ai!”
(c) Ông Nguyễn Hải Đăng: Vấn đề được gọi là “xây dựng điểm” dẫn đến
tệ nạn giáo viên được lệnh cán bộ Hiệu Trưởng phải cho điềm cao đến
90/100 hay hơn nữa, cho dù bài làm của học sinh không đáng được điểm
như vậy, thậm chí số điểm đạt được có thể bị phạt hoặc ở lại lớp
nữa. Mục đích của “xây dựng điểm” của cán bộ nhà trường trong mục
đích tránh cho trường họ có nhiều học sinh kém dẫn đến sự kiện bị
cấp trên phê b́nh, kiểm điểm, khiển trách, làm ảnh hưởng đến đồng
lương lẫn chức vụ. Do vậy mà các tỉnh/thành đều hô hào thi đua và
công bố kết quả các kỳ thi tốt nghiệp học sinh đạt tỷ lệ từ 90 đến
99%. Thậm chí vài điạ phương số học sinh tốt nghiệp đạt đến 100%
nữa. T́nh trạng này không phải mới diễn ra, mà đă có từ thuở mở cửa
vào cuối năm 1986 lận, nhưng có thấy mấy ông nhà nước ngó ngàng ǵ
đâu! Cuối cùng rồi cũng đâu vào đó cả. Chuyện ǵ cũng hoàn thành kế
hoạch, cũng đạt chỉ tiêu, và mọi cán bộ đều làm tốt nhiệm vụ”.
(d) Ông Tân TN góp ư ngày 25/8/2004: “Giáo dục nước ta đúng là gặp
cơn khốn khó như các bạn b́nh phẩm. Nhưng phải làm ǵ để chấn hưng
nền giáo dục hiện nay, đó là vấn đề lớn mà trước hết phải đánh giá
lại một cách khách quan, nghiêm túc, để từ đó đưa ra giải pháp chấn
hưng. Vấn đề đánh giá không nên giao cho Bộ Giáo Dục mà Quốc Hội
phải có một tổ chức độc lập, nếu cần th́ mời thêm các chuyên gia vào
tổ chức này để đánh giá t́nh trạng giáo dục hiện nay. Thậm chí có
thể vận động nhờ chuynê gia quốc tế nghiên cứu đánh giá giúp chúng
ta. Nước ta có cái đặc biệt là khi những người có chức vụ cao mà làm
không tốt trách nhiệm, chẳng có ai tự ư xin từ nhiệm hoặc bị cách
chức, cho nên không bao giờ tiến lên được. Cái đặc biệt này không
giống với bất cứ quốc gia tiên tiến nào trên thế giới cả. Ông bà ta
nói đúng:” Nhân nào th́ quả ấy”.
(e) Ông Huy Vinh Linh: “Tôi thấy học sinh sinh viên Việt Nam toàn
học “chạy”, học mà không đi với hành, ngay cả bản thân tôi khi học
đại học cũng vậy. Cho nên đến khi đi làm tôi rất bỡ ngỡ, phải mất
nhiều thời gian mới tiếp cận được công việc. C̣n một điều nghịch lư
nữa mà tôi thấy bao lâu nay vẫn tồn tại, đó là tŕnh độ giáo viên.
Đây là “đầu vào” của các trường sư phạm, có rất ít học sinh có học
lực khá hoặc giỏi thi vào trường này. Điển h́nh là nhiều bạn tôi
toàn học lực b́nh thường khi học ở bậc trung học phổ thông, thế mà
họ vẫn được vào các trường Cao Đẳng hay Đại Học sư phạm. Vậy th́ làm
sao có được một đội ngũ giáo viên giỏi để đào tạo ra những học sinh
giỏi”.
(f) Ư kiến của ông Quang ngày 25/8/2004: “Tại sao phẩm chất giáo dục
Việt Nam chúng ta kém? Sẽ có hằng trăm hằng ngàn câu trả lời, nhưng
tôi thấy nổi cộm một điều là “bệnh thành tích”. Thành tích, đă trở
thành cái bệnh và là “bệnh trầm kha” chớ không phải bệnh thường gặp.
Rất nhiều người dùng tỷ lệ học sinh sinh viên tốt nghiệp để làm
thành tích báo cáo, mà chẳng có trường nào lấy phẩm chất giáo dục
của học sinh sinh viên làm thành tích cả. Khi thi vào các trường đại
học, tŕnh độ các thí sinh rất kém, đôi khi pha lẫn khôi hài. Chẳng
hạn như nhiều thí sinh không làm được bài, nhưng lại làm thơ t́nh,
thơ trào phúng trêu ghẹo thầy cô, vẽ h́nh sa đọa, hoặc viết thư năn
nỉ chấm đậu v́ nếu không th́ bị gia đ́nh đánh đuổi, v..v.. rồi nộp
cho thầy cô coi thi. Trung b́nh có từ 65 đến 80% học sinh thi rớt,
và rồi không ai biết số phận của các học sinh đó có cuộc sống như
thế nào khi phải lao vào xă hội.
(g) Ông Hoàng Thanh: “Tôi không dám bàn đến tất cả các cấp học mà
chỉ có ư kiến về bậc đại học thôi. Có quá nhiều ư kiến cho rằng cần
phải thay đổi chương tŕnh giáo dục mà ít ai để ư đến “cái hồn” của
bậc đại học. Vậy “cái hồn của đại học” là ǵ? Đó là phong cách, là
quan hệ giữa Thầy dạy với sinh viên, và giữa sinh viên với nhau.
Nhiều lúc tôi có cảm tưởng ḿnh đếp lớp học giống như đến một siêu
thị vậy, v́ ở đây có kẻ mua người bán, và bán xong là phủi tay.
