Những sự thật cần phải biết (2) - Việt Nam Cộng Ḥa - Nạn nhân của chính sách “Ngậm máu phun người”
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
Thưa các bạn, là một người trẻ tuổi, chưa một lần
được biết đến ngôi trường của Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH), cũng chưa
từng được sống dưới chế độ tự do non trẻ đó, tuy nhiên qua nhiều
sách báo, tài liệu và nhân chứng sống, cộng với những suy nghĩ của
ḿnh, tôi nhận thấy một điều đó là một chế độ, một nhà nước khác hẳn
với những lời tuyên truyền của cộng sản.
Có một câu hỏi làm tôi day dứt gần 10 năm trời khiến tôi phải tự
ḿnh đi t́m câu trả lời cho nó đó là: “Tại sao một chế độ thối
nát, được quy chụp là Ngụy quân, ngụy quyền lại được người dân
thương nhớ, tiếc nuối?”. Và cuối cùng tôi cũng t́m ra câu trả
lời cho câu hỏi đó trong bài này đó là “Việt Nam Cộng Ḥa chỉ là
nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản
Việt Nam”. V́ sao tôi nói vậy? V́ không có một chế độ xấu xa nào
mà hàng triệu công dân của nó ở Hải ngoại lẫn những người vẫn c̣n ở
lại trong nước đă từng sống trong chế độ đó và thân nhân họ, thậm
chí những người miền Bắc có tư duy đều thương tiếc. Con người ta có
một tâm lư chung đó là luôn muốn quên đi cái dĩ văng xấu xa, không
tốt đẹp. Vậy khi hàng triệu người dù cho phải ly tán vẫn nhớ về nó
th́ đó không thể là điều xấu xa. Đó chính là câu trả lời chính xác
nhất.
Thật ra bất cứ một xă hội nào cũng có mặt hạn chế, ngay cả nước Mỹ
nhân bản và dân chủ hiện nay cũng c̣n nhiều mặt cần sửa đổi. Việt
Nam Cộng Ḥa không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên trong một chừng mực
nhất định th́ những hạn chế đó sẽ dần khắc phục theo thời gian và
trong cùng một thời điểm lịch sử hay thậm chí ngay cả với xă hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện tại th́ VNCH xứng đáng dân chủ gấp vạn lần thật
sự chứ không nói dối trơ trẻn của bà Doan. Đó là lư do tôi viết bài
này để chứng minh cho bạn đọc những sự thật về một nhà nước dân chủ
non trẻ nhưng đă phải chịu chính sách ngậm máu phun người của đảng
cộng sản Việt Nam.
Tôi viết bài này xin giành tặng cho tất cả bạn
đọc với mong muốn:
Với những người yêu VNCH dù đă từng sống hay chỉ biết đến qua sách
vở th́ như một lời khẳng định chắc chắn rằng những ǵ họ đă yêu mến
không hề nhầm lẫn.
Với những người bị lừa dối hi sinh cho đảng cộng sản như thế hệ cha
ông tôi th́ như một lời chân t́nh để giúp họ thật sự nhận ra bản
chất của đảng cộng sản VN và ông Hồ đă lừa dối họ bao lâu này.
Với những người c̣n v́ miếng ăn mà cố gắng lừa bịp dân tộc hăy tỉnh
lại đi, sự thật không thể bị bưng bít được măi. Đừng tự lừa dối ḿnh
và lừa dối nhân dân nữa, hăy để cho lương tâm con người lên tiếng
trong tâm hồn ḿnh.
Phần 1: Những sự thật về Việt Nam Cộng Ḥa
A. Mỹ không hề xâm lược Việt Nam:
Trong bài “Những sự thật cần phải biết - Sự thật về Đại thắng mùa
xuân 1975” tôi đă chứng minh thất bại của VNCH không phải do hèn
kém như cộng sản bịa đặt. Họ bị đồng minh bỏ rơi và bị ép phải chết
yểu trong bàn cờ chính trị Mỹ-Trung cộng-Liên Xô. Mỹ cũng có lỗi của
ḿnh trong việc bỏ rơi đồng minh nhưng cũng nên biết rằng nước Mỹ
cần phải tự cứu ḿnh trong lĩnh vực kinh tế và cũng do chính sách
nhân bản, không muốn lún sâu chiến tranh, đồng thời phần nào đấy là
việc họ để cho chính bản thân những người dân Việt Nam nhận ra sự
thật về cộng sản.
Tuy nhiên có một điều rất quan trọng mà tôi phải khẳng định đó là Mỹ
không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam vẫn tuyên
truyền để lừa bịp ḷng yêu nước của nhân dân ta. Tại sao tôi có thể
khẳng định điều này? Xin được tŕnh bày như sau.
Thứ nhất, cho đến giờ phút này dù bất cứ ai cũng có thể thấy
người Mỹ đến Việt Nam không lấy của người Việt Nam dù chỉ là một mm
đất đai, hải đảo. Thậm chí họ c̣n giúp chúng ta xây dựng một Sài G̣n
tự do và phồn vinh mà ở thời điểm trước năm 1975 là Ḥn Ngọc Viễn
Đông, ngay cả Singapore hay HongKong lúc ấy c̣n phải xếp hàng từ xa.
Vậy th́ người Mỹ xâm lược ǵ ở Việt Nam? Đất không lấy, một giọt dầu
cũng không? Trung cộng trong khi đó th́ sao? Trung cộng đă lấy Hoàng
Sa - Trường Sa "nhờ" công hàm bán nước 1958 của ông Chủ tịch nước Hồ
Chí Minh và ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng (xin xem thêm “Những sự thật
không thể chối bỏ - phần 2 - Hồ Chí Minh và vai tṛ trong công hàm
1958”). Và c̣n hàng trăm km biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc,
hay Boxit Tây Nguyên. Ai xâm lược đây? Người Mỹ không hề xâm lược
Việt Nam như cách đảng cộng sản vẫn rêu rao, mà kẻ xâm lược nước ta
chính là “Đồng chí 16 chữ vàng, 4 tốt, tri ân sâu nặng” của đảng
cộng sản Việt Nam. Đây cũng là điều cho thấy đảng cộng sản ngậm máu
phun người đối với người Mỹ.
Thứ hai, nếu nói người Mỹ xâm lược Việt Nam th́ có nghĩa là
họ phải đổ quân đội vào Việt Nam trước khi đảng cộng sản để lại quân
du kích và cán bộ tại VNCH để nằm vùng và khủng bố nhân dân miền
Nam. Nhưng thực tế lại trái ngược lại. Xin quay lại “Những sự thật
không thể chối - phần 13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!”
bạn đọc sẽ thấy rơ.
Trong bộ môn lịch sử chương tŕnh lớp 12, đảng cộng sản Việt Nam
tuyên truyền:
“Mặt trận Giải phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục
tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền tay sai, nhằm
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.
Nhưng thực chất th́ sao? Năm 1961 khi ông Ngô Đ́nh Diệm kư Hiệp ước
quân sự với Mỹ, th́ miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít
quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là
xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...
Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô
Đ́nh Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can
thiệp quân sự. Điều này ai cũng biết cả. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào
miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại
cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến
năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng
VNDCCH (đă chứng minh trong “Những sự thật không thể chối - phần 3 -
Bác, đảng đă bán những ǵ và để làm ǵ?”). Vậy th́ vào thời điểm
20.12.1960, làm ǵ có bóng dáng lính Mỹ nào ở Miền Nam, làm ǵ đă có
ai xâm lược mà chống? Đảng cộng sản phải chống ai, chống cái ǵ vào
năm 1960? Chính sự mâu thuẫn trong lời nói của cộng sản cũng cho ta
thấy bản chất nói dối, lật lọng trong việc kích động chiến tranh phi
nghĩa tại Việt Nam và cho thấy việc vu khống cho người Mỹ xâm lược
Việt Nam là vô lư.
Thứ ba, hăy nghe người Liên Xô nói về việc Mỹ đổ quân vào
Việt Nam để thấy người anh cả của đảng cộng sản Việt Nam biết rơ
người Mỹ không phải vào Việt Nam “xâm lược” như cách tuyên truyền
của đảng cộng sản Việt Nam. Tài liệu của Liên Xô đăng trong cuốn
sách có tên “Một bước đi lớn” – bởi nhóm tác giả đă từng hoạt động
tại KGB và do NXB Quân đội Liên bang Nga xuất bản năm 1999 nói về
hoạt động t́nh báo của Liên Xô (đă giới thiệu ở bài “Những sự thật
không thể chối bỏ - phần 13 -Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!”
có đoạn ở 128:
“Người Mỹ chắc chắn không xâm lược Việt Nam như cách người Pháp
thực dân làm trước năm 1945 nhưng Việt Nam phải là một trong những
tiền đồn ngăn cản chủ nghĩa tư bản ở Á Châu bao gồm Bắc Triều Tiên,
Trung Hoa, Afghanistan...”
