hoànglonghải
Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa chữ “hóa” như sau: “Thay
đổi một cách tự nhiên – Vật thay đổi h́nh thể hoặc tính chất”- Thật
ra, không phải chỉ có vật mới “hóa”. Ngay cả con người cũng “hóa”.
Xưa nay vẫn thế.
Thay đổi là do ngoại cảnh. Câu chuyện Án Anh, tể tướng nước Tề, thời
Xuân Thu, đi sứ nước Sở, thuật lại như sau:
“Sở Vương đang tiếp Án Anh th́ lính dắt một người tù đi ngang qua.
Sở vương hỏi người kia là người nước nào. Một tên lính tâu rằng
người tù nguyên là người nước Tề, phạm tội trộm ngựa. Sở Vương hỏi
Án Anh: “Người nước Tề hay trộm cắp vậy sao?”
Án Anh đáp: “Cây quít trồng ở Giang Bắc th́ ngọt, nhưng khi đem
trồng ở phương Nam th́ chua. Đó là do phong thổ. Người nước Tề xưa
nay vốn không trộm cắp, khi sang làm dân nước Sở lại sanh tật xấu.
Ấy là do phong thổ vậy”.”
Chuyện “Cá hóa rồng” cũng kể rằng: Trời cần có rồng để làm mưa nên
mở cuộc thi cho tôm cá vượt Vũ Môn: Tôm nhảy qua được hai đợt, râu
mọc gần hóa rồng, đến đợt ba, té nặng nên bị c̣ng lưng. Cá chép vượt
được cả ba kỳ Vũ Môn nên hóa rồng. Nó không c̣n h́nh dạng con cá nữa
mà thành h́nh rồng.
Có người nói đùa: Người Bắc di cư năm 1954, giống như “cam Bố Hạ”.
Vào Nam sinh sống, “đất lành chim đậu” nên hóa thành “bưởi Biên
Ḥa.”
“Hóa” có hai cách: Chỉ “hóa” cái bên ngoài, c̣n cái bên trong, – bản
chất – th́ không đổi. Con người “tệ” hơn, có khi “hóa”cả trong lẫn
ngoài. Điều đó cũng là sự thường.
Tần Thủy Hoàng, sau khi “tóm thậu lục quốc” mà dựng nên nhà Tần, là
“đế quốc đầu tiên” của người Hán, th́ bành trướng ra phía Đông, lại
xâm lăng vùng Giang Hạ, – Giang Hạ thường có nghĩa đất của Tôn
Quyền, phía Nam Dương Tử Giang – người Hán đồng hóa 99 Việt tộc ở
vùng nầy.
99 Việt Tộc, vốn không phải là người Hán, nhưng họ bị “Hán hóa” v́
sống dưới chính sách cai trị “đồng hóa” của người Hán. Chỉ có “Lạc
Việt”, định cư ở lưu vực sông Nhị Hà, giữ được bản chất của dân tộc
ḿnh, không bị “Hán hóa”, dù bị người Tàu cai trị một ngàn năm. Sử
gọi là “ngàn năm Bắc thuộc.”
Khi bị “Hán hóa”, 99 giống Việt đánh mất cái bản chất của dân tộc
ḿnh.
Năm 1905, để vận động “Phong Trào Đông Du”, cụ Phan Bội Châu sang
Nhật, gặp Thủ Tướng Nhật là Khuyển Dưỡng Nghị. Sau cuộc “bút đàm”,
Khuyển Dưỡng Nghị có ư thán phục cụ Phan. Sau đó, gặp Tôn Văn, “Quốc
phụ” của người Tàu, Nghị hỏi thăm xem thử người Việt Nam là dân tộc
như thế nào. Tôn bảo rằng, người Việt là một dân tộc hèn yếu, không
đáng được giúp. Nghe vậy, Khuyển Dưỡng Nghị hỏi lại, bảo rằng họ là
người Lạc Việt, là dân tộc độc nhất không bị “Hán hóa” trong số 100
tộc Việt (bách Việt) ở Hoa Nam. Tổ tiên của Tôn Văn chính là một
giống Việt đă bị “Hán hóa”. Thật là “tẻn ṭ” cho ông “Quốc phụ” của
nước Tàu.