“Người bán là Thầy dạy” không cần biết “người mua là sinh viên” sẽ
sử dụng món hàng vừa mua như thế nào! Trong siêu thị đôi lúc người
ta c̣n để ư đến sức mua, c̣n trong trường đại học th́ … khỏi nói
nữa. Thuở c̣n học cấp 3, c̣n có học sinh ngoan hiền chăm học, nhưng
khi vào đại học th́ đa phần lại tuột dốc. Bạn bè sinh viên mấy năm
trời mà chẳng biết tên nhau, th́ làm sao có quan hệ tốt với nhau
được”.
(h) Ông Đăng Khoa: “Cải tổ giáo dục, phải nói như vậy mới xứng tầm
phát triển của đất nước hiện nay. Nhưng thực trạng giáo dục đă quá
tải, nhồi nhét vào đầu học sinh sinh viên quá sức, nạn dạy thêm tràn
lan làm cho phấm chất càng sa sút, Bằng cấp thật nhưng học th́ giả,
dẫn đến t́nh trạng loạn bằng cấp. Các cấp các ngành khi chọn nhân
viên chỉ căn cứ vào bằng cấp mà không chú trọng đến khả năng thật
sự, đă dẫn đến những bất cập trong điều hành các ngành sinh hoạt xă
hội. Nhiều cán bộ có chức có quyền lo chạy “bằng cấp” cho con em
ḿnh, để rồi căn cứ vào đó mà đề bạt vào các chức vụ lănh đạo ngay
trong cơ quan ḿnh lănh đạo. V́ t́nh trạng loạn “bằng cấp” mà tại
Việt Nam ta xảy ra t́nh trạng “ai cũng là tiến sĩ, ai cũng là giáo
sư”, trong khi các công tŕnh khoa học kỹ thuật th́ không có nhân
tài thực hiện”.
16. Trong hội thảo tại Hà Nội hồi tháng 7 năm 2004 tổng kết sau thời
gian cải cách giáo dục, với số đại biểu trong ngành giáo dục tham dự
lên đến gần 1.000 người do Thủ Tướng đảng cộng sản chủ tọa, cho thấy
tầm quan trọng của ngành này. Ông Trần Hồng Quân, Bộ Trưởng Giáo Dục
tŕnh bày diễn tiến và kết quả. Ông kết luận: “…Cuộc cải cách giáo
dục trong thời gian qua là hoàn toàn thất bại, v́ cải cách theo quan
niệm chắp vá chớ không cải cách toàn diện…”
Dựa theo kết luận nói trên, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu sử dụng câu nói của
ông Phan Hiền để châm biếm cải cách giáo dục: “Sai đâu (th́) sửa
đấy, sai đấy (nhưng) sửa (ở) đâu, (mà) sửa đâu (th́) sai đấy”.
Từ nền giáo dục đó, nhà văn Dương Thu Hương, một đảng viên cộng sản
đă trở thành một phụ nữ chống đối nhóm lănh đạo CSVN quyết liệt, bà
nói: “Tất cả tuyên truyền của nhà nước chỉ nhắm tạo một huyền thoại
về chiến tranh, để tâng bốc họ, cũng là để đe dọa dân chúng. Người
dân được dạy rằng: Dân tộc ta anh hùng, chúng ta nên kiêu hănh về
lịch sử của chúng ta. Đó là nhà nước lừa dối người dân bằng niềm
kiêu hănh mù quáng của họ”.
17. Tiến sĩ Trần Văn Hiển, giáo sư trường đại học Houston tại Clear
Lake, ông thường được cử về Việt Nam giảng dạy khoa kinh tế tài
chánh, đồng thời phụ trách chương tŕnh giúp sinh viên Việt Nam du
học Hoa Kỳ về khoa kinh tế. Theo giáo sư Hiển trả lời phỏng vấn của
đài Á Châu Tự Do (RFA): “Trên bảng xếp hạng về giáo dục năm 2005,
Việt Nam ở thứ hạng 90/135 quốc gia. Nếu Việt Nam không thay đổi
chương tŕnh giáo dục và khoa giảng dạy, người Việt Nam sẽ măi măi
làm những công việc gia công cho ngoại quốc mà thôi”.
18. Trong bài viết về giáo dục của ông Nguyễn Văn Thành, ông nhấn
mạnh: “Ngày nay, ai cũng biết nền kinh tế quốc gia phụ thuộc vào trí
óc con người, và nền kinh tế này gọi là nền kinh tế Tri Thức mà lănh
đạo cộng sản Việt Nam thường nói đến. Nước nào có nhiều chất xám,
nghĩa là có nhiều chuyên viên cao cấp tài giỏi th́ nền kinh tế sẽ
phát triển. Nói cách khác, kinh tế của các quốc gia hoàn toàn phụ
thuộc vào nền giáo dục của các quốc gia đó. Quốc gia nào có nền giáo
dục tốt th́ quốc gia đó sẽ có một nền kinh tế phát triển. Để so sánh
các nền kinh tế của các quốc gia khác nhau, người ta dùng một danh
từ chung là trị giá tổng sản phẩm nội địa, gọi tắt bằng Anh ngữ là
GDP (Gross Domestic Product), và một loại tiền tệ chung là đồng mỹ
kim”.
Ông Thành nêu giả thuyết pha chút mỉa mai: “Mức phát triển trung
b́nh 7% của Việt Nam trong những năm qua đáng được khích lệ, nếu vẫn
tiếp tục phát triển như vậy trong những thập niên tới, dự phóng vào
năm 2048 Việt Nam mới theo kịp Đại Hàn của năm 2005”.
19. Vào trang Web www.ed.sjtu.edu.cn/rank/2004/top500list.htm với
bảng xếp hạng danh sách 500 trường đại học nỗi tiếng trên thế giới
năm 2004, Việt Nam không có trường nào trong khi Đài Loan nhỏ bé có
đến 3 trường. Sự kiện này đủ nói lên tŕnh độ thấp kém của nền giáo
dục Việt Nam xă hội chủ nghĩa tương xứng với nền kinh tế gia công
hơn 20 năm qua kể từ năm 1987.
