Những bài viết của Bất Khuất

Chuyện t́nh khó quên
May mắn & Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

CON DAO CON CHÓ

Tưởng nhớ anh hùng quốc gia TRẦN HAI và anh em nghĩa quân MỘ ĐỨC

“ Họa, Mô Phật, chú về bao giờ ?” chị Hai thả con dao xắt chuối ngay giữa nhà, trố mắt nh́n tôi”. Tôi chưa biết trả lời sao. Chị nói liên tục gần như không cần câu trả lời. “ Cháu tưởng chú về Tam Kỳ không trở lại đây nữa, thấy chú đây cháu lại nhớ anh Hai”… Chị dừng lại, nước mắt đầm đ́a, đưa vạc áo lên lau mước mắt, chị nói tiếp: “Chú ơi, anh Hai chết thê thảm lắm chú ơi”. Nói đến đây chị khóc thành tiếng.

Tôi ngồi trên cái đ̣n đối diện chị phía bên kia cây chuối, nh́n ra cửa chính phía trước. Tôi cắn môi dưới để đè tiếng khóc. Ngày trước, nói ngày trước nhưng cách đây đúng 34 ngày, ngày đổi đời. Căn pḥng này là pḥng khách, giữa kê hai cái bàn dài ghép lại, hai bên ghế dựa, chen chúc với những chiếc ghế đẩu mặt tṛn. Cách một cái màn, sát vách là bàn thờ sơ sài, ít khi thấy nhang khói. Gần như không sót một trưa chúa nhật nào không có bữa nhậu ở pḥng này. Khách nhậu không cứ ǵ lính trong trung đội của chú Hai, có đủ thành phần, giáo viên công chức có, cả trưởng ty thanh niên, thuế vụ, nhất là các vua gà đá, các tay cờ bạc nổi tiếng trong vùng, đám sĩ quan trong chi khu, nhưng người lớn tuổi là tôi, tuy tửu lượng tôi bị chê trách chế nhạo hoài. Đám dân nhậu này rất hào sảng, vui vẻ, tất cả đều kính nể chú Hai.

Vóc người nhỏ thó nhưng rắn rỏi, cặp mắt to cân xứng với cặp lông mày rậm rạp, nước da đen cháy nắng, làm lộ hai hàm răng trắng thật trắng, và đều đặng. Chú “chưởi thề”, luôn miệng. Ban đầu dân làng khó chịu, nhưng riết rồi cũng quen, đến nổi nghe chú nói chuyện thấy vui vui. Người ta kể hai chuyện giai thoại về chú. Đúng sáng mùng một Tết, các trung đội trưởng chào cờ đầu năm ở quận đường, chào xong chúc tụng gia đ́nh vị thiếu tá đầu quận này. Chú bước vào pḥng khách đông người lớn tiếng bô bô “Đụ má cây mai đẹp quá thiếu tá, cả ngày 30, tôi rông cùng núi “đéo có cái con cặc ǵ hết, toàn mai tứ quí đă tàn hết hoa”. Cả pḥng khách bấm bụng nín cười. Thiếu tá kéo cái ghế mời chú Hai ngồi sát với vợ con nói chuyện vui vẻ.

Chuyện thứ hai, chú lănh lương trên đường về nhà, ghé nhà người lính của chú sát vệ đường. Vào nhà thấy ba đứa nhỏ sinh năm một, đứa lớn chừng 5 tuổi, tay ẵm em đang ngồi thổi lửa, nhưng lửa không cháy, thằng nhỏ vừa thổi vừa khóc, tro bay dính đầy mặt mấy em nó. Mẹ nó đang vội vă giă vài chén lúa để lấy gạo nấu cho các con đang đói khóc lệ nhệ. Chịu không nổi trước cảnh thê thảm của người mẹ và ba đứa bé, chú Hai miệng nói cà lăm, tay rút bóp túi sau : “ Chị.. chị ..chị….mua gạo nấu cho mấy thằng..thằng nhóc” chú để trọn cái b́ thơ đựng tiền lương tiền phụ cấp mới lấy từ quận ra, trên cái đ̣n ghế cạnh bếp, rồi chú bước ra. Mẹ con gia đ́nh người lính nh́n chú ngơ ngác, không hiểu ǵ hết.

Chuyện thứ ba, mỗi lần chú xuất quân, thiếu tá quận trưởng gọi máy dặn kỹ phải giử sống địch, đưa về khai thác tin tức, tiểu khu luôn luôn chỉ thị điểm này, nhưng chú Hai không bao giờ nghe lời. Chú c̣n nói một câu rất hách, để đời :

“Tui..tui..tui….không không quen giữ..giữ.. tù binh”. Về chú, nhiều người phục, nhiều người ghét, nên người ta thêm bớt nhiều chuyện có khi trái ngược nhau, chung qui người ta nể, và ớn sợ chú.