Người Tàu thường tự coi ḿnh cao hơn các dân tộc chung quanh, như
người Việt. Họ gọi dân tộc ta là “ Nam man”, gọi các bộ tộc ở phương
Bắc nước họ là “Rợ” – Rợ Hồ”. Người Măn Châu, không phải là người
Hán, cũng bị coi khinh. Tuy nhiên, có ba đời vua bên Tàu, gốc gác là
từ những thứ “rợ” mà ra.
Tổ tiên nhà Đường là “rợ Hồ”. Nhà Đường cai trị nước Tàu ba trăm
năm. Câu trong Chinh Phụ Ngâm: “Nước thanh b́nh ba trăm năm cũ” là
từ cái ư nầy. V́ gốc là rợ Hồ nên An-Lộc-Sơn được trọng dụng. Từ đó
mà có cái loạn An-Lộc-Sơn. Nhà Nguyên, tức Mông Cổ cũng cai trị nước
Tàu một trăm năm. Nhà Thanh, người Măn Châu, cai trị nước Tàu ba
trăm năm. Người Hồ, người Mông, người Thanh thường bị gọi là “ngoại
tộc”.
Sơ lược một chút, ba ngoại tộc nầy cai trị người Hán (nước Tàu)
khoảng gần một ngàn năm. Đế quốc Tần Thủy Hoàng h́nh thành năm 221
trước Công Nguyên, tính đến nay mới hơn hai ngàn năm mà ba ngoại tộc
(1) đă “ngốn” hết gần ngàn năm, chưa kể các thời kỳ loạn lạc. Vậy
th́ người Tàu có vẻ vang ǵ không?
Tuy nhiên, khi nhà Thanh cai trị nước Tàu th́ họ bị “Hán hóa”, có
nghĩa là cách ăn mặc, nói năng, tác phong, v.v… cái ǵ cũng muốn cho
giống như người Hán, y như người Hán, ngoại trừ cái “đuôi chuột”
trên đầu tóc họ.
Mỹ hóa
Không riêng ǵ người Việt hải ngoại mà cả người Việt trong nước,
cũng như nhiều người khác ở các nước trên thế giới đang bị “Mỹ hóa”.
Dĩ nhiên, việc “Mỹ hóa” trước hết là ở trong cách ăn mặc: Quần jean,
áo da, mũ cao bồi, cũng như trong cách ăn nói, thói quen, tiêu
khiển, văn chương, âm nhạc… Ở nước ta ngày trước – ngày trước chứ
không phải bây giờ – khi có khách đến nhà, hỏi đứa bé “Bố mẹ đâu?”
Đứa bé ṿng tay lễ phép: “Cháu không rơ!” Bây giờ trẻ em Việt Nam ở
Mỹ, có em không trả lời như thế. Có thể nó nhướng mắt nh́n khách,
nhún vai, lắc đầu, trả lời rất Mỹ: “I don’t know!”
Saigon-hóa
Sau khi chiếm miền Nam, nhiều “chú bộ đội” chưa quen với văn hóa
miền Nam, gọi cách pha cà-phê bằng “Cái nồi ngồi cái cốc”, hay “Một
ly sữa Honda”. Chỉ một thời gian ngắn sau, các “chú bộ đội”, “cán
bộ”, “đảng viên” bị “Saigon-hóa” rất nhanh: Cũng quần jean, giày
Adidas, quên mất “cái khăn rằn”, đôi “giép râu”, mũ “tai bèo”.
T́nh h́nh người Bắc vào Nam không khác chi người Thanh vào Bắc Kinh.