20. Trong buổi điều trần tại Quốc Hội CSVN hồi cuối năm 2006, ông Bộ
Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo cho rằng: “… Có 7 vấn đề cấp bách trong hệ
thống giáo dục Việt Nam tồn tại từ lâu nay: (1) Bệnh thành tích. (2)
Tiêu cực trong thi cử. (3) Bằng cấp giả mạo. (4) Cần cải tổ chương
tŕnh cấp phổ thông. (5) Biên soạn và ấn hành sách giáo khoa. (6)
Phẩm chất giáo dục mà ông gọi là “chất lượng giáo dục” rất kém. (7)
Giúp sinh viên t́m việc làm…. “
Ông nêu 7 vấn đề như là cấp bách của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo nhưng
không thấy ông cho biết đă thực hiện chưa, nếu đang thực hiện th́
diễn tiến ra sao mà ông chỉ nói suông thôi. Ông cũng cho biết Thủ
Tướng của ông đă chấp thuận thành lập thêm 5 trường đại học công và
15 trường đại học tư. Số lượng 20 trường đại học này sẽ thành lập
tại: Tỉnh Ḥa B́nh 1 trường + đồng bằng Sông Hồng 7 trường + Miền
Trung 4 trường + 8 trường c̣n lại thành lập tại đồng bằng sông Cửu
Long và Sài G̣n.
21. Trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 có bài “Nh́n thẳng vào khủng
hoảng giáo dục Việt Nam” của giáo sư Hoàng Tụy. Mở đầu với nhận định
sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ
ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đă và đang làm
đau đầu cả xă hội. Chỉ có nh́n thẳng, gọi tên đúng sự vật và chấp
nhận thay đổi, coi cải cách là mệnh lệnh của cuộc sống mới có thể
khắc phục t́nh trạng nguy kịch của ngành giáo dục Việt Nam. Chính
Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đă thừa nhận chánh thức sự
không thành công của giáo dục, đến nay thực trạng nghiêm trọng của
giáo dục Việt Nam vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có
trách nhiệm vẫn tự ru ngủ ḿnh với những thành tựu thực và ảo của
giáo dục. Nếu Việt Nam cô lập với thế giới th́ không đến nỗi quá lo
lắng, nhưng nếu khách quan và có trách nhiệm khi đặt giáo dục trong
bối cảnh toàn cầu, th́ không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng
xa của giáo dục Việt Nam so với các quốc gia chung quanh. Thực tế,
đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái
nghiêm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua ”.
Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư
duy xơ cứng mà 20 năm qua không hề thay đổi. Vẫn cách nghĩ thiển
cận, vẫn giáo điều thời bao cấp được biến tướng ít nhiều để thích
nghi với xu hướng du nhập từ bên ngoài phù hợp với lợi ích riêng của
từng nhóm. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng
cao cả về giáo dục con người, đồng thời mỗi xă hội có nhiệm vụ và
yêu cầu khác nhau cho nền giáo dục của ḿnh. Thêm nữa, con người
sống trong xă hội lành mạnh cần cuộc sống trung thực và óc sáng tạo
để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đă
không đuợc chú ư trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi
trường quốc tế đă biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa
vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc
lập và xây dựng chủ nghĩa xă hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.
22. Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nh́n của một người
Mỹ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của
nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận
khi Thủ tướng đảng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Bush
tháng 6 năm 2008 tại Washington DC.
“Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục:
Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém
với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp v́ cơ sở
không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng
là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong
tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào
ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan
41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ th́
mua, c̣n giáo sư th́ được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do
công tŕnh và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác
bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia
chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi
nh́n vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành.
Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại
học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia
Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa
học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ
nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh
viên từ các trường đại học Việt Nam có tŕnh độ rất kém, bằng chứng
là một công ty kỹ nghệ Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa
tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là
công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có tŕnh độ tối thiểu. T́nh
trạng giáo dục Việt Nam trên đây, có thể phá hỏng những phát triển
kinh tế trong nước và tiến tŕnh hội nhập thế giới”.
“Lănh đạo CSVN nhờ Hoa Kỳ trợ giúp cải tổ giáo dục, và bước đầu Việt
Nam chấp nhận 10 phân khoa của 9 trường đại học Việt Nam áp dụng
toàn bộ chương tŕnh giáo dục đại học Hoa Kỳ. Phó Thủ Tướng cộng sản
Nguyễn Thiện Nhân, yêu cầu ông Đại Sứ Michalak nghiên cứu thiết lập
một trường đại học Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời giúp đào tạo 2.500
tiến sĩ tại các trường đại học Hoa Kỳ dự phóng đến năm 2.020. Một
trường đại học Hoa Kỳ tại Việt Nam cần 100.000.000 mỹ kim đầu tiên
chi phí cho xây dựng hạ tầng cơ sở, và 100.000.000 mỹ kim khác chi
phí điều hành khoảng 100 giáo sư và quản trị viên trong ṿng 10 năm.
Việt Nam sẽ phải t́m kiếm từ các nguồn tài trợ quốc tế để góp phần
thực hiện dự án. Ngày 24 và 25/01/2008, Đại Sứ Hoa Kỳ tổ chức hội
nghị tại Hà Nội qui tụ gần 200 viên chức Hoa Kỳ đại diện cho hơn 100
trường đại học và các cơ quan chánh phủ, thảo luận chung quanh những
vấn đề trợ giúp giáo dục Việt Nam. Hội nghị dự định một hội nghị kế
tiếp sẽ họp vào đầu năm 2009, nhằm kết hợp giáo giới Việt Nam với
giáo giới Hoa Kỳ, xúc tiến các chương tŕnh dạy kỹ thuật giữa đại
học hai quốc gia”.
