Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Buổi tối của một ngày đầu tháng 8 năm 1969, khi tôi đang ngồi xem
những tấm ảnh màu đám cưới gửi từ Mỹ về, xắp xếp để làm một cuốn
album, th́ nghe tiếng chuông cửa. Tôi ra mở cửa, hết sức ngạc nhiên
khi thấy Carl và anh Huân là hai người ở Sở trước mặt. Anh Huân làm
pḥng tối, phụ trách về rửa phim, in h́nh và Carl vừa là phóng viên
vừa là nhiếp ảnh viên. Cả hai người này chẳng bao giờ đến nhà tôi
vào giờ này, càng chắc chắn là không phải gọi tôi đi làm. Tôi lúc đó
làm thư kư cho hăng Thông Tấn The Associated Press, công việc của
tôi là lo tất cả những việc linh tinh cho hăng: Từ phát lương cho
nhân viên, giữ sổ chi thu, mua bán h́nh ảnh, thư kư cho ông chánh
văn pḥng, đi nghe họp báo bỏ túi, v.v. Những việc này không bao giờ
phải làm cuối tuần, cũng như không bao giờ làm ca đêm.
Cả hai người bước vào buồng khách, cả hai nh́n tôi, rồi cả hai nh́n
nhau, không ai muốn là ḿnh nói trước. Tôi linh tính có điều không
tốt, nhưng không hiểu chuyện ǵ. Cuối cùng Carl nói:
“Sở nhận được điện thoại từ Rạch Giá gọi về chiều nay, nói là Cung,
chồng của cô đă tử trận.”
Tôi đứng ngẩn người, nh́n lại cả hai, không nói được tiếng nào, Carl
nói tiếp:
“Suốt từ chiều, chúng tôi liên lạc được với Rạch Giá (Kiên Giang),
xác định tin rơ ràng, có gọi điện thoại nói chuyện với bà giám thị
của đại học xá Trần Quư Cáp, mẹ Cung, cụ cũng nhận được tin rồi.”
Tôi ngồi xuống hai gót chân ḿnh, không nghe được ǵ tiếp, ngoài
tiếng xôn xao của cha, mẹ và gia đ́nh.
Chúng tôi mới cưới nhau sau lễ Phục Sinh vào tháng Tư, Cung tử trận
30 tháng 7, năm 1969. Cung không phải là quân nhân chính gốc, anh
tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, ban Pháp Văn và đă đi dạy được 1 năm,
anh bị gọi trong chương tŕnh Tổng Động Viên. Khi nhận giấy báo phải
nhập ngũ, anh đến xin cha mẹ tôi cho làm hôn thú, v́ sợ sau này sẽ
khó khăn khi ở quân đội. Trên giấy tờ, tôi có chồng từ tháng 6-1968.
Lúc làm đám hỏi chú rể tương lai không có mặt (đang đóng ở chi-khu
Trà Bồng) chỉ có mẹ chồng mang trầu cau sang. Nghĩ cũng tủi thân,
nhưng thời chiến mà, làm sao được.
Sau đám cưới, Cung về đơn vị, tôi vẫn ở nhà với cha mẹ, đợi Cung
được biệt phái về dạy học lại, (Bộ Giáo Dục hứa sẽ cho các giáo chức
được về vào tháng 10/1969) rồi sẽ ra ở riêng.
Chiếc máy bay vận tải Mỹ đáp xuống phi trường B́nh Thủy, Cần Thơ.
Người phi công phụ quay xuống nói với anh trai của Cung và tôi, đang
ngồi cạnh chiếc quan tài.
“Chúng tôi rất tiếc là phải thả hai người và quan tài xuống đây, v́
đây là máy bay quân đội Mỹ chở dầu, chúng tôi chỉ đi tới Cần Thơ chứ
không về đến Sàig̣n.”
Đuôi máy bay mở ra, một chiếc forklift tiến đến trục quan tài ra
khỏi máy bay để giữa ḷng phi đạo. Anh chồng tôi dặn:
“Em đứng đây, anh vào gặp ông xếp của phi trường này may ra được
giúp đỡ.”