Ngoài cái “Saigon-hóa” bề ngoài, họ c̣n “Saigon-hóa” cả bên trong
tâm hồn họ. “Lư tưởng Cộng Sản”, nếu có th́ cũng đă bị họ “đánh rơi”
mất rồi, chẳng ai thèm t́m lại. “Chủ Nghĩa Thực Dụng” làm cho “Chủ
Nghĩa Cộng Sản” bị đại bại, biến “cán bộ Cộng Sản” thành “tiểu tư
sản”, “tư sản” cả. Chẳng ai c̣n thấy “Người Cộng Sản” ở đâu. “Chủ
Nghĩa Cộng Sản”, “Chế Độ Cộng Sản” bây giờ chỉ c̣n là phương tiện
bảo vệ tài sản của họ. Khi cái tác dụng bảo vệ đó không c̣n, chính
“cán bộ Cộng Sản” sợ Cộng Sản” hơn ai hết.
Ngược lại, miền Nam cũng không phải là không có người bị “Cộng Sản
hóa”. Rơ ràng nhất là trong “ngôn ngữ”, cái mà nhiều người gọi là
“từ Việt Cộng” hay “từ Cộng Sản”. Đại khái th́ có “đảm bảo”, “bức
xúc”, “cự ly”, v.v…
“Chế Độ Phong Kiến”
Ngày nay, trong cũng như ở hải ngoại, hễ nói tới chế độ quân chủ
nước ta ngày trước th́ hay dùng hai chữ “Phong kiến”. Ấy là cách
Việt Cộng nói theo Tàu Cộng.
Nói như thế, so với lịch sử nước ta là sai.
Bên Tầu mới có “chế độ phong kiến”, ngày xưa cũng như bây giờ. Lịch
sử Tây phương cũng có một “thời kỳ phong kiến”. Ai coi tuồng “Roméo
– Juliette” th́ biết. Ấy là mối t́nh ngang trái giữa các con của hai
lănh chúa thù địch nhau. Nước ta không có “chế độ phong kiến” như
thế.
“Phong kiến” là nói tắt mấy chữ “Phong tước, kiến địa”. Một vị vua
“ở trung ương”,phong cho các “lănh chúa” mỗi ngựi một vùng đất, mỗi
người một tước hiệu (công, hầu, bá tử, nam). Mỗi lănh chúa tự cai
trị lănh thổ của ḿnh, lập quân đội riêng, thu thuế (thường là đất
đai, ruộng rẫy). Người dân trong lănh địa biết tới lănh chúa, có
nhiệm vụ với lănh chúa nhiều hơn với vua.
Tổ chức xă hội phong kiến, Tầu hay Tây cũng gần giống nhau.
Trong lịch sử nước ta, chưa bao giờ có chế độ “Phong tước, kiến địa”
như thế, ngoại trừ một ḿnh Trần Quốc Tuấn. V́ ông là Đại Công Thần,
sau khi chết được phong tước vương: “Hưng Đạo Đại Vương. Khi c̣n
sống, ông được phong lănh thổ, tức vùng Thái Hà Ấp ngày nay, và được
có quân đội riêng. Hịch tướng sĩ của ông, là nhắm vào tướng sĩ của
ông.
Chế độ nước ta ngày xưa là “Chế Độ Quân Chủ”, tức là “Vua làm chủ”,
không phải “lănh chúa làm chủ”. Lănh thổ chia thành “Tỉnh”, có khi
gọi là “thừa tuyên”, cũng có khi gọi là “trấn”, v.v… chưa bao giờ là
“lănh địa” của “lănh chúa” như bên Tàu.
Tàu? Chệt, Ngô, Chú Ba?
Trong suốt hai tập “Việt Nam Sử Lược”, cụ Trần Trọng Kim chỉ dùng có
một chữ “Tàu” để nói về “người Tàu”, “nước Tàu”.