Viên chức Hoa Kỳ viết bài này kết luận: “... Chỉ với một phần nhỏ
trong những chi tiêu hiện nay cho một vài chương tŕnh và sinh hoạt
trong vùng, chúng ta có thể uốn nắn trở lại đất nước này theo chiều
hướng tạo nên ảnh hưởng sâu đậm và tốt đẹp cho những thập niên tới.
Nếu chúng ta muốn Việt Nam của năm 2020 giống Nam Triều Tiên (Đại
Hàn) hơn là giống Trung Hoa (cộng sản), chúng ta phải hành động ngay
từ bây giờ”.
23. Bài viết của ông Trần Khải ngày 31/8/2008. Ông dựa vào bản tin
Xinhua ngày 25/8/2008, được biết Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (ADB)
và Ngân Hàng Thế Giới (WB) đang nghiên cứu trợ giúp CSVN thành lập 4
Trường Đại Học Nghiên Cứu Khoa Học kiểu mẫu tầm vóc quốc tế tại Hà
Nội, Đà Nẳng, Sài G̣n, và Cần Thơ, đồng thời với chương tŕnh trợ
giúp du học sinh Việt Nam từ trong nước.
24. Từ điạ chỉ e-mail của Hoàng Lan (tngo51@gmail.com) ngày
30/8/2008, chuyển bài viết về giáo dục Việt Nam “Cử nhân dạy cử
nhân” nhưng không thấy tên tác giả. Tóm tắt như sau: “Theo tờ tŕnh
của Bộ Giáo Dục & Đào Tạo (GĐ&ĐT), giảng viên cơ hữu của Trường Cao
Đẳng Kỹ Thuật Công Nghệ Vạn Xuân có 187 giảng viên gồm 20 tiến sĩ +
105 thạc sĩ + 62 cử nhân, nhưng thực tế chỉ có 18 giảng viên gồm 1
tiến sĩ, 6 thạc sĩ, và 11 cử nhân”. C̣n Trường Đại Học Phú Yên, Đại
Học Phạm Văn Đồng, trong thành phần giảng viên mỗi nơi chỉ có 2 tiến
sĩ, làm sao truyền đạt kiến thức cho sinh viên!
25. Trang báo Điện Tử Express viết: “Dựa trên nguồn tin từ Vụ Giáo
Dục Đại Học, từ năm 1998 đến 2008 đă thành lập được 130 trường cao
đẳng, từ đó số lượng sinh viên tăng gấp đôi nhưng số giảng viên tiến
sĩ lại giảm. Năm học 2007-2008 có 1.200.000 sinh viên đại học và
400.000 sinh viên cao đẳng, tức 188 sinh viên/10.000 dân. Tỷ kệ đó
khá cao nhưng phẩm chất quá kém. Bà Trần Thị Hà, Vụ Trưởng nhận
định: Do không nắm vững quy chế và buông lỏng quản trị mà điển h́nh
là Trường Cao Đẳng Công Nghệ & Quản Trị Doanh Nghiệp, đào tạo và cấp
văn bằng cho sinh viên tốt nghiệp thuộc 5 ngành chưa được Bộ Giáo
Dục & Đào Tạo chấp nhận”.
“Ông Trần Bá Giao, phó thanh tra của Bộ GD&ĐT, hầu hết các trường
mới thành lập đều trong t́nh trạng khó khăn đến mức các cơ sở đều
thuê mướn, cho nên thư viện rất chật hẹp, số đầu sách không đủ cung
jứng nhu cầu cho giảng viên và sinh viên. Điển h́nh là Đại Học Công
Nghiệp Quảng Ninh, Đại Học Kinh Tế Công Nghệ Long An, ..v..v.. chỉ
có khoảng 100 đầu sách. Thậm chí trường Cao Đẳng Viễn Đông chỉ có 7
đầu sách trong thư viện rộng 90m2. Lại có những trường đại học chỉ
có 6 cử nhân dạy 850 sinh viên”.
26. Ngày 31/7/2008, Ban Bí Thư Bộ Chính Trị, cơ quan quyền lực tuyệt
đối đă ban hành Chỉ Thị số 25 về xây dựng đảng trong các cơ quan báo
chí. Tóm tắt như sau: “Làm cho các cấp ủy đảng và đảng viên trong
các cơ quan báo chí, nhận thức sâu sắc về vai tṛ quan trọng của báo
chí là tiếng nói của đảng, nhà nước, của tổ chức chính trị xă hội
đặt dưới sự lănh đạo chỉ đạo trực tiếp của đảng. Phải có kế hoạch
giáo dục rèn luyện phóng viên, biên tập viên,để họ sớm đứng trong
hàng ngũ của đảng... Phải tuyển chọn bố trí cấp ủy, bổ nhiệm lănh
đạo cơ quan báo chí bảo đảm (họ gọi là đảm bảo. PBH) được tiêu chuẩn
và thực hiện đúng quy định số 57-QĐ/TW ngày 3/5/2007 của Bộ Chính
Trị về một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ đảng. Bên cạnh việc
quản lư đảng viên trong chi bộ, cần kết hợp với ư kiến nhận xét đánh
giá về đảng viên của quần chúng trong cơ quan báo chí, của cấp ủy
nơi gia đ́nh cư trú, nơi đến cư trú, hoặc ở cơ sở đào tạo”. (Trích
bài “Diện Mạo Báo Chí VN” của ông Vơ Long Triều, tháng 9/2008)
27. Sau buổi họp ngày 11/9/2008 tại Hà Nội, CSVN yêu cầu Hoa Kỳ trợ
giúp đàp tạo 10.000 tiến sĩ tính đến năm 2020, theo bài viết của Mặc
Lâm phóng viên đài RFA, th́ giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Giám Đốc Điều
Hành Quỹ Học Bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại
Việt Nam, cho biết: “Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một
người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, con số đưa ra (10.000 tiến
sĩ) lớn lao như vậy, sẽ có những khó khăn trước mắt. Theo kinh
nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó t́m được những đối tượng đủ khả
năng để theo học bằng tiến sĩ. Bằng chứng là chúng tôi có một dự án
đào tạo 50 tiến sĩ giữa đại học Liège của Bỉ với đại học Xây Dựng Hà
Nội, nhưng đă 5 năm qua rồi mà chúng tôi chỉ t́m được chưa tới 10
người th́ làm sao t́m đâu ra con số 10.000 người trong 12 năm tới.