Buổi trưa tháng Tám, mặt trời tóe những chùm nắng rát bỏng, chói
chang trên sân bay, cái sân bay rộng lớn chổng chơ một chiếc áo quan
có phủ xộc xệch lá quốc kỳ, mấy giọt nến đóng thành mảng khô cứng
trắng đục trên màu vàng của lá cờ, một vài chiếc lá quăn queo sót
lại của ṿng hoa chiều qua c̣n dính ở đó.
Tôi tự thấy ḿnh bé nhỏ, mỏng manh trong chiếc áo dài màu xanh nhạt,
áo nhầu nát, tóc bơ phờ, mặt ngơ ngác đứng nh́n chung quanh ḿnh.
Cái sân bay trông sao mông mênh thế mà cái áo quan th́ bé tí, tôi
đứng bên cạnh trông lại càng bé hơn. Sân bay không một bóng người,
vài ba chiếc máy bay quân sự đậu rải rác bên cạnh những phuy dầu
chưa kịp xếp vào kho. H́nh như đă có mùi hôi bốc ra từ áo quan, tôi
đứng lui ra một tí nữa, xoa tay lên ngực, thấy ḿnh nghẹt thở, ngực
nặng và đau buốt, đau thấu xuống tận bụng, tôi muốn ngất đi.
Hai ngày, một đêm ở Kiên Giang đă làm tôi đuối sức. Tôi có làm ǵ
đâu. Tôi chỉ không ăn, không ngủ, không khóc, không cả vệ sinh. Chắc
trong người tôi không c̣n nước. Bà mẹ chồng một bên, ông anh chồng
một bên, họ đổ sữa ông Thọ cho tôi. Bà mẹ chồng tôi thật giỏi, bà có
kinh nghiệm với chiến tranh, kinh nghiệm với chết chóc, nên đi đón
xác con mà bà c̣n nhớ đem theo hộp sữa ông Thọ cho cô con dâu tiểu
thư, cô con dâu c̣n mới như vuông lụa chưa thêu.
“Con uống đi. Con mà gục xuống đây nữa th́ mẹ biết nói làm sao với
cha mẹ con.”
Tôi không uống được, cái mùi tử khí trưa nay của mấy chục cái xác
xếp chất lớp trước cửa nhà xác vẫn ràn rụa trong thân thể tôi. Nó
phủ chụp từ đỉnh đầu xuống hai bàn chân, khi tôi len lỏi bước qua
những xác lính bên ngoài để vào bên trong chỗ người ta để xác sĩ
quan. Tôi đă phải bước qua từng cái túi có bọc thây người ở trong,
có cái tḥi hai bàn chân c̣n nguyên đôi giầy sau ra một đầu, có cái
th́ ḷi ra ở đầu kia một đỉnh tóc bết đất, có cái tḥ nguyên một
khuôn mặt tái mét vàng khè có mấy con ruồi đậu trên đôi mắt chưa
khép kín hẳn. Tôi đi theo bàn tay dắt của người anh chồng, xúc động
và kinh hoàng đă làm tôi không c̣n cảm giác nữa. Không biết tôi có
dẫm phải ai không. Tôi cố gắng không dẫm lên những người đàn ông nằm
đây. Vào được đến bên trong th́ tôi có nh́n thấy ǵ đâu. Tôi chỉ
nghe tiếng bật khóc của mẹ chồng, tiếng anh chồng bảo “Đúng là Cung
rồi.”
Tôi thấy h́nh như tôi được bế lên, được đặt ngồi xuống một cái bậc
thềm, gió ở sông thổi vào mặt tôi, giúp tôi tỉnh lại, tôi mở mắt ra,
nh́n xuống. Tôi thấy một gịng nước đục chẩy lờ đờ bên dưới. Th́ ra
nhà xác của bệnh viện Kiên Giang nằm sát cạnh bờ sông. Tôi không dám
nh́n vào những người đàn bà đang đi lật từng cái poncho quấn thây
người để t́m chồng, t́m con họ trước cửa nhà xác. Tôi thấy tôi c̣n
may mắn hơn họ.