Người Tàu đến nước ta, đến buôn bán hay định cư bằng “tàu” (hay
“tầu”, giọng Bắc) nên người Việt gọi họ là “Người Tầu”. Đơn giản chỉ
có vậy. Bọn cướp biển Tầu th́ gọi là “giặc Tầu Ô”. Ô là con quạ đen,
v́ tàu cướp biển của Tàu thường giương cờ đen. Lính Lư Hán qua Việt
Nam năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng th́ người Việt ta gọi là “Tàu
phù” v́ anh nào cũng bị phù thủng, thiếu ăn, thiếu thuốc.
Có khi người ta gọi người bằng Tầu là “Chệt”. Trong Nam th́ gọi là
“Chiệc”. Trong văn chương cũng gọi là “Chiệc”. Trần Tế Xương viết
như sau:
Ba mươi thết, tết lại ba mươi
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú khách
Một tay cầm cái dù rách
Một tay xách cái chăn bông
Em đứng bờ sông
Em trông sang nước người:
“Hỡi chú chiệc ơi là chú chiệc ơi”
Một tay em cầm quan tiền,
Một tay em xách thằng bù nh́n
Quan tiền nặng th́ quan tiền ch́m
Bù nh́n nhẹ th́ bù nh́n nổi,
Ới ai ơi, của nặng hơn người …
Chỉ mấy câu thơ mà Trần Tế Xương gọi người Tàu bằng nhiều cái tên
khác nhau: Khi th́ “Thằng Ngô”, khi th́ “chú Khách”, khi th́ “Chú
Chiệc”. Ngô là người Tầu phía Nam sông Trường Giang, “Tam Quốc” gọi
là “Đông Ngô”. Gọi là “khách” là v́ họ từ ngoại quốc đến, người Việt
là chủ. Tôi không rơ tại sao gọi là “Chệt” hay “Chiệc”. Dân Saigon
gọi người Tàu là “Chú Ba”, gọi người Ấn là “Chú Bảy” (hoặc “Bảy
Chà”). “Ba Tàu” c̣n có thêm cái đuôi là “Ba Tầu Chợ Lớn”, “Ba Tàu
HồngKông”, “Ba Tàu Đài loan”, v.v…
V́ người Tầu xâm lăng nước ta nên dân ta gọi họ là “Giặc Tàu”. Trong
bài “Gia Tài Của Mẹ”, Trịnh Công Sơn viết là “Một ngàn năm đô hộ
giặc Tàu.” Sau 1975, Trịnh Công Sơn “giấu biệt” bài nầy v́ nhiều lư
do, trong đó cũng v́ hai tiếng “Giặc Tàu”. Việt Cộng rất “kính cẩn”
Tàu nên không cho dân chúng dùng hai tiếng “giặc Tàu”. Cấm tiệt!
Vậy mà bây giờ “đám trẻ” đấu tranh trong nước, “cả gan gọi, viết,
hát “giặc Tầu”. Việt Khang viết “Mà giặc Tầu ngang tàng trên quê
hương ta”. Phương Uyên th́ mang tấm bảng “to tổ bố” có hai chữ “Tàu
khựa” mà đi biểu t́nh.
Dĩ nhiên là mấy “chú Ba ở Bắc Kinh” phán với đám Việt Cộng ở Hà Nội
rằng “Cái lày là không được dzồi! Các lị phải bỏ tù chúng ló.”
Khựa là cái ǵ? Có phải “khựa” cũng giống như “bựa”?
“Bựa” là cái chất dơ, c̣n dính trong miệng người ta. Ăn xong, người
Việt hay xỉa rang, là xỉa cái “bựa” trong răng. Bựa nầy có khi rất
hôi thối nếu nó dính trong miệng lâu ngày. Súc miệng là súc cái chất
bựa nầy ra mà nhổ đi.
Có lẽ “khựa” cũng na ná như thế. Đó là thứ hội hám, dơ dáy, tham
lam, nhỏ nhen, bần tiện, ích kỷ, lằng nhằng, phá đám…. Khựa là bao
gồm tất cả những ǵ xấu xa của người ta, mà người Tàu “ôm” về cho họ
hết!