Chị lau khô nưóc mắt trên mặt, giật ḿnh nói: “Để cháu nấu nước chú uống.” Tôi im lặng, khoát tay từ chối. Chị Hai lấy lại b́nh tỉnh, kể tiếp:

“Lúc này dễ rồi chú, những ngày các ổng mới vào kinh khủng lắm, cháu nghĩ anh Hai ảnh chết mà khỏe thân cho ảnh. Những ngày đầu cháu cũng muốn làm một muỗng Mi- tốc cho xong, nhưng nh́n ba đứa con c̣n nhỏ quá, không nỡ đấy chú. Chiều hôm đó, cháu là người chạy sau cùng, cứ chờ ảnh về để ảnh ẵm bớt con cho cháu. Sau cùng cháu bỏ lại hết, chỉ đem theo hai lon sữa quân tiếp vụ, cơng một đứa, bế đứa nhỏ nhất, dắt đứa lớn nhất. Người ta chạy như kiến, cháu không thể theo người ta được, đành men theo mép lề đường. Pháo kích ầm ầm, kệ nó, cháu cứ đi. Đứa con lớn sợ quá nó khóc đ̣i cơng, cháu bực quá tát cho nó mấy tát, làm nó khóc rống lên không chịu đi nữa. Mới hết cánh đồng chừng ba cây số, mệt quá, khát nước quá, cháu chán nản, đành chịu chết, cháu quanh xuống đường ruộng về nhà bà ngoại sắp nhỏ.

Nhà bỏ cửa trống, không đèn lửa, không có ai trong nhà, mấy con chó hay sủa cắn bậy cũng đâu mất. Bỏ mấy đứa nhỏ ngoài sân, cháu chạy vào nhà, th́ mới hay cha mẹ chị em cháu dọn sạch chạy từ hồi nào, chỉ c̣n bà ngoại cháu nằm rên h́ h́ trong buồng trong. Bà thở ph́ phào nói “ Nó đi hồi chiều, bà không chịu đi”…Cháu ở đó hai ngày ba đêm, không (đưa bàn tay ra đếm) tối hăm ba, ngày hăm bốn, tối hăm bốn, đúng hai đêm hai ngày. Thấy im lặng không có ǵ, cũng không c̣n nghe tiếng súng nữa, trực nhớ tối hôm chạy, quên lửng mấy con heo, không tháo chuồng thả nó, cũng không đổ nước cho nó uống cầm xác..cháu vội vă về.

Ban đầu cháu định đi một ḿnh, rồi trở lại, nhưng sợ sắp nhỏ dại ra ao sau vườn, nên cháu dẫn nó về, sau khi để tô cháo với cái muỗng trên đầu giường dặn bà cháu khi đói chờm múc ăn, rồi cháu sẽ trở lại gấp. Nghe nói về, mấy nhóc con mừng quá, nhất là thằng lớn reo lên, về gặp ba nó, sao ba nó mấy hôm nay không về nhà. Cháu nạt nó

“Câm cái miệng chó mầy lại, con nít biết ǵ mà nói” Thằng nhỏ bị la mếu máo chạy theo cháu.

Gần đến nhà, cháu thấy người ta láo nháo đông quá trước nhà cháu ngay ngă ba lên đồn Truông Dốc. Anh Hai cháu ảnh làm đại nhà ở lề đường ngay trước đường lên đồn, để ảnh chay lên chạy về cho gần. Chú biết ảnh mê đồn, thương đồn, hơn thương mẹ con cháu mà. Lại gần, th́ ra lính lẫn lộn với dân, đang trói ba người đàn bà vào một đống, một người đang chắp tay lạy lia lịa. Vừa thấy cháu, trong đám đông la lớn “Con mẹ ác ôn đây rồi, về đây đền tội.” Họ ùa đến cháu. hoảng hốt, không hiểu ǵ hết.