Người ta đem xác Cung về trại gia binh tiểu khu để làm lễ. Tôi được bày
đứng cạnh áo quan cho ông Phó Tỉnh Trưởng đọc diễn văn, trong khi
ông đọc th́ tôi đứng nh́n mấy cây nến chẩy, nh́n ṿng hoa đă bắt đầu
héo, có cả chén cơm đă khô và quả trứng luộc có mấy con ruồi bay lên
bay xuống, tàn nhang rơi phủ đầy trên đó. Ông Phó Tỉnh đọc diễn văn
xong, hấp tấp ra về. Chắc ông hơi thất vọng v́ không thấy tôi khóc
để có dịp nói lời an ủi. Mấy người vợ lính trong trại gia binh, chạy
sang thăm hỏi, mấy đứa nhỏ con lính chạy loanh quanh áo quan với mấy
con chó gầy trơ xương, trụi cả lông, cái áo chúng mặc ngắn cũn, bụng
ỏng ra ngoài, mũi tḥ ḷ cũng chẳng chùi. Chúng tṛn mắt nh́n mấy
người Sài G̣n, mặt mũi có vẻ khang khác với nhưng người trong trại
lính nầy. Có người cũng từ xa đến chưa t́m ra xác chồng, xác con đến
hỏi han bà mẹ chồng tôi với con mắt nặng trĩu và gương mặt thất thần.
Tôi đứng đó lơ mơ nghe lao xao những tiếng nói chồng lên nhau, mỗi
người kể một cách, giống như ở nhà tôi mỗi khi đi xem một cuốn phim
về, chị em tôi vẫn thường tranh nhau nói như thế. H́nh như họ nói về
trận đánh ngay ở xă Vĩnh Thanh Vân. Xă này, tôi không biết ở đâu
nhưng chắc là rất gần. Họ nói đánh ba bốn hôm rồi, và vẫn c̣n đánh
nên xác không kéo ra hết được, phải ngồi chờ thôi. Cứ ngồi chờ thế
nào cũng gặp, họ bảo nhau.
“Không thấy người th́ thấy xác. Thế nào cũng gặp mà!”
Người anh chồng th́ thỉnh thoảng lại biến mất, không biết đi đâu,
chắc là đi t́m cách đưa mọi người về nhà. Tôi thấy trong những người
đi nhận xác chỉ có 3 người trong gia đ́nh này ít khóc nhất.
Bà mẹ chồng tôi th́ vừa mếu máo vừa lo xin nước sôi pha sữa cho con
dâu uống. Con bé này vốn đă gầy, hai hôm rồi nó chẳng ăn, chẳng nói
ǵ làm bà phát hoảng, giá nó cứ khóc sướt mướt như mấy người vợ lính
đang khóc ngoài kia th́ bà lại đỡ lo. Không biết c̣n kẹt ở đây đến
bao giờ? Bằng vốn liếng tiếng Pháp bà nói chuyện với một ông sĩ quan
Mỹ cho bà quá giang máy bay quân sự về Sàig̣n, rồi bà sẽ thuê máy
bay dân sự xuống đây đón mấy đứa con.
Bà giỏi lắm. Mấy chục năm trước, c̣n trẻ măng mà bà đă một ḿnh thuê
đ̣ ở Nam Định đi t́m chồng. Chồng bà đang đêm được Việt Minh đập cửa
mời đi, rồi cả tháng không thấy về. Ông được mời v́ lúc đó ông có
một ngôi trường nhỏ dạy học tiếng Pháp ở Nam Định. Bà đi đ̣, đi bộ
cả bao nhiêu cây số, đến tận chỗ không ai dám bén mảng đến hỏi tin
tức chồng. Họ bảo về đi, bắn chết rồi. Bà lại thuê đ̣ về, tính ngày
đi của chồng dùng làm ngày giỗ v́ bà không biết ông bị xử bắn vào
hôm nào. Mấy hôm sau bà bỏ nhà ở Nam Định, dắt ba thằng bé, đứa lớn
nhất chưa quá 10 tuổi t́m đường ra Hà Nội. Đi làm, nuôi con ăn học.