Th́ ra người Liên Xô với những con mắt lăo luyện của t́nh báo KGB
đâu có cho rằng người Mỹ xâm lược và đô hộ Việt Nam như cách người
Pháp thực dân. Người Liên Xô chỉ lo ngại cho chủ nghĩa cộng sản của
họ bị người Mỹ đánh bại chứ họ không nói là người Mỹ xâm lược và đô
hộ Việt Nam như cách cộng sản tuyên truyền. Đó là do chính sách ngậm
máu phun người của cộng sản nhằm lừa gạt hàng triệu thanh niên bỏ
xác v́ quyền lợi của chóp bu cộng sản mà thôi. Đó chính là một trong
những chiêu bài núp bóng “Giải phóng dân tộc” mà ông Hồ cùng đảng
cộng sản thực hiện để nhuộm đỏ Việt Nam cho âm mưu của Trung cộng.
Thứ tư, thật ra mong muốn người Mỹ vào Việt Nam đổ quân để
tạo cớ người Mỹ xâm lược Việt Nam cũng nằm trong âm mưu của Trung
cộng chỉ đạo cho ông Hồ và đảng cộng sản Việt Nam thực hiện. Trong
cuốn sách “MAO: The Unknown Story” của tác giả Jung Chang và Jon
Halliday được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và
Random House xuất bản, ở trang 470 có đoạn:
“Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đă có người Mỹ, đó là Việt Nam.
Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ.
Kế hoạch của Mao là tạo t́nh huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội
vào miền Nam…”
Thế là đúng ra năm 1963, Trung cộng cũng nhận thấy người Mỹ chỉ có
15000 cố vấn mà thôi. Và chính Mao muốn ông Hồ phải “tạo t́nh huống”
để người Mỹ phải đổ quân vào Việt Nam. Đó chính là việc cố t́nh tạo
ra “kẻ thù” xâm lược để có cớ đánh VNCH và đổ tội cho người Mỹ xâm
lược Việt Nam của Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh.
Thứ năm, thêm một đồng minh của VNDCCH khẳng định người Mỹ
không hề xâm lược Việt Nam như cách đảng cộng sản tuyên truyền cho
thấy những ǵ chúng ta đă và đang được nghe đảng cộng sản chỉ là lừa
bịp. Trong cuốn sách có tên “Đối nghịch” của tác giả J. Leroy - một
nhà hoạt động xă hội người Pháp và cũng là đảng viên đảng cộng sản
Pháp (giới thiệu ở bài “Những sự thật không thể chối bỏ - phần 14 -
Ai làm cho Huế đau thương?”). Cuốn sách của ông đi sâu phân tích về
tính chất đối lập của đảng cộng sản và các đảng phái khác và dẫn
chứng về cuộc chiến Việt nam như là một sự đối nghịch đỉnh điểm về ư
thức hệ. Trong trang 187 của cuốn sách in năm 2000 tại Pháp có nội
dung trích như sau:
“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa Kỳ không mong muốn,
họ đến với Việt Nam khác hẳn lũ người độc ác của chúng ta trước đây.
Nhưng họ phải đổ quân vào v́ họ không muốn Liên Xô bành trướng tư
tưởng của Mác, Lê Nin…”
Tác giả cộng sản Pháp này rất trung thực trong việc đánh giá người
Mỹ không xâm lược Việt Nam như chính thực dân Pháp trước năm 45 mà
họ chỉ vào Việt Nam trong t́nh thế bắt buộc chống lại sự bành trướng
tư tưởng đỏ của Liên Xô.
Kết luận: Một kẻ đi xâm lược không thể là kẻ đổ quân vào sau
khi đồng minh của họ bị khủng bố. Người Mỹ chỉ đổ quân vào để giúp
đồng minh chống lại chủ nghĩa cộng sản bạo tàn và độc tài. Người Mỹ
chỉ là một “kẻ thù” được dựng lên với mục đích lừa dối dân tộc trong
chiêu bài “Chống Mỹ cứu nước” của đảng cộng sản. Việc tạo ra một kẻ
“xâm lược” giả tưởng này không khác ǵ việc người ta cố t́nh dựng
lên một h́nh ảnh “thế lực thù địch”để nói về đội ngũ đấu tranh dân
chủ hiện nay ở Việt Nam hay bóng ma “thế lực thù địch” đang làm đảng
“tự diễn biến”. Một kẻ đi xâm lược không thể không áp bức, bóc lột
và lấy đất đai, tài nguyên của chúng ta. Người Mỹ th́ không làm điều
đó, vậy họ không thể là kẻ xâm lược.
Người Mỹ đến Việt Nam với mục đích chống lại sự bành trướng chủ
nghĩa cộng sản trên thế giới và giúp VNCH chống lại làn sóng khủng
bố của đảng cộng sản gieo rắc tại Miền Nam. Họ không hề xâm lược
Việt Nam như cách đảng cộng sản Việt Nam tuyên truyền, họ cũng là
nạn nhân của một chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản
Việt Nam.
B. Việt Nam Cộng Ḥa không phải là chế độ Ngụy Quân, Ngụy
Quyền:
Nếu không có kẻ xâm lược th́ làm ǵ có kẻ làm tay sai “ngụy quân,
ngụy quyền”? Như phần A tôi đă chứng minh những tác giả trung lập và
ngay cả những người cộng sản Pháp, Liên Xô trong những nghiên cứu
nghiêm túc của ḿnh đă công nhận người Mỹ không hề xâm lược Việt Nam
đúng nghĩa. Vậy th́ những người đồng minh của họ là VNCH có phải là
tay sai bán nước như cộng sản nhồi nhét vào đầu chúng ta hay không?
Không. Hoàn toàn không phải. Đó là một chế độ dân chủ non trẻ nhưng
mang trong ḿnh những tư tưởng và ư niệm tốt đẹp cho nhân dân. Tôi
xin khẳng định thông qua phần B này.
Nói như bà Dương Thu Hương một nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của
CS Bắc Việt vào Sài G̣n vào tháng 4 năm 1975 th́ “Đó mới là chế
độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đă thua một
chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học
đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt nam phạm phải...”
Và chính ông Vơ Văn Kiệt, cựu thủ tướng của CHXHCNVN cũng phải thốt
lên cái ngày 30/4 là ngày mà VNCH chính thức mất đi trên danh nghĩa
nhưng c̣n măi tồn tại trong ḷng người yêu dân chủ, tự do “Ngày
của triệu người buồn.”
1. VNCH có nền kinh tế phát triển hơn hẳn VNDCCH:
Tại miền Nam dưới sự lănh đạo của ông Ngô Đ́nh Diệm, cùng sự hỗ trợ
của Hoa Kỳ nhằm khôi phục kinh tế và nâng cao dân trí, trong thời
điểm miền Bắc có cải cách ruộng đất gây tai họa th́ miền Nam cũng có
Cải cách điền địa và “Người cày có ruộng” mang lại niềm vui cho nhân
dân. Chính v́ có những chính sách hợp lư, chế độ dân chủ nên nửa
trong của Việt Nam đă phát triển nhanh chóng. Bằng chứng là Sài G̣n
được coi là “Ḥn Ngọc Viễn Đông”.
Ngay sau khi ông Diệm bị giết hại th́ nền Đệ nhị Cộng ḥa cũng đă có
những nối tiếp nền Đệ nhất Cộng ḥa để đem lại đời sống no ấm cho
nhân dân miền Nam. Dù có khó khăn do chiến tranh liên miên, đảng
cộng sản cho quân du kích nằm vùng đặt bom, phá đường, tài sát dân
lành th́ nền kinh tế vẫn được duy tŕ một đời sống hơn hẳn so với
VNDCCH. Bạn đọc hăy cùng tôi điểm lại những tài liệu để thấy sự thật
này.
- Giai đoạn 1954-1956: Công nghiệp khá nghèo nàn với số lượng nhà
máy ít ỏi có từ thời Pháp thuộc.
