Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Bóng đêm pha lẫn ánh ngày
Thuyền qua sông vắng chở đầy tiếc thương
Chiếc xe lửa nghiến bánh ken két trên đường sắt, nghe như tiếng rên
than đau đớn, rồi rùng ḿnh, chầm chậm và dừng lại ở ga Huế. Đám
hành khách xơ xác, lôi thôi như lũ ăn mày, nhốn nháo, hốt hoảng
tranh nhau đổ ào xuống sân ga. Hoàng nhảy xuống theo, hành lư trên
tay chỉ có một cái bao nhỏ đựng bộ áo quần đă sờn rách tả tơi. Anh
vừa được ‘cách mạng khoan hồng’ cho về đoàn tụ với gia đ́nh, sau bốn
năm ‘học tập tốt, lao động tốt’. Hoàng cười, trong tù, anh là thằng
chậm chạp, trễ nải nhất th́ được về trước, mấy anh chăm chỉ tích cực
lao động, triệt để tuân thủ kỷ luật tù, th́ c̣n măi nằm lại trong đó.
Thế mới biết, bạn anh nói không sai: ‘cách mạng’ thường làm ngược
với lời nói.
Được tự do sau bốn năm giam cầm, lao động khổ sai nơi rừng thiêng
nước độc, đói, lạnh và bệnh hoạn. Trong ḷng Hoàng rộn ràng nôn nao
khó tả. Ừ, c̣n sống mà trở về là phước đức và may mắn lắm. Bước chân
của anh nhẹ tênh, như đang bay bổng, không dính đất.
Nhà ga không có ǵ thay đổi, chỉ tiêu điều, mốc meo cũ kỹ hơn. Người
người hốc hác, ốm o và lôi thôi rách rưới. Vừa bước ra cửa ga, một
người đàn bà chạy theo níu Hoàng và hỏi:
“Có cái chi bán không?”
Hoàng cười, lắc đầu trả lời: “Mới đi tù về, có cái con khỉ! À, mà có
bộ áo quần đă sờn rách, có mua không?”
Người đàn bà mau mắn: “Mô? Đưa coi!”
Hoàng mở bao đưa bộ áo quần cho người đàn bà. Chị rũ rũ cái quần ra
xem, rồi dài giọng:
“Cấy ni là giẻ rách, ai mà mua mần chi hè!”
Chị nh́n cái quần Hoàng đang mặc, c̣n tốt, lành lặn, v́ mỗi tù nhân
thường để dành một ‘bộ đồ viá’, chỉ dám mặc vào những khi có ‘sự cố’
trọng đại. Chị nói:
“Hay là anh bán cái quần đang mặc nầy đi!”
Hoàng đưa tay mở thắt lưng, định cởi cái quần ra, nhưng hơi ngượng
trước mặt người đàn bà. Hoàng nh́n vào ánh mắt chị, bỗng la lên:
“Ủa! Có phải Tâm đây không?”
Người đàn bà sửng sốt, và chộp lấy hai tay Hoàng mà reo vui:
“Anh Hoàng. Em đây! Trời ơi, mới có mấy năm mà không nh́n ra nhau.
Ngày trước, anh hồng hào mập mạp, bây chừ, chỉ c̣n da bọc xương, đen
điu như thằng mọi. Phần em cũng thay đổi nhiều, tàn tạ, mần răng mà
anh nh́n ra được em hè?”.
Hoàng cười: “Nếu không ngó kỹ vô đôi mắt của mi, th́ tau cũng không
nh́n ra. Ngày xưa, bạn bè tau thường đặt cho mi cái biệt danh là
‘Mắt huyền bí’. Đôi mắt mi, đă làm xao xuyến không biết bao nhiêu
con tim đó!”
Cô Tâm nầy là bạn của Nga, người em gái kế, thua Hoàng hai tuổi.
Quen biết thân thiết nhau từ nhỏ, Hoàng vẫn thường quen xưng hô ‘mi,
tau’ thân mật với các bạn của cô em gái. Hoàng chăm chú nh́n Tâm và
nói:
“Răng mà mi khổ dữ ri Tâm?”
Tâm cười như không biết cô đang khổ:
“Thời buổi ni, ai mà không khổ, không đói? C̣n sức mà chạy gạo cho
con là may mắn lắm rồi. Anh không biết, chứ con Hải c̣n khổ hơn nữa,
phải đi xin nước vo gạo uống đỡ đói. Anh đi tù, c̣n khổ hơn tụi em
chứ?”
Hoàng ngần ngại hỏi: “Răng mà tụi bây bỏ dạy học, chạy lang bang đầu
đường xó chợ kiếm cơm như ri?”