Một người trạc năm mươi, mặt gằm gằm, không nói, đưa tay chỉ cháu, lập tức hai chú du kích dây đâu sẵn trong tay, trói chặt hai cánh tay cháu riết mạnh về phiá sau. Cháu như người chết, không biết ǵ nữa. Ba đứa con cháu nó khóc thét lên, ôm chầm hai ống quần cháu, đứa nhỏ đưa hai tay nhón người đ̣i bế. Người mặt gằm gằm đưa tay chỉ ba đứa nhỏ, một người lính bước tới, dừng lại, nghĩ ǵ.. rồi lại thôi. Cháu bớt hoảng hốt nh́n lại, th́ ba người đàn bà bị trói đang khóc, đang chắp tay lạy kia, là thím Bảy T́nh, bà Thiện mẹ thằng Chín C̣i truyền tin, và vợ anh Năm trung liên, chồng con họ là lính của anh Hai. Họ kéo ba người một xâu đến gần cháu cột chung vào đầu mối dây, trói ké cháu.

Biết chết đến nơi rồi, cháu lại bớt bối rối, hơi tĩnh lại, nh́n ba đứa con khiếp đảm đang quấn chặt hai chân cháu.

Tự nhiên đám đông tản ra, chừa chỗ cho ông chủ tịch xă bước vào. Trời ơi, chú biết không, ông già Năm Xùi làm chủ tịch. Ông già này nghèo lắm, chỉ có đứa con gái điên hay mặc quần áo rách tả tơi, đủ màu, ví trẻ con chạy cùng xóm, bị nghĩa quân bắn chết trong giờ giới nghiêm năm nọ. Ông làm giao thông xă, hay đi loa tin tức của làng. Anh Hai thường cho ổng các lon tiếp liệu ‘thịt ba lát’ quá hạng, ăn không hết, với thuốc Basto xanh quân tiếp vụ.

Ông già này thường vào nhà cháu như người nhà, gặp ǵ ăn nấy. Thế mà theo cách mạng hồi nào không ai biết, nay làm tới chủ tịch xă. Thấy cháu ông ngó lơ chỗ khác. Ông có vẻ mệt mỏi, thiếu ngủ. Ông nói nhỏ ǵ với người chỉ huy trong đám, rồi hai người kéo ra ngoài xa nói chuyện. Một tia hy vọng lóe vào trong đầu cháu. Hai người chầm chậm đi trở vào, h́nh như có cái ǵ hơi làm khó nghĩ cho họ. Nh́n cặp mắt ông già thấy như có cái ǵ dấu kín sự thương hại lo lắng cho cháu. Chút hy vọng của cháu trong nháy mắt tan biến hết. Cháu sợ. Thật sự cháu sợ.

Trời ơi ! chú biết không. Ông già đứng trước mấy người chúng cháu nói lớn: “Mọi người im lặng nghe tôi nói.” Chờ không có một tiếng ồn, chỉ c̣n nghe tiếng ho ho của các ông bà già ngồi lâu dưới nắng chiều oi bức. Ông lên giọng:

“Tôi mới vừa làm việc với đồng chí xă đội, nhất trí đưa mấy gia đ́nh có nợ máu với nhân dân lên đồn Truông Dốc gỡ ḿn của bọn ác ôn. Đây là một khoan hồng của chánh phủ Cách mạng, đạo đức của Hồ chủ tịch vĩ đại, đánh kẻ chạy đi, không đánh người trở lại. Nếu trong lúc công tác cách mạng này, người nào bị ḿn chết hoặc bị thương, th́ được Đảng, nhà nước vinh thăng là liệt sĩ, là gia đ́nh liệt sĩ, có đầy đủ quyền lợi như những đồng chí liệt sĩ ngoài mặt trận.” Ông vừa dứt lời, mọi người vỗ tay như pháo nổ.

Người xă đội trưởng vẫn im lặng, mặt gằm gằm. Hồn vía cháu lên mây. Mắt đổ đom đóm. Cây cối, nhà của, người chen chúc quay tṛn chung quanh cháu, không thấy ǵ nữa. Một người nắm tay cháu kéo đi trước. Cháu đi như một khúc cây được người ta kéo đi, không c̣n ư thức ǵ nữa. Lên cao dần, gió man mát, cháu nhận định được cháu đi gỡ ḿn, cháu đi chết. Chú ơi, tự nhiên cháu tỉnh hẳn. Không thấy con đâu, cháu quanh người trở lại, đám đông dừng từ hồi nào, có lẽ con cháu cũng đứng ở đó. Một thoáng nghĩ, con cháu được sống không bị chết chung với cháu. Cháu mừng hẳn.

Nhưng cháu lại sợ, quá sợ, biết c̣n chừng vài bước nữa là vĩnh biệt con cháu, là cháu chết. Người run toàn thân. Mấy người bị trói đi theo cháu mặt xanh xám xịt như xác chết, run quá, như cái dây trói bị rung dựt. Th́ ra ông xă đội và một du kích dắt chúng cháu lên gần cổng đồn cách chừng trăm thước. Họ dừng lại, chúng cháu dừng lại.