Tất cả những cái tên gọi đó, chẳng có cái tên nào được coi là không
có cái ư coi thường người Tàu.
Trên mặt giấy tờ, trước 1975, về quan hệ ngoại giao th́ chính quyền
Việt Nam Cộng Ḥa gọi là Trung Hoa, rơ hơn th́ gọi là “Trung Hoa
Quốc Gia”, tức “Tàu Đài-Loan” của Tưởng. Ṭa đại sứ Trung Hoa Quốc
Gia ở trên đường Hai Bà Trưng”. Dân Saigon nghe cái tên dài ḍng quá
nên gọi tắt là “Ṭa đại sứ Tầu” cho nó gọn.
Tại sao người Việt có ư coi thường người Tàu như thế?
Một là v́ truyền thống. Việc người Tầu đô hộ người Việt một ngàn
năm, xâm lăng nước ta mấy lần, đời nhà Lư, đời Trần, đời Lê, đời Tây
Sơn, không dễ làm cho người Việt quên đi cái hận cũ.
Thứ hai là tại v́ việc người Tàu định cư ở nước ta.
Khi mới đến, người Tàu không xa kẻ “khố rách áo ôm” bao nhiêu. Họ
làm đủ nghề để sinh nhai. Thuở hàn vi th́ buôn ve chai, mua bán đồ
cũ. Ở miền Tây th́ họ làm ruộng. Nhờ cần cù chăm chỉ làm ăn, buôn
bán, đầu cơ tích trữ, buôn gian bán lận, cho vay cắt cổ, chẳng bao
lâu họ giàu có, nắm lấy việc buôn bán, thao túng thị trường.
Giàu đă bị người ta ghét rồi, huống chi giàu bằng những nghề chợ
đen, chợ đỏ, bất nhân như thế.
Từ giàu có, họ có thế lực với kẻ cầm quyền. Thời Quân chủ, thời Tây
c̣n đô hộ, họ “vào ra” nhà Tây, nhà quan rất dễ, đầy đủ “lễ nghĩa
Xuân Thu nhị kỳ”. Thời Cộng Ḥa, khi bị đảo chánh, ông Diệm, ông Nhu
chạy trốn vào nhà Ba Tầu Mă Tuyên là ư làm sao? Lư Long Thân vô ra
dinh Độc Lập “dễ như đi chợ” là ư làm sao?
Họ đi với giai cấp thống trị. Người dân bị trị “thương” họ sao được?
V́ vậy, khi tướng Kỳ bắn Tạ Vinh “hạm gạo” ở bùng binh chợ Bến
Thành, có lẽ không ít người “hoan hô”.
Ngược lại, người Tàu có “tôn trọng” dân Việt ta hay sao?
Măi đến khi người Tây phương phổ biến khoa học, thiên văn sang Tầu,
người Tầu mới biết rằng quả đất tṛn, gọi là “thuyết địa cầu”. Trước
đó, cũng như trong kinh thánh đạo Thiên Chúa La Mă, người Tầu tin
rằng đất vuông, theo thuyết “Địa tâm”.
Đất vuông th́ người Tàu, tức Hán tộc ở giữa, văn minh, giỏi giang.
Chung quanh là các giống dân mọi rợ, Tàu gọi là “man, di, nhung,
địch”.
Họ gọi nước Việt ta là “Nam man”.
Sử chép:
“Năm 1637, Giang Văn Minh cùng với hơn 50 người nhận lệnh vua đi sứ
sang “Trung Quốc”. Họ đến kinh đô nhà Minh vào một buổi chiều tà.
Sau mấy ngày nghỉ ngơi, Giang Văn Minh vội vào yết kiến vua Minh.