- Giai đoạn 1957-1967: là giai đoạn bùng nổ của công nghiệp nhờ
chính sách công nghiệp tích cực của chính quyền và nhờ các biện pháp
bảo hộ nền công nghiệp trong nước.
- Giai đoạn 1967-1972: có sự phân hóa rơ rệt giữa các phân ngành.
Những phân ngành như sản xuất đường và dệt không được bảo vệ nữa nên
bị hàng ngoại tràn ngập bóp chết. Trong khi đó, những ngành như chế
biến thực phẩm phục vụ quân nhu, chế biến gỗ, vật liệu xây dựng lại
phát triển mạnh. Đặc biệt, ngành luyện kim phát triển rất nhanh mặc
dù miền Nam Việt Nam không có những mỏ kim loại. Chính phế thải kim
loại của chiến tranh mới là nguồn nguyên liệu dồi dào và rẻ cho
ngành luyện kim. Trên cơ sở sự phát triển của ngành luyện kim, ngành
gia công kim loại cũng phát triển vượt bậc.
- Giai đoạn sau 1972: Các ngành luyện kim và điện vẫn phát triển với
nhiều nhà máy mới được xây dựng. C̣n các ngành sản xuất vật liệu xây
dựng là những ngành suy giảm mạnh. Cơ cấu công nghiệp của Việt Nam
Cộng Ḥa tại thời điểm 1973 cho thấy công nghiệp của Việt Nam Cộng
Ḥa chủ yếu là công nghiệp nhẹ. Công nghiệp nặng và hóa chất mới ở
tŕnh độ sơ khai. Nguyên liệu cho ngành chế tạo chủ yếu phải nhập
khẩu từ nước ngoài.
- Năm 1973, chính phủ đă tổ chức 2 ṿng đấu thầu khai thác dầu lửa
ngoài khơi thềm lục địa. Nhiều công ty khai thác dầu lửa nước ngoài
đă tham gia, bất chấp là t́nh h́nh an ninh chưa ổn định. Chính phủ
cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa
điểm trong một khu vực 82.000 km² mới chỉ là 16% của thềm lục địa.
Tới tháng 10, 1974 hăng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, t́m
được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có
ít nhất 20 giàn khoan. Sản xuất một lượng dầu khả quan sắp được bắt
đầu muộn lắm là vào cuối năm 1977. Các Công ty dầu đề nghị Chính phủ
hai điểm: thứ nhất, cho công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục
đấu thầu, hành chánh; thứ hai, khi khai thác được dầu sẽ chia đôi,
một nửa cho công ty, một nửa cho Chính phủ. Sau 1975, các mỏ dầu này
do Liên doanh Vietsopetro của Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam
quản lư và khai thác.
Thứ nhất, số liệu và nhận xét trên wiki có links sau:
http://vi. wikipedia. org/wiki/Kinh_tế_Việt_Nam_Cộng_ḥa:
“Chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa đă tích cực triển khai chiến lược
công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ.
Kết quả phải kể đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy
Cogido An Hảo (1961) ở Biên ḥa, thỏa măn 30-40% nhu cầu tiêu thụ
giấy trong nước [4]; hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với năng
suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng
suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên, một ở Thủ
Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim,
hoàn thành năm 1961 [5]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại -
những đầu vào cho các ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu.
Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất khẩu được khuyến khích. Một số mặt
hàng xuất khẩu c̣n được chính quyền trợ cấp. Ngay cả tỷ giá hối đoái
cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua trừ đi một
mức phụ đảm).
Ở nông thôn th́ Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là "Cải cách điền
địa") được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960.
Những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho tá
điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các
đồn điền dù hơn 100 ha vẫn được phép). Số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc
phải bán cho chính quyền để bán lại cho tá điền. Tá điền được yêu
cầu lập hợp đồng khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá
điền trong đó có ghi mức địa tô mà tá điền phải trả cho địa chủ.
Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái kư. Tá điền có quyền trả đất và
phải báo trước chủ đất 6 tháng.”
Về thu nhập b́nh quân, theo “số liệu kinh tế - GDP” b́nh quân, ở
miền Nam vào thời trước 1975 là 190USD. Thu nhập này tuy chưa cao
mấy thời đó, nhưng cao hơn ở các nước Thái Lan, Bangladesh, Ấn Độ,
và Pakistan. Trong khi đó 36 năm sau, GDP b́nh quân đầu người của
Việt nam là khoảng 1100 USD, thua xa Thái Lan (khoảng 4000 USD).
Như vậy rơ ràng sau khi nắm đất nước th́ nền kinh tế VNCH đă có
những bước phát triển vượt bậc và bước đầu tạo ra dấu ấn cho nhân
dân Việt Nam.
Một thời Ḥn ngọc Viễn Đông
Thứ hai, năm 1950 nền kinh tế của Đài Loan gần như không có
ǵ đáng kể. Năm 1960 lợi tức đầu người USD170 thua miền Nam lúc đó
(190 USD). Năm 2010 Đài Loan có GDP khoảng US$37.000/năm. Dự trữ
ngoại tệ 400 tỉ USD. Năm 1954 kinh tế Hàn quốc thua xa miền Nam lúc
đó. Năm 2010 Hàn quốc có GDP khoảng US$20.757/năm. Dự trữ ngoại tệ
311 tỉ USD. Năm 1959 Singapore được tự trị, một quốc gia nghèo, nhỏ
bé, thiếu tài nguyên, lúc đó thua miền Nam mọi lĩnh vực. Năm 2010
Singapore có GDP US$43.000/năm. Dự trữ ngoại tệ 300 tỉ USD. Những
con số mà tôi lấy thống kê trích từ “Tạp chí kinh tế Châu Á” năm
2010 bạn đọc có thể kiểm chứng.
Qua những con số biết nói đó chúng ta thấy được ǵ? Đó là những nước
có nền kinh tế vượt xa cả trăm lần CHXHCN Việt Nam hiện nay th́
trước năm 1975 họ thua kém VNCH rất nhiều. Vậy mà sau khi “thống
nhất” đất nước th́ chúng ta có ǵ? Có chăng chỉ là sự lạc hậu và
thua kém. Vậy th́ VNCH đâu phải là một chế độ bù nh́n? Họ bù nh́n
tại sao lại làm cho thu nhập b́nh quân của nhân dân cao hơn cả những
nước kể trên. Và quan trọng nếu với đà phát triển như con số đă nêu
th́ nếu c̣n tồn tại VNCH sẽ là con rồng Châu Á thật sự chứ không
phải kiểu rồng đất, rồng tre như CHXHCN Việt Nam ngày nay.
Thứ ba, nh́n chung đa phần dân chúng thời đó vẫn sống ở nông
thôn, làm nghề nông là chính. Với chương tŕnh “Người Cày Có
Ruộng” đầu thập niên 1970, chính phủ đă chia hằng triệu mẫu
ruộng cho nông phu. Đời sống dân chúng cải thiện đáng kể.
Mặc dù miền Nam hiếm có những ngành công nghiệp nặng, nhưng tiểu thủ
công nghệ phát triển mạnh. Các ngành dệt vải, kim khí điện máy khá
xôm tụ. Thương mại và các hoạt động tiểu thương cũng sầm uất. Cần kể
thêm thái độ của người dân. Nhiều sản phẩm nội địa được ưa chuộng,
chiếm nhiều cảm t́nh như: kem đánh răng "Hynos", xà bông "Cô Ba",
bột giặt "Viso"... Điều này cho thấy người tiêu thụ miền Nam thời đó
có tinh thần yểm trợ hàng nội hóa khá cao.
Một thế mạnh nữa của VNCH là thế hệ trí thức, kỹ sư, cán sự được
huấn luyện kỹ lưỡng, làm việc tận tâm. Về mặt này, VNCH hoàn toàn
vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia,
Singapore... Có thống kê cho thấy 3 trong số 4 kỹ sư trong toàn vùng
khi đó là công dân Nam Việt nam. Năm 1961, kỹ sư miền Nam tiếp tục
đón nhận nhà máy thủy điện Đa Nhim từ Nhật. Từ thời này, các chuyên
gia Nam Việt Nam cũng đă manh nha dự án khu chế biến lọc dầu Dung
Quất ngày nay.
Nguồn chuyên viên lành nghề, mẫn cán c̣n giúp thực thi các kế hoạch,
khai triển nhiều khu kỹ nghệ: Khu Kỹ Nghệ Biên Ḥa, Khu Kỹ Nghệ
Phong Dinh... Ngay khi tin vui về mỏ dầu hỏa ở Vũng Tàu loan ra,
VNCH cũng có đủ chuyên viên để thiết lập ngay Tổng Cục Dầu Hỏa.
Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt, hoạt động từ thời Đệ Nhất Cộng
Ḥa, do kiến trúc sư tài danh Ngô Viết Thụ vẽ mẫu thiết kế.
Thứ tư, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết
về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài liệu mới
của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết:
“Năm 1973 nông dân thu hoạch gần 5 triệu tấn gạo, gần đủ cho nhu
cầu quốc nội. Ước lượng sang 1976 có thặng dư để xuất cảng. Cũng có
kế hoạch xuất cảng tôm lên đến 30 triệu Usd năm 1975. Về hạ tầng cơ
sở, đến đầu 1970, Việt Nam Cộng Ḥa có trên 1,200 cây số đường xe
lửa, khoảng 20,000 điện thoại, 50 đài phát thanh và 4 đài truyền
h́nh lớn (ở Sài G̣n, Huế, Quy Nhơn và Cần Thơ. Cuối thập niên 1950,
VNCH xây xa lộ Biên Ḥa ở phía Bắc Sài G̣n, là công tŕnh giao thông
công cộng có thể nói tân tiến nhất toàn vùng Đông Nam Á khi đó... Có
thể kể thêm nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961, Biên Ḥa) có lúc sản
xuất giấy đủ đến 40% nhu cầu nội địa. Hai xưởng dệt Vinatexco và
Vimytex tŕnh làng hơn 13 triệu mét vải hằng năm. Hai nhà máy xi
măng, một ở Hà Tiên và một ở Thủ Đức cho ra ḷ hơn 540,000 tấn mỗi
năm...”
Chính những con số mà chính đảng cộng sản công nhận cũng đă đủ nói
lên thực tế không thể chối bỏ đó là VNCH có một nền kinh tế tự do và
phát triển ổn định. Ngoài những con số trên chúng ta c̣n thấy được
ǵ? Đó là: Nhiều người từng sống ở miền Nam trước đây có lẽ vẫn c̣n
nhớ chiếc xe La Dalat, biểu tượng của công nghệ xe hơi non trẻ. Vào
thời điểm này, sáng lập viên của hăng xe Hyundai mới chỉ là tiểu
thương tại Hàn Quốc. Dù lắp ráp với nhiều phụ tùng ngoại quốc, La
Dalat vẫn là chiếc xe hơi đầu tiên mang nhăn "Made in Vietnam", mẫu
mă của riêng Việt Nam.
Trước 1975, có 11 dàn máy tính IBM 360 hiện đại đă được đưa về Bộ
Tổng Tham Mưu và Bộ Giáo Dục. Lúc đó, toàn vùng Đông Nam Á chỉ có
Singapore sắm được vỏn vẹn... 1 chiếc máy tương tự.
Máy tính IBM thời VNCH
Thứ năm, Trung cộng trong nỗ lực phát triển kinh tế và cạnh
tranh với Mỹ và âm mưu triệt tiêu nội lực của Việt Nam đă phải thừa
nhận. Hăy nghe tác giả Hà Cẩn mà tôi nhiều lần giới thiệu cuốn sách
“Mao chủ tịch của tôi” trong loạt bài “Những sự thật không thể chối
bỏ”. Tác giả thuộc Viện văn học Trung quốc, cho in cuốn sách năm
1997 và tái bản năm 2000, tại trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam
có nền kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta...” Tác
giả Trung cộng này cũng công nhận sự phát triển của miền Nam về kinh
tế và khẳng định đó là bất lợi cho âm mưu Hán hóa mà ông Hồ đang
thực hiện theo lệnh Mao. Đây là một điểm khẳng định cho sự thật về
nền kinh tế phát triển của VNCH và cũng thêm minh chứng cho âm mưu
của Trung cộng và ông Hồ Chí Minh.
Trong khi các con số và tài liệu cho thấy VNCH là nước có nền
kinh tế phát triển trong đa số các lĩnh vực th́ VNDCCH được cai trị
bởi những kẻ độc tài và bạo tàn th́ sao?
Thứ nhất, đó là những con số người chết khủng khiếp trong
chiến dịch CCRĐ man rợ do ông Hồ Chí Minh chỉ đạo mà tôi đă đề cập
trong bài Những sự thật không thể chối bỏ - phần 5 - Nỗi đau Cải
Cách. Bên cạnh đó là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu mà nhân dân
là những người hứng chịu trực tiếp.
Trên Wiki
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Cải_cách_ruộng_đất_tại_miền_Bắc_Việt_Nam)
có viết:
“Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông
31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu ḅ. Tổng cộng chiến
dịch Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng,
106.448 trâu ḅ, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này
được phân chia cho 2.104.138 hộ bần nông, trung b́nh mỗi hộ được
0,38 ha, 0,87 nông cụ, 0,071 ngôi nhà.”
Thu nhập b́nh quân đầu người ở các hộ xă viên hợp tác xă nông
nghiệp có sự bất b́nh thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ
th́ khoản thu nhập trong hợp tác xă nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác
xă, trong khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, ḅ,
cày, bừa…) đều nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ
chỉ nhằm tạo thêm thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu
thừa đuôi thẹo. Trong cuốn “Những điều cần nh́n lại sau CCRĐ” - NXB
Văn hóa của ĐCSVN có đoạn: “Năm 1961: Tổng thu nhập b́nh quân đầu
người là 11,50 đồng/tháng, trong đó thu nhập trong hợp tác xă là 4,5
đồng, c̣n thu nhập ngoài hợp tác xă là 7,0 đồng.”
Ngoài ra, theo tác giả Bernard Fall, một gia đ́nh nông dân bốn
người cần có ít nhất 1,5 mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể
đến thuế nông nghiệp phải đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt.
271, 282).
Thứ hai, kể cả sau khi kết thúc CCRĐ th́ nền kinh tế của
VNDCCH không sáng sủa và kém xa so với VNCH. Trong cuốn sách được
nhà xuất bản Lịch sử của Liên Bang Nga xuất bản năm 1995 có tên gọi
tạm dịch ra tiếng Việt “Liên Xô- Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề chưa
được biết” của tác giả người Nga, Ruslan Kobachenko, một đảng viên
đảng cộng sản Liên Xô và cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch
sử Châu Á từng giảng dạy tại đại học Minsk-Nga, có đoạn trong trang
197 như sau:
“So với Miền Nam th́ người đồng chí Miền Bắc của chúng ta chịu
thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đă nhận ra điều này như là một
yếu điểm cần phải được sửa chữa của lănh đạo Miền Bắc mà đứng đầu là
chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng thật khó làm điều này v́ kinh tế Miền
Bắc rất lạc hậu và theo mô h́nh của Trung Hoa...”
Đoạn trích cho thấy tác giả người Nga chê nền Kinh tế VNDCCH không
bằng VNCH do lạc hậu và theo mô h́nh Trung cộng. Vậy th́ những ǵ
tuyên truyền của đảng cộng sản về một nền kinh tế bị “ḱm kẹp” chỉ
là một sự bịa đặt nhằm ngậm máu phun người đối với VNCH.
Thứ ba, theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam” 1945-2000, viết
về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 th́:
“Cho đến 1973 nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn gạo,
chưa đủ chi dùng cho nhân dân và vẫn phải nhận viện trợ từ Trung
Quốc, Liên Xô bột ḿ, bobo... Về hạ tầng cơ sở, đến đầu 1972, VNDCCH
chỉ có trên 500 cây số đường xe lửa, điện thoại chỉ có trong cơ quan
nhà nước, 2 đài phát thanh, chưa có máy điện toán...”
Chỉ cần bạn đọc điểm lại những con số trên và xem những con số cùng
loại và cũng thời điểm đó đă nêu trên th́ VNCH rơ ràng có nền kinh
tế, hạ tầng phát triển hơn hẳn VNDCCH.
Kết luận: Một nền kinh tế VNCH phát triển bền vững và có
chiều sâu, chiều rộng cho thấy VNCH đă nỗ lực phát triển để đem lại
đời sống tốt đẹp cho nhân dân. Như vậy đây là kết luận đầu tiên cho
thấy chính sách ngậm máu phun người của đảng cộng sản về một miền
Nam khốn khó, chịu ḱm kẹp là điều không tưởng.