Đường lên đồn quen thuộc, v́ nhiều lần cháu đem cơm cho chồng cháu trong những ngày giới nghiêm, những ngày Tết, chồng cháu túc trực đêm ngày tại đồn dù có lệnh đ́nh chiến đôi bên. Cháu tin chắc chồng cháu đă chạy thoát, và sau này sẽ t́m cách gặp lại các con cháu và nuôi dưỡng dạy bảo chúng nó.

Nghĩ đến đó, cháu hơi yên tâm. Tự nhiên trong người lạnh quá cháu run lập cập. Cháu xác định cháu c̣n giây lác trên cơi đời này. Chú ơi, cháu khóc, cháu tiếc quá, chưa sống bao nhiêu, bây giờ phải chết trong khi chưa tới số phải chết. Chết trong lúc khỏe mạnh, trong lúc thèm sống, trong lúc đang thương yêu chồng con dạt dào. Cháu nghĩ đến cha mẹ cháu, đến bà ngoại mà cháu đă bỏ bà nằm chết trong tẻ lạnh, đơn côi.

Tiếng nói chắc nịch chậm răi của ông xă đội làm cháu trở lại thực tại. Ông đưa tận tay cháu một cái kiềm loại kiềm bấm kẽm gai và bảo: “Chị đi thẳng vào đồn. Đến cổng đồn cẩn thận bọn chúng gài ḿn và lựu đạn. Khi cắt khóa vào cổng chị phải quan sát kỹ, sơ hở là chết. Tôi biết bọn ác ôn này gài ḿn giỏi lắm, ác lắm. Nếu thấy cái dây ǵ nghi ngờ chị nhẹ nhàng cắt đứt. Khi chị vào được trong sân đồn, chị khuyên chồng chị đầu hàng nhân dân, đầu hàng cách mạng, sẽ được khoan hồng như tất cả bọn nguy quân ngụy quyền khác. Chị hiểu chưa, nhớ chưa. Nếu chồng chị ngoan cố, chúng tôi, nhân dân không tha thứ, và quân đội nhân dân sẽ tiêu diệt.”

Cháu hơi hoàn hồn v́ biết không phải gỡ ḿn cả băi ḿn, mà chỉ gỡ ḿn ở cổng đồn, và chính là làm bia đi trước để chồng cháu tử thủ đồn khỏi bắn ra, hoặc cháu làm bia đở đạn cho quân cách mạng đang bao vây chung quanh đồn. Tuy hiểu vậy, cháu vẫn run sợ. Nói xong dặn lại lần nữa, rồi ông xă đội cùng người lính du kích mở dây trói chúng cháu, bỏ chúng cháu, đi trở lại. Th́ ra chồng cháu không chạy trốn, quyết ở lại tử thủ. Chắc chắn chồng cháu sẽ nghe cháu để bắt đầu làm lại cuộc đời, có chồng có vợ, có cha có con, sống an phận như những bà con xóm làng ở nông thôn.

Bổng tiếng loa bốn phía réo lên xé tan không khí im lặng rùng rợn, chết chóc. Tiếng loa kêu gọi chồng cháu đầu hàng, để được khoan hồng. Tiếng loa báo cho những người tử thủ trong đồn biết, bốn người đàn bà sắp vào đồn là vợ của trung đội trưởng ngụy quân, và vợ đám ngụy quân c̣n ngoan cố ở trong đồn. Nếu không bỏ súng đầu hàng, th́ quân đội nhân dân không tha thứ, và sẽ san bằng, biến thành mồ chôn đám ngụy quân ngoan cố, và vợ con gia đ́nh có nợ máu. Loa gọi lung tung, làm cháu hoảng hốt lo lắng, đừng bày những nghĩa quân trong đồn nhất là chồng cháu nổi nóng nổ súng th́ hết cứu chữa.

Cháu hồi họp quá. Đang bước từng bước chậm để kéo dài những phút chót của cuộc đời, cháu lại vội vă đi nhanh hơn, nhưng mấy người sau cháu như họ đă chết hồi nào chỉ c̣n các xác không hồn lê theo cháu. Thật tội nghiệp cho họ, chú ơi, cháu muốn bảo họ nằm xuống ở lại, một ḿnh cháu hy sinh vào cũng đủ, nhưng h́nh như họ không hiểu ǵ hết, và họ vẫn theo cháu đi.