Ông ung dung bước vào sân rồng dơng dạc tâu-rằng:
- Muôn tâu bệ hạ! Thần sứ giả Nam bang xin bái kiến.
Vua Minh thấy dáng điệu uy nghi và có vẻ ngạo mạn của ông,
liền quát lớn:
- Ngươi là sứ giả man di, vào sân rồng của ta chưa đúng lễ.
- Thưa bệ hạ, thần là sứ giả Nam bang, một nước có nền văn hiến đă
lâu, chứ đâu có phải sứ giả man…
(Trích lại của “Đặc Trưng”.
Đi sứ không làm nhục mệnh nước).
Dưới cái đất vuông ấy là “Thiên hạ” (dưới trời), vua Tàu là vua
thiên hạ, cai quản hết mọi nước. Nước Tầu ở giữa th́ gọi là “Chung
Côốc” tức là Trung Quốc (nước ở giữa). Các nước chung quanh như Cao
Ly, Nhật Bản, Măn Thanh, Tân Cương, Tây Tạng, Việt Nam là phiên ly
(rào, dậu) của Tầu, canh giữ cho nước Tàu b́nh an ở giữa.
Tại những nước chung quanh Tầu, ai lên làm vua phải qua triều cống
cho Tầu và “xin phong”. Vua Tầu có phong cho mới được gọi là vua. Có
khi vua Tầu muốn làm khó, đ̣i thêm của triều cống, thêm “hối lộ” mới
phong vương: An Nam Quốc Vương. Không ưa th́ chỉ phong “tiết độ sứ”,
tức là mới chỉ là “sứ” của vua Tàu, thay vua Tàu cai trị mà thôi!
Cách gọi như thế là người Tầu rất ngạo mạn!
Triều cống hay xin phong chỉ là một h́nh thức ngoại giao vào thời kỳ
ấy, c̣n như người Tàu xâm lăng th́ người Việt Nam đem quân đánh lại.
Đánh theo cách của vua Quang Trung th́:
“Đánh cho để dài tóc
“Đánh cho để đen răng
“Đánh cho nói chích luân bất phản
“Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
“Đánh cho sử tri Nam Quốc Anh Hùng chi hữu chủ”
Người Việt Nam có niềm tự hào về Dân tộc, Tổ tiên của họ, về lịch sử
chống Tàu vẻ vang của họ, nên không mấy khi họ gọi Tàu là “Trung
Quốc”.
Gọi Tàu là Trung quốc tức là chấp nhận nước ta là “phiên ly” của
Tàu. Dân tộc ta ngồi ngoài canh gác, để các các Chú Ba nằm ở trong
mà hưởng tứ khoái hay sao???!!!
Tự ái Dân tộc không cho phép ta có cách gọi như thế!
Năm 1945, khi Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về Hà Nội “cướp chính quyền”,
y ra lệnh cho đám cán bộ của y từ nay không được gọi là nước Tàu,
dân Tàu là Tàu mà phải gọi là Trung Quốc.
Để làm chi?
Để tỏ ḷng tôn kính nước Tàu, người Tàu!
Ấy là khác, là đi ngược lại với tâm t́nh người Việt. Thậm chí, sách
sử xưa gọi “Người Tàu xâm lược” th́ Việt Cộng, các sử gia Việt Cộng,
sách giáo khoa Việt Cộng không dám gọi là người Tàu, nước Tàu, sợ
“phạm húy” mà gọi trệch là “Bọn phong kiến phương Bắc”. “Phong kiến
phương Bắc” không phải là Tầu hay sao? Gọi như thế không thấy ḿnh
là hèn hay sao?
Bây giờ th́ “bọn trẻ” trong nước, như Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha
mới 20 tuổi, cả gan gọi Tàu là “Tàu khựa”.
Trong khi người Việt tỵ nạn hải ngoại “kính cẩn” gọi Tầu là “Trung
Quốc”.