2. Việt Nam Cộng Ḥa – Một đất nước tự do, dân chủ thật sự:
Như ở mục 1 tôi đă chứng minh so với VNDCCH th́ VNCH hơn hẳn về mặt
kinh tế, đời sống nhân dân. Vậy c̣n các mặt khác về đời sống, văn
hóa, giáo dục và chính trị th́ ra sao? Tôi xin tŕnh bày ở mục 2
này.
Thứ nhất, để nói về tự do dân chủ chúng ta có thể thấy rơ nét
nhất là văn hóa và biểu t́nh, tự do lập đoàn thể, hội họp và thậm
chí cả chống chính phủ khác hẳn so với VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay
là độc tài toàn trị.
Minh chứng rơ nét cho việc này đó là xuất hiện những thành phần cộng
sản nằm vùng trong ḷng VNCH như ông Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng…
Chính quyền VNCH biết rơ họ là cộng sản và biết những hành động của
họ làm chống chính quyền. Nhưng họ vẫn được biểu t́nh, kích động dân
chúng theo cộng sản. Điều này trái ngược hẳn với quyền tự do bị chà
đạp của nhân dân yêu nước khi tham gia biểu t́nh chống Trung cộng
xâm lược…
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy tại VNCH, các bài hát phản chiến của
Trịnh Công Sơn vẫn được phép tồn tại. Hay thậm chí các bài hát có
nội dung lăng mạn bị đảng cộng sản triệt để cấm đoán v́ lo ngại sẽ
hỏng mất chính sách tuyên truyền hận thù của cộng sản th́ tại VNCH
vẫn được tự do ca hát. Đó chính là do chính quyền VNCH tôn trọng
quyền tự do tư tưởng và thưởng thức âm nhạc của nhân dân. Xin lấy
một ví dụ. Bài hát “Những đồi hoa sim” thực chất là bắt nguồn từ một
nhà thơ Miền Bắc và trước khi về quê ở ẩn do không chấp nhận sự thối
nát của cộng sản cũng là người theo đảng cộng sản, ông là Hữu Loan
nhưng vẫn được các nhạc sỹ của VNCH phổ biến và tự do ca hát. Ngược
lại VNDCCH th́ tuyên truyền “Không nghe, không dùng văn hóa của
Ngụy” Mặc dù những bài hát, bài thơ đó hoàn toàn không có mưu đồ
chính trị và giàu tính nhân văn.
Nạn nhân của những nghệ sỹ trong chế độ độc tài nhiều vô kể như nhạc
sỹ Tô Hải hay nạn nhân của cái gọi là “Phản cách mạng” Nhân văn Giai
Phẩm. Trong khi đó VNCH không có một cuộc thanh trừ nào kiểu như
vậy, và quan trọng hơn cả VNCH không hề có một cuộc cách mạng thực
chất là CẮT MẠNG người như “Cải cách ruộng đất - long trời lở đất”.
Thứ hai, trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc tế
cộng sản “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder - một
đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức năm
1981 có viết tại trang 189: “Nếu cứ tự do như VNCH th́ VNDCCH sẽ
bị đánh mất chủ thuyết của ḿnh...” Tác giả này đă công nhận
VNCH có tự do về tư tưởng và VNDCCH th́ ngược lại rất độc tài và
quân phiệt chỉ nhằm giữ cho được “Chủ thuyết “ cộng sản sai lầm cho
ḿnh nhằm cai trị nhân dân ta, đấy nhân dân ta đến cuộc chiến huynh
đệ tương tàn (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ - phần
13 - Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn!”).
Chỉ cần thấy câu: Tổ quốc - Danh dự - Trách nhiệm (1954-1967)
(Fatherland - Honour - Duty) và Tổ quốc - Công minh - Liêm chính
(1967-1975) (Fatherland - Justice - Integrity) của VNCH đặt Tổ quốc
lên trên hết cũng đă thấy khác hẳn với “Trung với đảng, hiếu với
dân” của CHXHCNVN v́ đảng cộng sản đặt lợi ích của ḿnh trên cả
nhân dân và chẳng thấy bóng dáng Tổ Quốc đâu cả.
Thứ ba, Giáo dục Việt Nam Cộng Ḥa mang triết lư giáo dục nhân bản,
dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa nhấn mạnh quyền
tự do giáo dục, và cho rằng “những người có khả năng mà không có
phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”. Hệ thống giáo
dục Việt Nam Cộng Ḥa gồm tiểu học, trung học và đại học, cùng với
một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả
ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa
phương.
Điều này đă được minh chứng bằng việc học sinh đi học dưới chế độ
VNCH không hề mất học phí. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng ḥa có
một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong
các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học,
1.091.779 học sinh trung học và 101.454 sinh viên đại học; số người
biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số
sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người
(không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chính và
ở các trường đại học cộng đồng). Những con số nêu trên được lấy từ
cuốn “Giáo dục Việt Nam” – NXB Giáo dục năm 2001 – cuốn sách của
đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế,
Việt Nam Cộng Ḥa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài
G̣n. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ,
học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần
chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến
đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc “nhân bản”
(humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chính
thức hóa ở hội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho
triết lư giáo dục của Việt Nam Cộng Ḥa, được ghi cụ thể trong tài
liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm
1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa (1967). Theo văn
bản phụ lục của hiến pháp VNCH ghi rơ:
“Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản. Triết
lư nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian
này, lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc
đời này làm căn bản, xem con người như một cứu cánh chứ không phải
như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá
nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết lư nhân bản chấp nhận
có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng
sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị
hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc... Với
triết lư nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền
được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị
truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đ́nh,
nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được
những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo
tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn
hóa khác.
Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân tộc không
nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại,
giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật
tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xă
hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa
quốc gia và xă hội, làm cho xă hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế
giới.”
Trong khi đó th́ ở VNDCCH, học sinh bị nhồi nhét tư tưởng Mỹ “xâm
lược” mà thực chất không phải vậy, “bác Hồ yêu nước, cả đời v́ nước
v́ non” mà thực tế ngược lại khi bạn đọc 15 bài “Những sự thật không
thể chối bỏ”và hàng trăm ngàn tư liệu, bằng chứng sống lại chứng
minh được điều ngược lại. Hay là “yêu nước là phải yêu đảng cộng sản
“ – một định nghĩa dốt nát và ấu trĩ.
Những bài thơ như của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết
nữa...” lại được nhà trường VNDCCH gieo vào đầu con trẻ ư tưởng
giết người ngược hẳn với xu thế nhân bản của thế giới nói chung và
VNCH nói riêng.
Trên Website của Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Hà Nam có bài viết
(http://phuly.edu.vn/bacho/chuyen83.htm) nói về việc ông Hồ gửi thư
cho học sinh nhân ngày 1-6. Trên báo Sự Thật, số 134 ra ngày
1-6-1950, đăng bức thư gửi thiếu nhi toàn quốc nhân ngày 1-6. Ông Hồ
có viết: “Song ở các nước tư bản, cha mẹ là người lao động bị bóc
lột, th́ trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực khổ”. Điều này
cho thấy đảng cộng sản và ông Hồ chủ trương tuyền truyền bịa đặt
ngậm máu phun người về cuộc sống của trẻ em ở những nước dân chủ
trong đó có Mỹ và VNCH là bị “bóc lột”. Nh́n lại những người lính
trẻ bị bắt buộc phải cầm súng khi chưa đủ tuổi thành niên thời trước
hay nh́n cảnh tượng của trẻ em đang làm nô lệ t́nh dục, nô lệ lao
động... ở Việt Nam hiện nay mới thấy được tuyên truyền của cộng sản
chỉ là bịa đặt nhằm đưa đến một ư thức lệch lạc cho nhân dân.
Thứ tư, từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 (tức là sáu
tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh
học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt nam (lúc đó vẫn là
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa). Theo tường tŕnh của Galston cho tạp chí
Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 th́ một trong những chủ đề
khiến các nhà lănh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống
nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science th́:
“Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có
nhiều khó khăn v́ hai miền đă phát triển theo hai chiều hướng khác
nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston
nhận thấy các nhà lănh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ
đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ
dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá tŕnh thống
nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.”
Theo Galston, các nhà lănh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong
bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm
Văn Đồng (Thủ tướng Việt nam Dân chủ Cộng ḥa), đặc biệt quan tâm
đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử
cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đă được thiết
lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: "the widespread educational
emphasis on engineering and electronics and the system of two-year,
community colleges").
Như vậy cho thấy ngay cả đảng cộng sản cũng phải thừa nhận nền giáo
dục của VNCH chính là cái gương cho họ tự soi vào. Nhưng thực chất
họ nói như vậy nhưng lại không làm như vậy chủ yếu chỉ để ngu dân,
cai trị độc tài.
Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại
học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt
dưới chính thể Cộng ḥa Xă hội Chủ nghĩa Việt Nam:
“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh – tham gia Cách mạng tháng
Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng
ḥa lúc đó biết lư lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử,
cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp
của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, v́
vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục "xă hội chủ nghĩa"
(1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhăn hiệu, chụp cho
nhiều thứ mũ chỉ v́ tôi nêu rơ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần
phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà
tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về
tư tưởng...”
Đánh giá của nhà phê b́nh văn học Thụy Khuê:
“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với
những tệ nạn của xă hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một
hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương tŕnh giáo khoa, các giai
đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên
hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về
sử, về văn, và tới tŕnh độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu
tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và
đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và
hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy,
dịch được những sách cơ bản.”
Thứ tư, ngay từ thời điểm 1960-70 th́ cấu trúc của chính phủ
VNCH đă đầy đủ chuẩn mực, khuôn mẫu, của một đất nước văn minh ngày
hôm nay - Tổng Thống và Lưỡng viện Quốc Hội (Thượng và Hạ Viện). Tự
do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các loại tại Sài G̣n so
với không có tờ báo tư nhân nào dưới chế độ CSVN ngày nay, sau gần
70 năm trời chứ chưa nói đến VNDCCH cùng thời điểm với VNCH. Vậy th́
tự do dân chủ ở đâu?
Dưới thời Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm, chính quyền đi theo chủ nghĩa
Cần lao Nhân vị. Trong khoảng 5 năm, Việt Nam Cộng Ḥa đă có một số
thành tựu: xă hội ổn định, kinh tế phát triển, định cư gần 1 triệu
dân di cư từ miền Bắc, thành lập Viện Đại học Huế...
Hiến pháp 1967 xác lập cơ cấu tổ chức chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa
rất hoàn chỉnh, theo mô h́nh của nhà nước Hoa Kỳ. Hiến pháp Việt Nam
Cộng Ḥa đă thể hiện khá đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa hợp hiến.
Quốc hội có những quyền hạn sau: Biểu quyết các đạo luật; Phê chuẩn
các hiệp ước và hiệp định quốc tế; Quyết định việc tuyên chiến và
nghị ḥa, quyết định tuyên bố t́nh trạng chiến tranh; Kiểm soát
chính phủ trong việc thi hành chính sách quốc gia; Hợp thức hóa sự
đắc cử của dân biểu hoặc nghị sĩ quốc hội; Quyền khuyến cáo thay thế
từng phần hay toàn thể. Chính phủ với đa số 2/3 tổng số dân biểu và
nghị sĩ. Nếu Tổng thống không có lư do đặc biệt để khước từ, sự
khuyến cáo sẽ có hiệu lực. Trong trường hợp Tổng thống khước từ,
Quốc hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số 3/4 tổng số
dân biểu và nghị sĩ.
Tính đến năm 1975 th́ Việt Nam Cộng Ḥa đă thiết lập ngoại giao với
87 quốc gia trên thế giới và 6 quốc gia ở cấp bán chính thức.
(Bạn đọc có thể tham khảo ở links sau:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
Chúng ta có thể thấy ǵ khi VNCH có hàng chục đảng phái, tổ chức
hoạt động chính trị c̣n ngược lại VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chỉ có
1 đảng độc tài duy nhất hoạt động với tiêu chỉ “Bỏ điều 4 hiến pháp
là tự sát”. Ngoài ra ta phải thấy rơ ràng sự tự do trong bầu cử của
VNCH khác hẳn với bầu cử theo sự sắp đặt của VNDCCH hay CHXHCNVN. Đó
chính là sự tự do và dân chủ thật sự khác với tuyên truyền giả hiệu,
ngậm máu phun người.
Thứ năm, một tác giả của Trung cộng khác là Vương Văn khi
viết cuốn sách “Tư bản hay dân chủ“”xuất bản tại Trung cộng năm 2002
cũng nói về VNCH như sau tại trang 92:
“Dân chủ trong chủ nghĩa tư bản cho nhân dân hưởng nhiều cái lợi
nhưng lại là sự bất lợi cho chính quyền v́ chính quyền không thể
kiểm soát nổi nhân dân tự do. Hăy nh́n Việt Nam Cộng ḥa ở Miền Nam
Việt Nam làm tấm gương...”
Tác giả Trung cộng này cho rằng VNCH chính là một chính quyền tự do,
dân chủ nên đă bị thất bại. Điều này không sai nhưng chưa đủ. V́
sao? V́ thực chất cái đúng là tác giả công nhận sự tự do dân chủ
thật sự của VNCH. Tuy nhiên tác giả nên nhớ một điều rằng chính đảng
cộng sản Việt Nam đă lợi dụng sự tự do và dân chủ này để gây chia
rẽ, dẫn đến sự sụp đổ của một nền dân chủ non trẻ nhưng đă làm được
những điều tốt đẹp lớn lao cho nhân dân miền Nam.
Thứ sáu, một khi để nói là VNCH là tay sai của Mỹ, là bán
nước, là Ngụy quân, ngụy quyền th́ phải có bằng chứng rơ ràng. Nhưng
như phần A tôi đă chứng minh Mỹ không hề xâm lược Việt nam, không
lấy đất, biển đảo, tài nguyên của Việt Nam, cũng không sưu cao thuế
nặng như Thực dân Pháp trước 1945 th́ VNCH đâu có bán nước, đâu có
là “tay sai” như đảng cộng sản tuyên truyền?.
Quan trọng hơn, tại sao một chế độ bị vu cáo là “ngụy” lại anh dũng
chống trả quân thù Trung cộng cướp nước c̣n CHXHCNVN lại “tri ân”
giặc Tầu? Để mặc ngư dân bị đánh đập ngay trên biển đảo quê hương
ḿnh? Ai là Ngụy th́ thực chất bạn đọc cũng tự t́m cho ḿnh câu trả
lời rồi.
Thứ bảy, Tự do tôn giáo cũng là vấn đề được đề cập tại VNCH.
Chúng ta có thể thấy các cuộc biểu t́nh rầm rộ của giới tăng ni, cái
chết của vị sư theo cộng sản Thích Quảng Đức... cho thấy chính quyền
VNCH không hề đối xử phân biệt với các tôn giáo, không có hiện tượng
đập phá nhà thờ như ở Thái Hà... hiện nay.
Để khẳng định điều này, xin trích lời của tác giả người Đông Đức đă
giới thiệu ở trên “Chủ thuyết của chúng ta” của học giả A.Schenalder
- một đảng viên đảng cộng sản CHDC Đức - được ấn hành tại Đông Đức
năm 1981 có viết tại trang 193:“Tự do tôn giáo ở Miền Nam là sự
tổng ḥa cân bằng giữa các tôn giáo nhưng lại là điểm tựa cho đảng
cộng sản ở Việt Nam lợi dụng để chiến thắng chính quyền ông Diệm,
ông Thiệu...”
Thứ tám, một nét tiêu biểu đó là lĩnh vực y tế của VNCH tại
thời điểm trước năm 1975 đă hơn hẳn CHXHCNVN hiện nay chứ đừng nói
đến VNDCCH trước kia sau mấy chục năm “thống nhất, giải phóng “ ảo
tưởng. Cụ thể VNCH vào thời điểm đó xây dựng được nhiều bệnh viện
hiện đại của Đông Nam Á và không có cảnh 2-3 người nằm 1 giường như
thiên đường XHCN. Mời bạn đọc tham khảo links sau nói về y tế VNCH
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Y_t%E1%BA%BF_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2
a):
“Dịch vụ y tế bắt đầu ở cấp xă. Mỗi xă có một ủy viên y tế và một
nữ hộ sinh, thường gọi là "cô đỡ" trông coi và giúp đỡ sản phụ ở
thôn quê. Ủy viên y tế làm việc dưới sự giám sát của Hội đồng xă.
Ở cấp quận th́ có Chi y tế dưới sự điều hành của cán sự y tế. Mỗi
tỉnh th́ có một bệnh việnthuộc Ty y tế. Trưởng ty y tế là một bác sĩ
phụ trách chương tŕnh y tế trong tỉnh. Giám đốc bệnh viện cũng là
một bác sĩ y khoa. Bệnh nhân nhập viện vào các bệnh viện công cộng
không phải trả tiền. Những bệnh viện công cộng lớn gồm có Bệnh viện
Chợ Rẫy, V́ Dân, Bệnh viện Nhi Đồng Sài G̣n, và Từ Dũ.