Đến cổng cách một thước tây, cháu đứng lại quan sát. Cháu nín thở trừng mắt quan sát rất cẩn thận, không thấy một cái ǵ khả nghi, không một sợi dây, không một dấu đất mới lấp. Hai cánh cửa làm bằng kẽm gai buộc chặc bằng cái xích sắt, khóa bằng một cái khóa lớn bên trong. Ban đầu định cắt ống khóa, nhưng không dám chờm vào trong, cháu lại định bấm kẽm gai, chun vào, nhưng cũng thấy trở ngại, nó sẽ rung cánh cửa và biết đâu nó động nó nổ th́ xong đời. Miệng vừa nói “nằm xuống!” như một lệnh, tay cháu chận đầu ba người theo cháu nằm xuống để cháu cắt kẽm gai. Ba người nằm rặp mặt úp sát đất.

Chú ơi, cháu vừa đưa cái kiềm vào sợi kẽm gai ngoài cùng, tay run quá, cháu bấm không được. Cái kiềm tuột tay rớt xuống đất, cháu nhắm mắt, nằm xuống, hứng tiếng nổ, nhưng không thấy ǵ hết, cháu ngóc đầu lên, trời ơi ,chú ơi, cháu thấy cái cửa nhỏ một bên vừa đủ một người đi qua bỏ trống, không khép cánh, h́nh như có ai ra vào quên đóng cửa nhỏ bên hông. Cháu mừng quá, không lượm cái kiềm, cháu chạy đại qua cái cửa bỏ ngỏ này vào trong, an toàn.

Cháu lại dừng lại, sợ bên trong bắn ra. Dừng lại la lớn: “Anh Hai, em đây, em Huyền đây, đừng bắn, em đây, em Huyền đây.. la lớn, hét lớn, không thấy động tỉnh ǵ hết. Cháu vừa vào vừa la lớn mắt đăm đăm lên cḥi gát cao, nơi đặt trung liên, không thấy bóng dáng ǵ hết. Tất cả im lặng một cách rợn người. Lá cờ vàng ba sọc vẫn phất phới trên chót đỉnh. Nh́n xuống bồn cột cờ, trời ơi, từ xa cháu đă nhận dạng anh Hai đang nằm. Như điên như dại, cháu chạy ùa tới la lớn anh Hai anh Hai! Chú ơi!, th́ ra anh Hai chết từ hồi nào, chú ơi ! đầu vẫn đội nón lưởi trai ngă quẹo qua một bên, cả thân người nằm cong queo trên bục cấp bồn chân trụ cờ. Khẩu súng lục rớt sát bên ngực, máu từ ngực chảy ra đă đông cứng màu thẩm đen. Cháu ngă người lên xác anh Hai bất tỉnh .

Mấy bà chạy sau cháu đở cháu dậy, nói cho cháu biết anh Hai đă chết rồi. Cháu hoàn hồn, bảo mấy bà chạy ra ngoài tin cho mấy người ngoài đồn biết trong đồn không c̣n ai chỉ có xác chết anh Hai. Họ đi ra lâu lắm, không thấy động tỉnh ǵ. Th́ ra anh Hai tự tử bắn vào tim toát một lổ lớn xuyên qua lưng máu chảy nhuợm đỏ xẩm vạt áo trước, súng rớt bên cạnh, kiến bu đầy người mà cháu không biết.

Mắt anh như không khép kín lại được, da anh xám như ch́. Cháu rút cái ví ở túi quần sau, một cái dao xếp trong túi quần dưới ống chân. Lính bên ngoài thận trọng tiến vào, súng lăm lăm lục soát quanh đồn, một số bao vây xác chết anh Hai. Một người lính dựt cái ví và con dao trong tay cháu, rồi bỏ con dao lại, lấy cái ví, nói với cháu để điều tra.”… Kể đến đây chị như kiệt sức, không c̣n nói được nữa, úp mặt vào hai bàn tay khóc nức nở.

Tôi an ủi chị. Hai chân tê cứng, tôi gắng đứng dậy vào bàn thờ thắp cây nhang. Không thấy ảnh anh Hai tôi hỏi nho nhỏ: “Không có ảnh trên bàn thờ” Chị nín khóc:

“Không có, mấy ngày vắng nhà, họ dọn sạch, không c̣n cái chén ăn cơm, không c̣n cái gáo múc nước. Hôm chạy cháu bỏ lại hết, chỉ lo ba đứa nhỏ thôi, khi về c̣n cái nhà trống.