Vấn đề là là bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ, mà vấn
đề là phải có những học sinh có đủ tư duy, có đủ tŕnh độ để theo
học, có một đam mê nào đó mới có thể thi bậc tiến sĩ, nhất là bằng
tiến sĩ nghiêm túc như ở Hoa Kỳ, hay ở các đại học Châu Âu. Nói
chung là t́m đối tượng tại Việt Nam theo học tiến sĩ là rất rất
khó”.
Tóm tắt giai đoạn 2002-2008. Văn kiện nói trên là một bằng chứng
chính xác nhất về ngành báo chí nói chung là truyền thông, hoàn toàn
trong quyền lực của Bộ Chính Trị thông qua giáo dục học đường và
giáo dục xă hội, trong khi đó Thủ Tướng đảng CSVN Nguyễn tấn Dũng
tuyên bố tại Luân Đôn (Anh Quốc) rằng: “Luật báo chí Việt Nam cởi mở
mà các nước khác không có”. Ông ta nói đúng, v́ không có quốc gia
văn minh nào cởi mở theo cách quái đản của CSVN cả.
Trong 8 năm gần đây kể từ năm 2001, là thời gian kinh tế Việt Nam có
phát triển trên dưới 7% mỗi năm, nhưng giáo dục và các lănh vực liên
quan rất tồi tệ. Lănh đạo giáo dục chú trọng đến làm ra khẩu hiệu
hơn là làm ra chính sách. Xuyên qua nhận định của những viên chức
hàng lănh đạo giáo dục Việt Nam, cũng như nét nh́n từ viên chức giáo
dục Hoa Kỳ, sự thật đau đớn cho dân tộc là hệ thống giáo dục suy đồi
đến mức lănh đạo CSVN phải nh́n nhận sự thật mà bản chất của đảng
cộng sản vốn dĩ là dối trá che giấu. Hệ quả này dẫn đến t́nh trạng
sau khi chế độ cộng sản độc tài sụp đổ, ít nhất phải hai thế hệ sau
đó mới khôi phục lại được tinh hoa văn hoá Việt Nam. Đây là trách
nhiệm dài lâu của nhóm lănh đạo lâm thời trong thời kỳ chuyển tiếp
từ chế độ độc sang chế độ dân chủ tự do, và sau đó, khi chế độ cộng
sản Việt Nam bị triệt tiêu.
Kết luận.
Lănh đạo CSVN từ năm 1954, áp dụng chính sách giáo dục học đường và
chính sách cai trị xă hội trên căn bản bịt mắt bịt tai bịt miệng kể
cả ngànhgiáo dục và truyền thông, v́ vậy mà người dân chỉ được nghe
những ǵ nhà nước cho nghe, chỉ được thấy những ǵ nhà nước bắt phải
thấy, chỉ được nói những ǵ nhà nước cho phép nói, chẳng khác con
người chỉ có nửa cái đầu, nửa cái miệng, và một lỗ tai. Bởi, bản
chất của cộng sản không phục vụ nguyện vọng người dân, nên phải sử
dụng mỹ từ lẫn thủ đoạn gian trá làm cho người dân lầm tưởng xă hội
chủ nghĩa là ưu việt, và họ sẽ được sống trong thiên đường cộng sản.
Nhưng đến nay đă 54 năm mà người dân vẫn chưa nh́n thấy một xă hội
như lănh đạo của họ đă cho thấy cho nghe, trái lại chỉ thấy một xă
hội suy đồi mà trong đó mọi người đối xử với nhau bằng gian dối,
bằng vật chất, bằng những thủ đoạn lật lọng, trong khi tính cách
trong sáng và t́nh cảm giữa con người với nhau trở thành một thứ ǵ
xa lạ trong xă hội xă hội chủ nghĩa. Tất cả bắt nguồn từ chính sách
giáo dục của CSVN. Ngay cả viên chức giáo dục của Hoa Kỳ cũng nhận
ra t́nh trạng suy đồi và nguồn gốc dẫn đến sự suy đồi đó.
Mặt khác, gần 20 năm qua kể từ đầu thập niên 90, lănh đạo đảng với
lănh đạo nhà nước CSVN không c̣n chỗ dựa vào điều mà họ gọi là lư
tưởng cộng sản khi “thành tŕ vững chắc của chủ nghĩa xă hội” là
Liên Xô, và khối các quốc gia cộng sản Đông Âu sụp đổ, nên họ dựa
vào hệ thống tham nhũng chằng chịt dọc ngang trên dưới phủ trùm toàn
xă hội để tồn tại, tuy họ vẫn tuyên bố là quyết tâm diệt tham nhũng,
nhưng qua hành động trong thực tế đă chứng tỏ họ không thật sự quyết
tâm tận diệt, bởi cấu trúc của chế độ độc tài cho phép họ có quyền
lực vô hạn và tuyệt đối, kể cả quyền tham nhũng. Và chính họ là
thành phần tham nhũng hơn bất cứ thành phần nào khác, chỉ cần những
đảng viên trung ương đảng kê khai tài sản lúc vào chiếm Việt Nam
Cộng Ḥa có thứ ǵ, bao nhiêu, và bây giờ có những thứ ǵ, mỗi thứ
bao nhiêu là nhận ra dễ dàng cho dù có khai gian cách mấy cũng vậy.