Tổng số bệnh viện dân sự toàn quốc vào năm 1965 là 101 cơ sở với
25.000 giường. Riêng thủ đô Sài G̣n có 11 bệnh viện công cộng cung
cấp gần 5.000 giường. Tính vào năm 1970 th́ trên toàn quốc có hơn
570.000 ca nhập viện.
Một số chuyên khoa có bệnh viện riêng như Bệnh viện Nhi đồng Sài G̣n
(220 giường). Khoa tâm thần có ba cơ sở chính: Bệnh viện Chợ Quán ở
Sài G̣n, Bệnh viện Huế, và Bệnh viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Ḥa.
Nằm ngoài hệ thống của chính phủ là các pḥng mạch, dưỡng đường và
bệnh viện tư nhân (bốn bệnh viện ở Sài G̣n với hơn 800 giường). Vào
giữa thập niên 1960 Việt Nam Cộng ḥa có khoảng 800 bác sĩ y khoa.
Bệnh viện tư lớn phải kể Bệnh viện Grall và Bệnh viện Saint Paul ở
Sài G̣n, Bệnh viện Sùng Chính (200 giường) ở Chợ Lớn ”
C̣n “thiên đường” bánh vẽ của chúng ta th́ sao? Hăy đọc một bài viết
từ trang Baomoi.com trích bài trên báo Tuoitre Online của đảng cộng
sản Việt Nam
(http://www.baomoi.com/Thieu-benh-vien-tai-sao-khong-xay-them/82/7484744.epi)
“Chuyện 3, 4 bệnh nhân nằm chung một giường đă có từ lâu lắm rồi,
nhưng thật đáng tiếc khi gần đây bộ trưởng Bộ Y tế mới biết và thấy
nỗi khổ nhục của người bệnh. Người dân luôn đặt ra câu hỏi rằng tại
sao khi xây các dự án nhà ở, các khách sạn, sân golf... mọc lên
nhanh thế nhưng các bệnh viện xây mới lại không có hoặc rất ít (với
tiến độ con rùa). Vậy mong các vị đứng đầu hăy quan tâm và trả lời
cho cử tri biết... Rất nhiều bệnh viện quá tải, nhất là Bệnh viện
Nhi Đồng, Bệnh viện Ung bướu, Bệnh viện Từ Dũ... người ta dễ "phát
sợ hơn cả là bệnh" khi nh́n thấy cảnh đông đúc. Quá tải... chắc
khoảng... 300% chứ không phải là vừa.”
Kết luận:
VNCH là một nền dân chủ non trẻ nhưng thật sư là
dân chủ trong cả tư tưởng, chính trị và tôn giáo, giáo dục... Nó
khác xa với tuyên truyền giả tạo của VNDCCH và CHXHCNVN. Nhưng VNCH
đă bị đảng cộng sản lừa bịp nhân dân, ngậm máu phun người để tuyên
truyền họ là chế độ “Ngụy quân, Ngụy quyền”.
Kết luận chung:
Qua các dẫn chứng tôi đă chứng minh hai điều: Mỹ không xâm lược Việt
Nam và VNCH rất tự do và dân chủ. Vậy th́ luận điệu quy kết cho Mỹ
xâm lược Việt Nam là bịa đặt. Và chính v́ không có kẻ xâm lược th́
làm ǵ có kẻ làm tay sai bán nước như cách VNDCCH và đảng cộng sản
ngậm máu phun người cho VNCH - một chế độ dân chủ non trẻ thật sự.
Dẫu rằng quá khứ đă qua, VNCH trên thực tế đă không c̣n tồn tại.
Nhưng trong ḷng những người dân đă từng sống tại miền Nam trước năm
75 và người thân của họ dù sống ở Hải Ngoại hay Việt Nam đều thương
tiếc cho VNCH v́ họ hiểu rơ sự thật về một xă hội tốt đẹp đang h́nh
thành dần theo năm tháng đă bị chính sách “ngậm máu phun người “ của
đảng cộng sản Việt nam bức tử. Và trong bản thân chúng tôi, những
người sinh ra và lớn lên giữa xă hội toàn trị của đảng cộng sản
nhưng cũng đă kịp nhận ra sự thật không phải như đảng cộng sản vẫn
tuyên truyền.
Có thể khẳng định một câu ngắn gọn: VNCH không phải là “Ngụy” mà
chính VNDCCH và CHXHCNVN hiện nay chính là Ngụy khi làm tay sai cho
Trung cộng, Liên Xô và bức hại dân tộc Việt Nam gần 1 thế kỷ. Nhiệm
vụ của chúng ta phải t́m hiểu và trả lại sự thật lịch sử để cho thế
hệ sau phải biết và nhân dân hiểu được bản chất xấu xa chuyên “ngậm
máu phun người” của đảng cộng sản Việt nam.
Như một lời tri ân từ đáy ḷng với những công dân yêu nước VNCH của
một công dân trẻ sống trong chế độ độc tài cộng sản!
Tản mạn cuối năm
H́nh ảnh
đáng ghi nhớ trong năm
Miệng kẻ sang
có gang có thép
Hiến dâng máu !
Xướng xa vô loài
Khinh bỉ
Học làm người
Cái Hộ Chiếu/Thông
Hành
Thất bại hay
thành công
Ngân hàng quân đội
Nói chuyện với Hà Sĩ
Phu
Trái khoáy cuộc đời
Một chế độ hèn hạ
Chữ với nghĩa
Cơm với cá…
Tuyên bố đầy
tính sáng tạo
Chưa hết đu dây
C̣n có t́nh người
không?
Cả tin hay nghi ngờ
Ca sĩ hải
ngoại... Những kẻ bán linh hồn xho quỷ
Sợ hay không sợ
trung quốc
Gây hấn!
Lại nói về lá cờ
Trớ trêu của lịch sử
Các anh, một
chính phủ khốn nạn!
Xin cám ơn Tổng Thống
Obama
Nổ
Nước mắt cá sấu
Bánh ḿ Ai Cập, cá Việt Nam, khát vọng con người
Trách niệm về đâu
Mặc cảm dốt nát
Đâu là sự thật ?
Bệnh Nổ Ở Mỹ Rất Thịnh Hành?
Gần 2
triệu người đă hy sinh cho cuộc chiến, v́ mục đích ǵ?
Văn hóa "Giả Vờ"
Tổng Thống Donald
J. Trump ?
Mừng mùa Xuân dân
chủ!
Tâm lư chính trị
Bắt Ls Nguyễn
Văn Đài là hành động tuyệt vọng của CS
Chuyện ǵ cũng
chấm hết !
Dốt như
chuyện tu, Ngu như tại chức
Bài học nặng kư
Không thể tha thứ
được
Em bé và những viên sỏi
Bệnh "nói dai, nói
dài, nói dở, nói dô diên"
Rường cột nước nhà
Rỗng tuêch rỗng toác
Vẫn chuyện xe cán
chó
Hai cái băy
nguy nhiểm của "Nhớ rừng"
Giá trị của VNCH
30
Tháng Tư, cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát
C̣n ǵ xấu hổ hơn
nữa?
V́ sao
Do Thái không dám không kích Iran?
Ông "cha" Trịnh tuấn
Hoàng
Nói KHÔNG Với Cộng Sản!
Những sự
thật cần phải biết về VNCH
Đập "b́nh" phải đập cái b́nh... phong!
Thăm dân cho
biết sự t́nh
Cái giá của Tự Do
Con chuột và cái b́nh
Đàn ḅ vào thành phố
Tranh quyền đoạt lợi
Làm từ thiện - Nên hay không
Thôi
rồi...
Chuyện biển đông
Quả đại pháo cuối
cùng
Biển Đông dậy sống
Vụ HD 981: Việt Nam
xem xét quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ
Thư trả lời
một bạn Du Học Sinh....
Gửi các anh Quân
Nhân QLVNCH đang ảo tưởng
Tổ Quốc
muốn ta phải kiên cường
Đừng mắc mưu bọn Việt
cộng....
Việt Cộng – Việt Cộng
Một âm mưu thâm độc của Việt
Cộng
Họ là “ngụy”, ta là ǵ?
Việt cộng hóa
Kinh nghiệm
tạo ra kinh nghiệm
Những sự thật
cần phải biết
Giọt nước
mắt cho quê hương
Vơ Thị Thắng và Nguyễn
Phương Uyên, bóng tối và ánh sáng
Muốn Việt Cộng sớm sụp
đổ
Tổ Quốc Việt Nam
- C̣n hay đă mất?