Thấy cái dao con chó đặt trên cái dĩa trên bàn thờ, tôi nhè nhẹ cầm lên, nước mắt tôi tuôn chảy, tôi khóc. Chị liền nói: “Chú là người thân nhất, người chết sống với chồng cháu, nên chú giữ lấy con dao, kỷ niệm duy nhất của anh Hai. Ở đây nhà có ba đứa nhỏ cháu sợ nó lấy chơi bậy bạ rồi bỏ mất, hoặc nguy hại cho nó. Chú giữ giùm cho cháu đi. Chú là người đáng giữ kỷ niệm của anh Hai. Tôi cẩn thận bọc con dao trong túi quần, rồi lặng lẽ ra về. Chiều xuống, yên lặng, nặng nề như thường lệ, không có ǵ đổi thay.

Từng bước chầm chậm, thẫn thờ theo con đường ṃn về nhà cũ. Một vài người ngoài đồng về trễ dáng đi nặng nề mệt mỏi. Tôi men theo đường ruộng đi tắt về nhà tôi ở cách xa con lộ ch́m khuất trong hàng tre xanh đen của buổi chiều mặt trời vừa tắt. Bước vào sân nhà tôi không ngạc nhiên v́ chị Huyền vợ anh Hai cho biết gia đ́nh tôi đă về Tam Kỳ, quê ngoại. Tôi lặng lẽ ṿng cửa sau vào nhà. Trong nhà chỉ c̣n cái bàn thờ cha tôi, một ít đồ lặt vặt dưới bếp. Cái ṿ nước uống, đầy nước. Cái gáo dừa úp trên miệng ṿ.Tôi ực ực một hơi mấy gáo nước mát lạnh. Bụng no cứng. Tỉnh táo hẳn.

Ngồi trên chiếc đ̣n ghế dựa lưng vào vách ở nhà bếp tôi cảm thấy dễ chịu qua một ngày uể oải. Cấn cấn ở túi quần tôi móc lấy con dao của anh Hai. Tôi bổng cười lên tiếng, nước mắt tôi lại tuông ra,

“Được, Được!, xứng đáng là anh Hai, xứng đáng là anh Hai, người hùng Truông Dốc, người hùng nghĩa quân, ngựi hùng quốc gia.”

Có lần anh Hai tâm sự với tôi anh quí con dao này hơn bất cứ thứ ǵ trên cơi đời này. Anh bảo nó đă cứu mạng anh biết bao nhiêu lần trên cuộc sống bụi, hư hỏng của anh lúc c̣n nhỏ, lúc ở cầu Muối, ở cầu Ông Lănh Sài g̣n. Anh bảo anh gốc người Núi Sập, Châu Đốc. Năm anh mười tuổi. Trong một đêm tối trời, nửa đêm, người ta ào ào vào nhà cha mẹ anh giết sạch cả nhà. Cha mẹ anh bị chặt đầu trước sân. Con em kế anh bị đâm ḷi ruột vứt xuống ruộng trước nhà. Anh may mắn tối đó ở nhà ông Bác bên cạnh nghe cải lương khuya quá, ở lại ngủ, không về, nên c̣n sống sót.

Ông bác không muốn anh ở quê nhà thù oán, nên đưa anh lên Sài g̣n ở mướn giúp việc nhà cho người bạn ở kho Năm, Khánh hội. Anh nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ em, khóc suốt ngày, không chịu làm việc. Bà chủ la rầy không có kết quả, nổi giận bà đánh cho mấy tát tai. Tức quá, anh hết khóc, ăn cắp cái đồng hồ đeo tay của bà chủ và con dao xếp lưỡi, hiệu con chó, cán mở ra xếp vào, có cả cái ḷ xo xoắn mở nút chai. Bỏ nhà ra đi, nhập bọn con nít ăn xin ở chợ cầu ông Lănh. Anh cho biết anh ốm gầy, đen thui, nhưng rất khỏe. Bọn ăn mày lớn tuổi hơn, nạt nộ ăn hiếp anh, không ngần ngại anh đâm cho một lưởi dao thấu bụng. Rút dao, lau máu, dấu trong quần chạy trốn lên chợ cầu Kho, an toàn.

Ở đây anh nhập bọn chú sáu Lỳ đi ăn xin ăn cắp, chiều về đóng “tiền xế” cho chú. Hơn một tháng anh bực bội quá tiền kiếm cả ngày không đủ cúng lên cho Sáu Lỳ. Vô cớ, đang vui vẻ trước sáu Lỳ cùng đồng bọn, anh rút dao nhanh như chớp, đâm túi bụi vào bụng tay trùm anh chị này. Tướng dềnh dàng to lớn sáu Lỳ không kịp la lên một tiếng, ngă quị như cây chuối bị đốn, máu chảy đầy chợ. Bọn ăn mày cút mất dạng. Khi cảnh sát đến th́ Sáu Lỳ c̣n là cái xác không hồn.