Rồi lại dắt con di cư vào Nam. Ai làm được ǵ th́ bà cũng làm được
như vậy. Bà cũng khóc chứ. Nhưng nước mắt th́ vốn chóng khô v́ nó
không chảy hết ra một lúc, nó chảy rỉ rả ít một. Chảy suốt một đời.
Cô con dâu bà mới cưới được có ba tháng, c̣n trẻ lắm, lại chưa có
con, đi đón xác chồng lại có mẹ chồng, anh chồng bên cạnh. So với bà
cô c̣n may mắn chán.
Mà đúng thật, bà mẹ chồng tháo vát của tôi số khổ hơn con dâu. Bà
xin lên được máy bay về trước các con một hôm th́ cũng bị thả xuống
phi trường B́nh Thủy đêm hôm đó, máy bay không về đến Sài G̣n. Một
cơn mưa tháng Tám bất chợt ập xuống làm bà ướt sũng, thất thểu t́m
một nhà thờ vào xin ngủ qua đêm, bà không cần khóc nữa, trời đất
khóc hộ bà rồi. Sáng hôm sau bà đi xe đ̣ về Sàig̣n. Trong khi đó th́
các con của bà: Con sống, con chết cũng bị thả xuống chỗ mẹ ngày hôm
qua, nhưng không phải buổi tối mưa sũng nước mà một buổi trưa đầy
nắng.
Cuối cùng th́ cũng đưa được quan tài về Sài G̣n. Khi xuống đến phi
trường Tân Sơn Nhất th́ cả người và cảnh trông thật bắt mắt. Nếu có
cần quay một cảnh phim cho chiến tranh th́ hay quá. Cái quan tài
cũng không cần phải trang trí cho ra vẻ tang thương hơn nữa. Lá cờ
phủ trên nó nhầu nát, xộc xệch, cô đơn, đă đủ vẻ tang thương.
Hai nhân vật thất thểu xác xơ đứng cạnh không cần phải hóa trang hay
diễn xuất, họ đi đứng như người mất hồn, ngơ ngác, thất lạc, rơi ra
từng mảnh như những người lính vừa bại trận trở về. Cứ dựng máy quay
phim lên, quay họ như thế vào phim cũng tuyệt lắm rồi.
Sau nầy tôi nghĩ lại vẫn tự hỏi. Tại sao lúc đó mà ḿnh tỉnh khô như
vậy, sao ḿnh không phát rồ, phát điên, không đập đầu vào tường?
Cả trăm câu hỏi cứ chạy lung tung trong đầu tôi bao nhiêu năm trời.
Một chiếc xe nhà binh đón chở áo quan từ phi trường đến nhà xác bệnh
viện Grall. Đă bảo bà mẹ chồng tôi là người tháo vát mà! Bà c̣n xin
được miếng đất chôn Cung trong Mạc Đĩnh Chi để bà thăm viếng cho
tiện, chứ lên tận Nghĩa Trang Quân Đội th́ làm sao bà có thể đi thăm
thường xuyên được.
Họ cho Cung đi qua nhà, dừng lại cho Cung nh́n chỗ ḿnh đă sống, đă
lớn lên một lần chót. Chẳng biết ai là người nghĩ ra cái tục không
được chết ở nhà th́ phải ghé qua nhà trước khi ra đi hẳn mà hay thế!
Tôi thấy những người lân cận và một vài người họ hàng đă đứng chờ
sẵn trước cửa nhà. Họ nh́n tôi, nh́n quan tài như xem phim chiếu
chậm, họ quen quá rồi cái cảnh nầy những năm gần đây. Tôi c̣n trẻ
quá, họ nghĩ. Thế nào rồi cũng quên đi, cũng lại lấy chồng, chỉ tội
cho bà mẹ anh ta.
Họ nghĩ cũng chẳng sai mấy. Khi tôi bị đẩy ra khỏi nước, gia đ́nh
chồng cũng bỏ đi, chỉ có Cung là người ở lại. Cung cũng chẳng khác
ǵ những người c̣n sống, cũng bị đuổi nhà, bị chiếm đoạt tài sản.
Người anh họ ở lại t́m cho anh một nơi cư ngụ mới trong nhà thờ Tân
Định.