Đồng chí Ếch dốt
chính tả
Đứng chàng hảng
Thời sinh viên ở Sài G̣n
Hăy nói trước ngày
chết
Chuyện cái sổ hưu
Thật giả, giả thật
Bất an
Nhận định về
cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ 2012
Thế hệ của
tôi – một thế hệ vứt đi
Người CS -
Cộng sinh hay kư sinh
Miền Nam sau 37 năm
dưới chế độ CS
Lẳng lặng mà xem...
Chủ nghĩa tư bàn
và chủ nghĩa tư bản đỏ
Không có gí
quư hơn độc lập con c...
Bản án chế độ cộng sản
VN
Phản hồi về bài
báo "Hành động lố bịch" trên báo QĐ...
Thân phận một tù nhân chính trị VN bi quên lăng
Hơi ấm non sông
Mẹ kiếp: Đứa nào bán
nước?
Thêm lần nhắc nhớ
Hào khí Việt Nam – Đáp lời
Sông Núi!
Nhân ngày Quân Lực 19
tháng 6...
Hai câu chuyện
phụ nữ Việt Nam
Tương lai nào cho
đảng cộng sản VN?
Anh hùng dân tộc
Thiên tài đảng ta
Ngọc ở trong nhà
Băi nhiệm và bất tín
nhiệm
Ngày phán xét sẽ đến
Thân phận "cử tri"
và "Đại biểu Nhân dân" ở Việt Nam
Sức mạnh của
Cộng Đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giữa Đạo và Đời
Tiên lăng - Chuyện
không đơn giăn
Triệu
con tim, c̣n triệu khối kiêu hùng
Độc quyền đẻ ra
đặc quyền
Những viên Đạn Hợp
Âm
Đảng là tên
đầy tớ phản phúc!
Cơn băo lốc
Kẻ thù nguy
hiểm chính là thành phần đánh phá cộng đồng
Xuân quê hương
Nhân quyền
trong rừng luật
Nhận lầm đồng hương
Vô tôn giáo
Bạo lực của
cường quyền: Xưa và Nay
Nhân quyền
trong rừng luật
Những người "vọng
quốc"
Chó sói gởi chân
Làm thế nào để
giành lại tự do?
Thử cho biết
Tin nhà nước !
Thế chân hạc mới
tại Á Châu
Thời anh hùng
Đỗ Thị
Minh Hạnh - Giọt nước hay mảnh thuỷ tinh
Tuyển dụng nhân tài
Nghề bán nước
Đạp vào mặt lịch sử
Cái giá của độc lập và tự do
Thêm một chiến sĩ đấu
tranh bị cầm tù
Thằng dân
Người lính VNCH & vành khăn tang Tổ Quốc
Nhận định t́nh h́nh đất nước hiện nay
Núm ruột quê hương
Dép râu và nón cối
của bộ đội Việt Cộng
Khủng bố: Xưa và
nay
Lại viết về
nổi bất hạnh của QLVNCH
Bài học
30 tháng 4
36
năm Quốc hận nghĩ về tâm trạng của tù nhân chính trị
Những ngộ nhận lịch sử
36 năm Quốc hận
tôi nghĩ ǵ?
Nhớ lại nỗi
bất hạnh của QLVNCH
Quốc gia thua để
thắng, cộng sản thắng để thua
Chiến sĩ
VNCH được giải ngũ chưa?
Người lính VNCH
Sáng mắt ra chưa?
Trí tức thổ tả
Giă từ Thiện
và bệnh Mù Loà
Triển vọng
chiến thắng công sản của người Quốc Gia
Tôi là ai?
Xuống đường
Nằm Vùng? Ai? Ở
Đâu?
Lộn xộn tiếng
Việt thời giao lưu văn hóa ở Việt Nam
Mậu Thân, Anh c̣n
nhớ hay đă quên ?
Thiên đàng XHCN
Từ Tunisia, qua Yemen, đến Ai
Cập, bao giờ đến công sản Việt Nam ?
Đàn cá trong ao bác Hồ và những con
chó của Pavlov
Ṭm tem...
Thư gửi Nguyễn
Đắc Xuân
Về chuyện “trong sáng hóa” tiếng Việt...
Tự điển
Văn hoá và con
người
Chuyến xe buưt và khúc
hát người lính mù
Vài suy nghĩ về biểu t́nh
chống văn hóa vận tại Melbourne
Những kẻ thầy đời
Nhạc lính
Tin và không
tin trong xă hội VN
Khi bài hát trở về
Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng
Dương
Ḷng dân đang chuyển ?
Tứ Bất Tận - Tứ Bất Năng
Lê Thị Công Nhân
Nh́n lại
đống rác lịch sử đánh Mỹ cứu nước của csvn
34 năm sau, họ là ai ?
Nh́n Tây Tạng thấy Việt Nam
Chuyện đời...
Đặc công văn hoá miền
Nam
Bài viết từ một người SG
Thư ngỏ gửi
những người trí thức mê sảng...
Tội nghiệp đất nước tôi
Thời thế mới, đấu
tranh mới...
Bao giờ dân Việt trở
thành thiểu số trên chính quê hương ḿnh
Nói với các con tôi
Phiên phiến tuổi già
Hành vi nhỏ... dă tâm lớn
Gà trống và cáo
Xin đừng lăng quên nhà dân
chủ trẻ Lê Trí Tuệ
Thảm trạng người Việt
tỵ nạn tại Cam-bốt
Sao anh nỡ đành quên
Thế hệ già hải ngoại
nên nh́n lại
Khiếp nhược: Nhục và hèn
Tiếng nói từ Mộ Đức
Từ tiếng súng Trần Văn Bé Tư
Ca rao thời đại hcm
Những vần thơ chui
Lê Thị Công Nhân - Người con
cưng của ...
Cũng bởi thằng dân ngu
Chống VC hay TC?
Cái Làn và cái L...
Trông thấy vậy mà
không phải vậy
Thèm
Hăy vất bỏ khối nặng
của tính ác và sự xấu
Chọn lựa
C̣n cờ đỏ sao vàng th́...
Đừng măi lợi dụng "nỗi đau da
cam"...
Lạ và nhạy cảm
Chân dung người vợ
lính
Việt Nam lâm nguy
Gịng sông Bến Hải vẫn c̣n
Giáo dục VN, tội ác băng hoại xă
hội
34 năm nh́n lại cuộc chiến
chống csVN
Nay anh, mai tôi
Chiến dịch hoa hồng đỏ của
csVN
Đêm nhớ về anh
Nhớ Vơ Hoàng
Cái miệng
Từ Lê Văn Thinh
đến Nguyễn Cung Thương
Chuyện phải viết
Vất chanh bỏ vỏ
Tổ Quốc - Danh Dự -
Trách Nhiệm
Mối nhục của một quốc
gia
Lá Cờ
Mơ ước của tôi
Chim hạc và chó săn
Tường tŕnh 10
điểm, Đạo đạt lên LHQ
NK Đặng Thuỳ Trâm - Sản
phẩm dối trá ...
Tóm tắt một số tội ác cs VN
Sự thực về cái gọi là "Đại
thắng mùa Xuân
Bọn cs sợ quan thầy ...
Xin hăy cứu lấy Tổ Quốc
Tâm t́nh gửi đến anh
chị CQN QLVNCH
Đỉnh cao cháy rụi
Mậu Thân, anh c̣n nhớ hay
đă quên
Cảnh giác âm mưu
"tẩy nảo" của Casula Powerhouse
Bệnh "dại" của người Việt
Chuyện Nguyễn Thái Hoàng
Niềm kiêu hănh của người Việt
Chiến dịch "tháng Tư
đen"
Tổng phản công nghị
quyết 36
Kép độc cứu nguy
Thăm nom và săn sóc
nhau lúc c̣n sống
Giặc từ thiện
Tiền nhân...
Những ám ảnh khó tẩy xóa
Tính hay quên của
người Việt tỵ nạn cs
Món nợ nên ghi nhớ
Nên đầu tư cho thế hệ trẻ
Mẹ Âu Cơ - Tiếng thở dài và
niềm an ủi
Trăm trứng trăm con - Một
truyền thuyết
Hai h́nh ảnh - Một sự so sánh
Ông Kỳ "Xuống Cấp"
Tôi thấy và nghe được ǵ ở Sài-G̣n ...