Với dự án từ nay đến năm 2020, Hoa Kỳ giúp CSVN đào tạo 2.500 tiến
sĩ tại các trường đại học Hoa Kỳ, mà theo ông Đại Sứ Michalak tại
Việt Nam phát biểu: “Khi có 75% Thứ Trưởng Bộ Trưởng gốc là du học
sinh các trường đại học Hoa Kỳ th́ Việt Nam sẽ dân chủ hóa chế độ”
(?).
Phải chăng đây cũng là một loại “diễn biến ḥa b́nh”? Nhưng diễn
biến này măi đến năm 2020 có thể mới nh́n thấy (12 năm nữa), liệu có
chậm quá không! Bởi v́ ngay trước mắt, người dân trong nước từ nông
dân đến người thành thị, từ người lương đến người giáo, càng ngày
càng bị cường hào ác bá địa phương mà họ gọi là lănh đạo áp bức bóc
lột, điển h́nh là sự kiện hằng trăm ngàn dân kêu oan khiếu nại, sự
kiện các tôn giáo -nhất là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
với Giáo Hội Thiên Chúa- chỉ v́ đ̣i hỏi được tự do hành đạo như đă
ghi trong Hiến Pháp, đ̣i lại chủ quyền các cơ sở tôn giáo để có nơi
thờ phượng và tín đồ có nơi học đạo. Khi người lương cũng như người
giáo bị ức hiếp bóc lột t́m đến các cơ quan thẩm quyền từ tỉnh thành
đến trung ương khiếu nại th́ bị các hung thần Công An đàn áp bắt
giữ. Khi t́nh trạng áp bức bóc lột và đàn áp người dân đến mức độ
nào đó, chính người dân sẽ cùng nhau đứng dậy trong hỗn loạn, đó là
lúc chấm dứt chủ nghĩa cộng sản trên quê hương Việt Nam!
Trừ khi lănh đạo CSVN thật ḷng muốn đất nước phát triển trong một
xă hội dân chủ pháp trị để nhanh chóng hội nhập vào thế giới văn
minh, lộ tŕnh duy nhất để đạt đến đó là phải chuyển đổi chế độ cộng
sản độc tài sang chế độ dân chủ tự do, mà là chuyển đổi thật sự chớ
không như cái kiểu “gắn theo cái đuôi định hướng nào cả. Nhưng với
kinh nghiệm từ năm 1954 đến nay không có người cộng sản Việt Nam tử
tế, nên sẽ không có sự kiện tự họ lột xác để chuyển đổi sang chế độ
dân chủ tự do. Nhớ lại, sau khi đảng cộng sản đưa ông Nguyễn Minh
Triết vào chức Chủ Tịch nước và ông Nguyến Tấn Dũng Thủ Tướng đảng
cộng sản (không do dân bầu), có dư luận cho rằng hai ông này thuộc
nhóm cấp tiến có thể chuyển đổi chế độ. Dưới nét nh́n của tôi, các
nhóm lănh đạo CSVN từ sau khi xâm lăng Việt Nam Cộng Ḥa 30/4/1975
đến nay, chỉ có một thành phần cộng sản cực đoan chớ không có cấp
tiến ǵ cả, chẳng qua là quan điểm cực đoan của họ có khác nhau về
bảo vệ chế độ độc tài và phân chia quyền lực trong mục đích cuối
cùng là quyền lợi riêng tư mà thôi. Bằng chứng trong những năm gần
đây:
Một. Ngày 5/9/2006, Thủ Tướng đảng CSVN tuyên bố hủy bỏ Nghị Định 31
về quản chế hành chánh (bắt giam tùy tiện) làm cho nhiều người trong
Cộng Đồng tị nạn tại hải ngoại lẫn đồng bào trong nước tưởng như họ
có bước tiến về dân chủ pháp trị, nhưng theo luật sư Lê Thị Công
Nhân, hành động đó chẳng qua CSVN đem chôn một cái xác (NĐ 31) đă
chết từ lâu. V́ từ ngày 1/10/2002 CSVN đă ban hành Pháp Lệnh “xử lư
vi phạm hành chánh” chặt chẻ hơn Nghị Định 31 mà họ hủy bỏ. Trên
nguyên tắc, Pháp Lệnh chỉ dưới Hiến Pháp và Luật, tức cao hơn Nghị
Định, mà trong Pháp Lệnh này có đầy đủ những qui định trong NĐ 31.
Chưa hết, tiếp theo Pháp Lệnh năm 2002 xử lư vi phạm hành chánh là
Nghị Định 38/CP ngày 18/3/2005 về cấm tập họp đông người, và Nghị
Định 56/CP ngày 6/6/2006 về kiểm soát văn hóa & thông tin, vừa chặt
chẻ vừa tinh vi trong chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng toàn dân
toàn đảng của họ”. (trích bài viết của luật sư Lê Thị Công Nhân ngày
11/11/2006 tại Hà Nội)”.
Hai. Ngày 27/8/2007 tại Tổng Cục Chính Trị CSVN Hà Nội, ông Nguyễn
Minh Triết, Chủ Tịch nước CHXHCN Việt Nam tuyên bố rằng: “... Tôi
khằng định trước sau như một là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xă
hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói
nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp th́ không có chuyện đó.
Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng
cố công tác tư tưởng, củng cố vai tṛ của đảng”. (trích bản tổng hợp
220 sự kiện về nhân quyền và chính trị tại Việt Nam năm 2007).