Độc giả cứ mở ra mà xem, mà nghe, bất cứ một đài Truyền h́nh Việt
Nam nào, bất cứ một đài phát thanh nào ở hải ngoại, đều gọi nước
Tàu, người Tàu là Trung Quốc.
Những người ở trong nước chống Tàu Cộng và Việt Cộng sẽ nghĩ ǵ khi
họ gọi Tàu là “Tàu khựa”, c̣n người Việt hải ngoại gọi là “Trung
Quốc”. Họ có thấy “cô đơn” khi nh́n ra người Việt ở ngoài nầy?!
“Người ta” thiếu cái khăn xếp, cái áo dài, ṿng tay, đứng bên cạnh
Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, hân hoan đón
mừng Tập Cận B́nh, Lư Khắc Cường hay sao?
Họ chống Việt Cộng và Tàu Cộng bằng cách nào vậy hà?
hoànglonghải
(1) Nhà Đường (618-907), Nhà Nguyên (1271-1368), Nhà Thanh
(1644-1912)
Tản mạn cuối năm
H́nh ảnh
đáng ghi nhớ trong năm
Miệng kẻ sang
có gang có thép
Hiến dâng máu !
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông
Hành
Thất bại hay
thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ
Phu
Trái khoáy cuộc đời
Một chế độ hèn hạ
Chữ với nghĩa
Cơm với cá…
Tuyên bố đầy
tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người
không?
Cả tin hay nghi ngờ
Ca sĩ hải
ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ
trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một
chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống
Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người
Trách niệm về đâu
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?
Gần 2
triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?
Văn hóa "Giả Vờ"
Tổng Thống Donald
J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân
chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn
Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng
chấm hết !
Dốt như
chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ
được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói
dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán
chó
Hai cái băy
nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30
Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn
nữa?
V́ sao
Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn
Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự
thật cần phải biết về VNCH
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong!
Thăm dân cho
biết sự t́nh
Cái giá của Tự Do
Con chuột và cái b́nh
Đàn ḅ vào thành phố
Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không
Thôi
rồi...
Chuyện biển đông
Quả đại pháo cuối
cùng
Biển Đông dậy sống
Vụ HD 981: Việt Nam
xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời
một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân
Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc
muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt
cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng
Một âm mưu thâm độc của Việt
Cộng
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?
Việt cộng hóa
Kinh nghiệm
tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật
cần phải biết
Giọt nước
mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn
Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp
đổ
Tổ Quốc Việt Nam
- C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt
chính tả
Đứng chàng hảng
Thời sinh viên ở Sài G̣n
Hăy nói trước ngày
chết
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của
tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS -
Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn
và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí
quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản
VN
Phản hồi về bài
báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán
nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời
Sông Núi!
Nhân ngày Quân Lực 19
tháng 6...
Hai câu chuyện
phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho
đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín
nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri"
và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của
Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện
không đơn giăn
Triệu
con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra
đặc quyền
Những viên Đạn Hợp
Âm
Đảng là tên
đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy
hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền
trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của
cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền
trong rừng luật
Những người "vọng
quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để
giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới
tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị
Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu
tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối
của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và
nay
Lại viết về
nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học
30 tháng 4
36
năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận
tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi
bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để
thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ
VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện
và bệnh Mù Loà
Triển vọng
chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở
Đâu?
Lộn xộn tiếng
Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n
nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai
Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con
chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn
Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con
người
Chuyến xe buưt và khúc
hát người lính mù
Vài suy nghĩ về biểu t́nh
chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không
tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại
đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền
Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi
những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu
tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở
thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân
chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt
tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại
nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con
cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà
không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng
của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da
cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ
lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă
hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến
chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của
csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh
đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc
gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10
điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản
phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại
thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh
chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay
đă quên
Cảnh giác âm mưu
"tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư
đen"
Tổng phản công nghị
quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc
nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của
người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và
niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một
truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...