Tôi trôi măi rồi cũng phải dạt vào một chỗ. Bảy năm sau tôi lấy
chồng, sanh con, tôi sống b́nh thường như tất cả mọi người đàn bà
khác trên một đất nước không có chiến tranh. Tôi cũng vui, cũng buồn
với những thăng trầm của đời sống.
Ở đời sống hàng ngày, tôi quên dần cái bất hạnh của tôi mấy mươi năm
về trước. Nhưng tôi nhớ rất rơ ràng là cái bất hạnh đó nó có hiện
diện trong kiếp người của ḿnh. Thỉnh thoảng Cung vẫn về trong giấc
mơ, dù suốt ngày hôm trước tôi không hề nghĩ đến. Cung về như c̣n
sống hay về như đă chết th́ khi tỉnh dậy, nước mắt tôi vẫn lặng lẽ
trào ra trên gối. Tôi cố gắng không làm giao động người nằm bên cạnh
đang ngon giấc. Buổi sáng, thức dậy, tôi thay áo gối, rồi lại thản
nhiên bước vào đời sống trước mặt: Giặt giũ cho chồng, cơm bánh cho
con.
Thời gian cứ thản nhiên trôi, buồn và vui đầy ắp hai tay. Ngày trắng
tóc rồi cũng đến.
* * *
Lần đầu tiên về thăm lại Việt Nam năm 1998, sau 23 năm, tôi đi t́m
Cung ở nhà thờ Tân Định.
Tôi đi len lỏi giữa những dẫy kệ, đọc từng cái tên, đi đến vần “T”
là họ của Cung. Tôi nh́n thấy một cái hộc nhỏ, không có h́nh chỉ có
ghi Họ, tên, ngày sinh, ngày mất. Tôi đứng lặng người, run rẩy chạm
những ngón tay ḿnh lên mặt chữ. Cái cảm giác chạm tay vào đầu áo
quan của năm 1969 bỗng hiện ra dưới những ngón tay tôi. Một tiếng
nấc đưa lên thanh quản, vỡ ̣a ra, tôi khóc như chưa bao giờ được
khóc. Nước mắt của bao nhiêu năm tụ lại một ngày, nước mắt của những
ngày đi đón xác ở Kiên Giang khô lại bây giờ nứt ra như một mạch
ngầm của suối bật lên trên mặt đất nứt nẻ. Tôi khuỵu chân ngồi xuống
giữa lối đi của hai hàng kệ, khóc như chưa bao giờ được khóc.
Chung quanh tôi vắng lặng. Tôi trầm ḿnh vào nước mắt, vào bất hạnh,
vào nỗi cô độc của ḿnh. Cái hộc nhỏ đựng tro than bên trên đầu tôi
vẫn thản nhiên, im ĺm nh́n như trước khi tôi đến.
Tôi xa người nắng buồn trên vai
Môi tôi mùi thuốc c̣n thơm hơi
Người xa tôi một ḍng sông trắng
Dẫy núi bên kia có ngậm ngùi
Tôi xa người hàng cây bâng khuâng
Nước dâng chiều xuống nhớ muôn trùng
Người xa tôi có ra đứng ngóng
Một cánh chim bay ở cuối rừng
Tôi xa người như xa mùa xuân
Ngực tôi c̣n đọng chút hương trầm
Mảnh trời trong mắt c̣n xanh biếc
Người đă mơ hồ như vọng âm
Tôi xa người như xa cơn mưa
Tóc tôi c̣n ướt đến bây giờ
Nhớ tôi người có châm điếu thuốc
Nhớ tôi người có đi trong mưa
Tôi xa người như xa quê hương
Những dấu thân yêu mất cuối đường
Người nhặt hộ tôi hoa dĩ văng
Lau giùm ḍng lệ ở vết thương
Người xa tôi gió cũng lặng thinh
Tôi rung nỗi nhớ ở quanh ḿnh
Người như suối chảy qua rừng vắng
Cả một ḍng sông đứng lại chờ
Ḍng Sông Đứng Lại [thơ Trần Mộng Tú, nhạc Phạm Anh Dũng] Mộng Thủy
hát
TRẦN MỘNG TÚ
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974