Chỉ riêng lời phát biểu ngắn ngủi trên đây của ông Triết, tôi nhận
ra 4 điều: (1) Ông thừa nhận chế độ độc tài của ông không được người
dân ủng hộ, nên ông ra lệnh củng cố quyền lực của đảng để tiếp tục
đàn áp dân trong khi vẫn khẳng định điều gọi là tiến lên chủ nghĩa
xă hội. (2) Bỏ điều 4 trong Hiến Pháp là chế độ độc tài tan ră đến
mức đảng viên trong Bộ Chính Trị phải tự sát, v́ nếu không th́ các
ông cũng không thể yên thân bởi khối dân oan hằng triệu hằng triệu
người mà chế độ các ông đă đẩy họ vào thảm cảnh đó. (3) Chứng tỏ các
đảng viên trung ương đảng CSVN gồm cả Bộ Chính Trị sợ mất quyền lực
quyền lợi chớ không hề nói đến trách nhiệm của cấp lănh đạo với dân
với nước. (4) Ông ta hoàn toàn là một đảng viên cộng sản cực đoan ở
hàng lănh đạo chuyên chính độc tài, chớ không hề cấp tiến như một số
người “đón gió trở cờ” lầm tưởng.
Ba. Theo Công Đoàn Lao Động quốc doanh, trong năm 2007 có đến 541
cuộc đ́nh công với sự tham dự của khoảng 350.000 công nhân mà hầu
hết không có giấy phép của nhà nước nên bị xếp vào loại đ́nh công
bất hợp pháp. Ngày 21/1/2008, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nông Đức
Mạnh tuyên bố tại Quốc Hội CSVN rằng: “Từ khi đảng ra đời đến nay,
đảng luôn luôn là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, và của dân tộc, là đội tiên phong của giai
cấp công nhân …” Ngày 30/1/2008, Thủ Tướng đảng cộng sản Nguyễn Tấn
Dũng kư Nghị Định số 11 và 12, cấm đ́nh công bất hợp pháp, đồng thời
giao ṭa án xét xử buộc công nhân phải bồi thường thiệt hại cho chủ
trong các cuộc đ́nh công đó. Ngày 16 & 17/6/2008, hội nghị “Đoàn Chủ
Tịch Liên Đoàn Lao Động CSVN” họp tại Hà Nội, ông Mai Đức Chính, Phó
Chủ Tịch tổ chức này cho biết, từ đầu năm 2008 đến nay (tháng
6/2008) đă có 330 cuộc đ́nh công, và các cuộc đ́nh công này đề bất
hợp pháp”.
Lănh đạo CSVN thường tuyên bố đảng cộng sản của họ là đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân lao động, nhưng
việc làm trong thực tế chẳng những họ thẳng tay đàn áp công nhân mà
c̣n đưa công nhân ra ṭa bắt bồi thường thiệt hại cho giai cấp chủ
nhân. Với văn kiện pháp lư trên đây, ai cũng hiểu rằng chính sách
của lănh đạo CSVN nhắm bảo vệ quyền lợi giới chủ nhân, cũng là bảo
vệ quyền lợi riêng tư của họ bằng cách đàn áp giới công nhân. Độc
tài với gian dối” là hai vế trong bản chất của cộng sản. Đă độc tài
phải vừa gian vừa dối để che giấu dưới những ngôn từ trống rỗng theo
từng hoàn cảnh, từng sự kiện, từng con người, từ năm 1945. Nh́n lại
hơn nửa thế kỷ cai trị, lănh đạo cộng sản Việt Nam đă gây ra vô vàn
tộc ác với quê hương dân tộc, mà chính sách giáo dục thần dân là tội
ác kinh hoàng nhất trong lịch sử. Bởi chính sách này đă tạo nên
những thế hệ chỉ biết tuân phục đảng với nhà nước, cùng lúc sử dụng
lực lượng Công An chẳng khác những hung thần làm cho mọi người phải
sống trong sợ hăi để tuân phục. Óc sáng tạo của những thế hệ Việt
Nam bị nền giáo dục một chiều của CSVN bóp nghẹt đến mức xơ cứng gần
như mất hết tác dụng. Những ai vượt lên trên nền giáo dục độc ác đó
để mở đường cho xă hội vào cuộc sống với tất cả ư nghĩa của con
người, lập tức bị lănh đạo CSVN kềm kẹp đọa đày bằng vũ khí trong
tay hung thần Công An và ác quỷ trong những phiên ṭa. Rồi đây, khi
chế độ cộng sản Việt Nam bị triệt tiêu, ít nhất phải 20 - 30 năm
sau, xă hội mới khôi phục lại được nếp sống tinh hoa văn hoá dân tộc
kết hợp hài ḥa với nền khoa học kỹ thuật tân tiên của thế giới trên
hành tŕnh phát triển.
V́ vậy:
Với nạn nhân cộng sản Việt Nam nói riêng, cho dẫu chúng ta có muốn
quên cũng không thể nào quên: (1) Cuộc đấu tố tàn bạo trong cải cách
ruộng đất trên đất Bắc từ năm 1954 đến 1956 đă giết từ 120.000 đến
200.000 người vô tội. (2) Cuộc tổng công kích đầu năm 1968 nhân Tết
Mậu Thân với cảnh CSVN thảm sát hơn 5.000 người dân xứ Huế! (3) Cuộc
chiến Mùa Hè 1972 với hằng ngàn đồng bào chạy nạn cộng sản đă chết
thảm thương trên đường Quảng Trị-Huế do súng đạn của cộng sản! (4)
Ngày 30/4/1975 và sau đó, đă quẳng hằng chục ngàn thương phế binh ra
khỏi các quân y viện, đă đẩy ít nhất là 222.809 quân nhân viên chức
cán bộ Việt Nam Cộng Ḥa vào giam giữ trong hơn 200 trại tập trung
bằng lệnh hành chánh, đă đánh quỵ toàn bộ xă hội miền Nam xuống
ngang bằng xă hội nghèo nàn trên đất Bắc, rồi đẩy hằng trăm ngàn gia
đ́nh quân nhân viến chức cán bộ cùng gia đ́nh các công thương kỹ
nghệ đến những nơi hoang vắng mà họ gọi là các khu kinh tế mới để
chiếm đoạt tài sản! (5) Thảm cảnh nửa triệu người mất xác trong rừng
sâu trên biển cả trên đường chạy trốn cộng sản t́m đến các quốc gia
tự do! (6) Ngang qua nghị quyết 36, bàn tay cộng sản độc tài vói ra
hải ngoại “vừa moi tài chánh moi kỹ thuật vừa đánh phá” Cộng Đồng
3.000.000 người tị nạn cộng sản! (7) Trong vô vàn tội ác, sử dụng
chính sách giáo dục học đường với giáo dục xă hội phục vụ chế độ độc
tài là tội ác kinh hoàng nhất của lănh đạo CSVN, v́ đă và đang làm
băng hoại xă hội Việt Nam!