Người trong chợ vui mừng đỡ được cái nạn cướp bóc, cảnh sát nhẹ người khỏi cần điều tra. Nhưng anh Hai lại trốn về lại cầu ông Lănh. Bọn du côn cầu ông Lănh lại tôn anh làm đại ca, lúc ấy anh mới có mười lăm tuổi. Anh cho tôi biết sở dĩ có nhiều thằng gan ĺ khỏe hơn anh nhưng vẫn bị anh đâm, v́ thấy một tên bụi đời nào có vẻ nghênh nghênh trước mặt anh là anh đâm liền không cần nguyên cớ. Anh nói “Đụ đụ mẹ nó nghinh nghinh là …là..tui..tui cho một nhác dao ngay, rồi chạy, cảnh sát…đéo ..đéo.. làm cái cái con cặc ǵ”. Anh c̣n cho biết mỗi lần đâm được tên nào, rồi bỏ tẩu, khi b́nh tỉnh lại, anh liền khắc một vạch sâu vào cán dao con chó này. Anh đưa tôi xem cán dao của anh khắc ngang dọc đếm không xuể. Đó là thành tích giang hồ của anh, sau khi gia đ́nh bị thảm sát.

Năm 17 tuổi, anh t́nh nguyện đi lính biệt động quân. Anh kể cho tôi nghe đêm anh từ giả bạn bè, có cả bạn gái giang hồ, tại chợ Cầu Muối đường Nguyễn thái Học Sài g̣n. Anh gọi là “đêm Tắm rượu”, thật là hào hùng, như những vị anh hùng trong Thủy Hử. Anh rất khoái trá khi kể cho bạn bè nghe những chuyện trên và nhất là cái đêm tắm rượu mà anh nghĩ rằng không bao giờ có thể có lại.

Khi anh kể cho tôi nghe những trận đánh của anh khi anh ở biệt động quân và anh chỉ những vết sẹo trong người anh, tôi mới thấy rằng những thành tích chiến trận của tôi mà lâu nay tôi và bạn bè tôi tự hào, không thấm vào đâu. Anh nói với tôi, và tôi cũng chứng kiến nhiều trận có tôi tham dự khi tôi về làm trung phó của anh. Rất ngạo mạn anh bảo :

“Thằng Hai này, suốt đời binh nghiệp, ra trận chưa bao giờ và sẽ không bao giờ nằm.” Quả như vậy nên nhiều người bảo anh có bùa ngải, tôi không tin. V́ điểm can trường liều lĩnh chưa ai có, nên cấp trên rất cưng chiều anh, nhất là các vị quận trưởng luôn o bế và gần như dành cho anh một qui lệ riêng.

Tuần lễ cuối cùng, trung đội tôi đào ngũ hết 5 người. Bọn nó trốn cùng với gia đ́nh di tản trước. Anh nổi điên bảo tôi đi kiếm bọn nó về cho anh bắn treo xác lên cột cờ để cảnh cáo bọn hèn nhác trốn không dám chiến đấu. Anh gầm thét như con hổ đói, làm chúng tôi sợ sợ anh làm ẩu.

Tôi luôn an ủi xoa dịu anh, nhưng gần như không hiệu quả. Một hôm thằng Hưng, hỗn danh là “ Năm trung liên” nhớn nháo vừa bước vào đồn nói đài Hoa Kỳ mới nói quân đội quốc gia rút lui, Quảng trị bỏ ngỏ, và người ta tiên đoán tổng thống Nguyễn văn Thiệu, đại tướng Trần thiện Khiêm chuẩn bị chở vàng đi trốn ra nước ngoài. Vừa nghe thằng Hưng nói tôi liền chận nó lại, bảo đừng vào trong và câm miệng đừng phát ngôn bừa băi, nhưng trễ quá rồi, anh Hai nhào tới đánh túi bụi thằng Hưng, rút súng lục định bắn tôi nhào tới ôm chặt anh Hai, tôi vật với anh một hồi, anh em đuổi thằng Năm trung liên ra ngoài và xúm nhau năn nĩ anh Hai bảo nó nói bậy không có việc đó. Anh Hai nói phun nước bọt cà lăm cà lặp: “Tui…tui..bắn bể óc thằng chó ..chó..chó nào nói xấu quân..quân…đội đội đội, thằng chó chó nào nói xấu tổng thống.. thống..” Tôi đi dặn từng người một, không được nói tin tức, dù nghe trong ra di- ô trước chú Hai.