Với nạn nhân cộng sản thế giới nói chung, Tượng Đài Nạn Nhân Cộng
Sản Thế Giới khánh thành ngày 12/6/2007 tại Washington DC do Tổng
Thống Hoa Kỳ chủ tọa, là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ
20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói
riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản -có cả
nạn nhân của cộng sản độc tài Việt Nam- được những thế hệ hôm qua,
hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt
chế độ này đến tận cùng gốc rễ, v́ “chế độ cộng sản độc tài là tàn
bạo và phi nhân”. Ḍng chữ ngắn ngủi này là lời lên án mạnh mẽ trong
bài phát biểu của Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush.
Từ đó, tôi tin chắc rằng, chế độ cộng sản độc tài Việt Nam nhất
thiết sẽ phải sụp đổ, và sụp đổ do bạo loạn mà ṇng cốt là đồng bào
bị áp bức và những cá nhân cùng những tổ chức đấu tranh dân chủ
trong nước, với hỗ trợ mạnh mẽ của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng
sản tại hải ngoại, và một số quốc gia luôn cổ vơ dân chủ hóa các dân
tộc bị áp bức bởi chủ nghĩa cộng sản. Chỉ khi nào chế độ cộng sản bị
triệt tiêu, con người và các ngành sinh hoạt quốc gia mới có môi
trường phát triển toàn diện trong một xă hội dân chủ pháp trị, mọi
người được sống và làm việc theo nguyện vọng của ḿnh.
Tôi tin tưởng mănh liệt vào một nước Việt Nam ngày mai sẽ đạt đến
nền giáo dục phục vụ nguyện vọng người dân, dẫn đến một dân tộc văn
minh, một quốc gia phát triển theo h́nh tượng chiếc phản lực cơ
thương mại cất cánh từ đường băng vươn ḿnh lến bầu trời xanh rộng
mở./.
Houston, ngày 28 tháng 9 năm 2008
Phạm Bá Hoa
Tản mạn cuối năm
H́nh ảnh
đáng ghi nhớ trong năm
Miệng kẻ sang
có gang có thép
Hiến dâng máu !
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông
Hành
Thất bại hay
thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ
Phu
Trái khoáy cuộc đời
Một chế độ hèn hạ
Chữ với nghĩa
Cơm với cá…
Tuyên bố đầy
tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người
không?
Cả tin hay nghi ngờ
Ca sĩ hải
ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ
trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một
chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống
Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người
Trách niệm về đâu
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?
Gần 2
triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?
Văn hóa "Giả Vờ"
Tổng Thống Donald
J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân
chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn
Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng
chấm hết !
Dốt như
chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ
được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói
dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán
chó
Hai cái băy
nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30
Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn
nữa?
V́ sao
Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn
Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự
thật cần phải biết về VNCH
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong!
Thăm dân cho
biết sự t́nh
Cái giá của Tự Do
Con chuột và cái b́nh
Đàn ḅ vào thành phố
Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không
Thôi
rồi...
Chuyện biển đông
Quả đại pháo cuối
cùng
Biển Đông dậy sống
Vụ HD 981: Việt Nam
xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời
một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân
Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc
muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt
cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng
Một âm mưu thâm độc của Việt
Cộng
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?
Việt cộng hóa
Kinh nghiệm
tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật
cần phải biết
Giọt nước
mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn
Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp
đổ
Tổ Quốc Việt Nam
- C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt
chính tả
Đứng chàng hảng
Thời sinh viên ở Sài G̣n
Hăy nói trước ngày
chết
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của
tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS -
Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn
và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí
quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản
VN
Phản hồi về bài
báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán
nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời
Sông Núi!
Nhân ngày Quân Lực 19
tháng 6...
Hai câu chuyện
phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho
đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín
nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri"
và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của
Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện
không đơn giăn
Triệu
con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra
đặc quyền
Những viên Đạn Hợp
Âm
Đảng là tên
đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy
hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền
trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của
cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền
trong rừng luật
Những người "vọng
quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để
giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới
tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị
Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu
tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối
của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và
nay
Lại viết về
nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học
30 tháng 4
36
năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận
tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi
bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để
thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ
VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện
và bệnh Mù Loà
Triển vọng
chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở
Đâu?
Lộn xộn tiếng
Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n
nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai
Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con
chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn
Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con
người
Chuyến xe buưt và khúc
hát người lính mù
Vài suy nghĩ về biểu t́nh
chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không
tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại
đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền
Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi
những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu
tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở
thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân
chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt
tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại
nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con
cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà
không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng
của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da
cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ
lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă
hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến
chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của
csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh
đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc
gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10
điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản
phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại
thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh
chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay
đă quên
Cảnh giác âm mưu
"tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư
đen"
Tổng phản công nghị
quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc
nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của
người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và
niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một
truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...