Nếu không theo lời tôi, bị chú bắn chết rán chịu. Chú đă từng bắn chết nhiều người rồi, mới t́nh nghi là địch, chú bắn ngay, không cần xem lại. Từ hôm đó, bọn chúng không đứa nào dám lảng văng trước mặt chú Hai, như con cọp điên.

Ngày 23, ngày định mệnh, ngày cuối cùng, trên đồn Truông Dốc c̣n có tôi và chú Hai. Tôi nghe thầm thầm trong radio, đài BBC, đài VOA, tôi biết chắc t́nh thế quá nguy ngập. Quảng trị thất thủ. Huế thất thủ. Đà nẵng di tản. Nhất là lời tường thuật về sự tháo chạy của quân đoàn II, Pleiku, c̣n hơn sự tháo chạy của quân Đức quốc xă mặt trận Tây Âu, khi Hitler đă tự tử.

Tôi định khuyên chú Hai nên rút lui để tránh sự tàn sát của địch, nhưng không thể mở miệng v́ trước cặp mắt đỏ như máu của chú và tay lăm le khẩu súng Col 12. Tôi sợ, thật sự tôi nể sợ chú, như nể sợ một vị anh hùng ở phút thác loạn. Mấy lần định nói, nhưng lại thôi, v́ tôi nghĩ một băng 6 viên đạn Col đỏ chói sẽ xé nát đầu tôi, trước khi đồn thất thủ.

Bổng chú kêu tên tôi, rồi chú ra bồn trụ cờ, ngồi ở bậc trên cùng. Tôi theo chú. Chú bảo, lần này chú nói rất chậm không cà lăm. Lần đầu tiên tôi nghe chú nói không cà lăm cà lặp. “Chia tay chú, chú về đi, ra cổng khép kỹ, gài cho tôi mấy quả lựu đạn. Nhớ nhé, nhớ gài lựu đạn, chào chú”. Tôi quá bất ngờ, sửng sốt như bị thôi miên, tôi không nói được một tiếng nào ở giờ phút khủng khiếp ấy. Như cái máy, tôi ra cổng trước, khoá kỹ. Tôi dừng một lát. Trăng mờ mờ trong mây. Dưới xa, dưới lộ xa đoàn người di tản khi chiều c̣n tiếp tục. Tôi bất tuân lệnh. Tôi không gài lựu đạn, nghĩ rằng, biết đâu để cửa an toàn cho chú chạy khi cần trong đêm nay. Có lẽ rối trí tôi quên khép cánh cửa nhỏ bên hông, v́ tôi không trở lại nữa.

Tiếng máy bay trực thăng bay rất thấp. Trên trời, lệnh của đại tá tỉnh trưởng nghe rơ mồn một, “Tôi, đại tá tỉnh trưởng ra lệnh cho các quận trưởng, các trưởng đơn vị quân đội, tự động di tản cùng với đồng bào, không chờ lệnh thượng cấp nữa.” Có lẽ lúc đó là giờ phút bi thảm tuyệt vọng nhất của vị anh hùng Trần Hai, kết thúc cuộc đời ngang dọc sau khi nghe lệnh từ không gian tỏa xuống.

Nguyễn Liệu
Nguồn Quảng Ngăi Nghĩa Thục

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên thần
Với tàu định mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác chết trên băi biển  
Những món nợ khó trả  
Nếu có thể đi về quá khứ...  
Người đưa tin... độc địa  
Chị Agnès 
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6 tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của một dân tộc
Bài thơ của một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn  
Ơn em  
Người vợ lính  
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận 
Ngày người tù binh trở về!  
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam  
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc  
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  
Cong lưng vẫn gánh  
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh chiến  
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH  
Những tên vc nằm vùng

Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng

Kẻ bại trận nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc - Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"

Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa  
Tonle Tchombe (Tống Lê Chân)  
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến  
Không bỏ Anh Em, không bỏ Bạn Bè  
T́nh người trong cuộc chiến
Trận chiến Đại Phú  
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới  
Tâm tưu của một thằng lính ngụy  
Tao là Ngụy!  
Những kẻ mở miệng là phát ra tiếng "Ba Que"

Ba mươi tháng tư năm xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ

Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh  
Khi rừng chưa thay lá  
Bạn xưa 50 năm cũ  
Cuộc hành tŕnh  
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn…
 
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết Mậu Thân  
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng  
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất  
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị  
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci

Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng

Người Việt Nam đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu thời
Chân dung ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974