Tâm nói lớn: “Ai mà dám bỏ việc trong thời buổi ni? Bọn em bị đuổi
việc, không cho dạy nữa, v́ gia đ́nh ngụy quân, ngụy quyền. Nhà cửa
cũng bị tịch thu, không nơi trú ngụ.”
Mấy người xe đạp thồ hăm hở tiến đến gần Hoàng mời mọc. Hoàng chọn
người già nhất, ốm o, đội nón lá rách và hỏi:
“Về cửa Đông Ba bác lấy mấy đồng?”
Người đàn ông nói nho nhỏ: “Anh cho mấy cũng được. Ngồi lên xe đi!”
Hoàng dạng chân, leo lên khung sắt chở hành lư phiá sau yên xe.
Người đạp xe thồ thở ph́ pḥ mệt nhọc khi lên dốc cầu ga. Hoàng nhảy
xuống, phụ đẩy xe qua khỏi dốc, rồi leo lên lại. Người xe thồ cám ơn,
và hỏi:
“Anh đi mô về rứa?”
Hoàng đáp: “Mới đi tù về!”.
Ông nói: “Khổ chưa!”
Hoàng cười vui vẻ: “Được ra khỏi tù là sướng, chớ răng mà bác kêu là
khổ?”
Ông già đạp xe chíp miệng: “Đi tù th́ khổ là cái chắc. Nhưng ra khỏi
tù rồi cũng chưa hết khổ mô! Không chừng lại c̣n nhiều mối lo hơn
khi đang ở tù. Tin tui đi!
Nghe giọng nói eo éo khàn khàn như vịt xiêm của ông xe thồ, và
thoáng nhớ nét mặt quen quen của ông, Hoàng chợt nhận ra ông cụ là
ai. Anh la lớn:
“Dừng lại, dừng lại bác ơi!”
Ông già ngơ ngác. Hoàng nói
“Bác đưa xe cho cháu đạp, bác ngồi, cháu chở đi.”
Ông cụ bối rối: “Bậy nờ! Mần chi mà lạ rứa?”
Hoàng thúc dục: “Bác cứ leo lên đi! Cháu c̣n sức đạp xe mà!”
Hoàng đạp xe chở ông cụ mà ḷng tan nát tơi bời nhớ đến kỷ niệm xa
xưa. Ông nầy là bố của Hồng, người yêu đầu đời. Hai đứa yêu nhau tha
thiết, tưởng có thể chết cho nhau được, thế mà cuộc t́nh không thành.
Ông cụ đă nghiêm cấm. Ông nói với con gái: “Mần răng th́ mần, Ba
nhứt thiết không sui gia, không nói chuyện với ông Thụ. Không ngồi
ngang hàng với ông nớ!” Ông khinh khi gia thế của Hoàng thuộc giai
cấp lao động. Ngày xưa, lúc ra đường, khi nào ông cũng áo quần phẳng
phiu, mang áo vét, thắt cà-vạt, giày da láng bóng, như sắp đi dự hội
nghị quốc tế quan trọng. Ông lái chiếc xe hơi cũ. Thời đó, xứ Huế
rất ít người có xe bốn bánh. Ông tránh giao thiệp với hàng xóm, có
lẽ ông nghĩ rằng, họ không cùng giai cấp. Ông cụ chưa nhận ra thằng
rể hụt đang c̣ng lưng thở ph́ pḥ đạp xe chở ông
Dọc theo đường Lê Lợi, ngang qua trường Quốc Học cũ, nơi tràn đầy kỷ
niệm của một thời xa xưa. Hồi đó, có nghèo khổ, có thiếu thốn, nhưng
tràn đầy hy vọng cho tương lai. Đời tươi như hoa nở.
Ông cụ ngồi sau xe, cứ lẩm bẩm hoài: “Răng mà lạ ri hè! Lạ quá đi
chớ!” Hoàng đạp xe và đưa tâm trí miên man về miền quá khứ
Đang mệt thở hổn hển, Hoàng tần ngần, không dám hỏi trực tiếp tin
tức về người yêu cũ, mà né tránh, hỏi về ông chồng của nàng:
“Anh Dũng, chồng cô Hồng đă được ‘cách mạng khoan hồng’ tha về chưa
bác?”
Ông cụ xe thồ ngạc nhiên hỏi: “Ủa, anh cũng biết thằng Dũng, rể tui?
Hắn cũng chưa được về. Mà răng anh biết tui hè?”
Hoàng hơi bối rối, không trực tiếp trả lời câu hỏi của ông, từ tốn
nói: “Tụi cháu gặp nhau trong trại cải tạo B́nh Điền một thời gian.
Sau đó, chuyển trại, mất tin tức nhau. Có thời Dũng bệnh nặng, nằm
liệt cả tháng, tưởng không qua khỏi. Bây chừ cô Hồng mần việc chi
bác? Có c̣n đi dạy không?”
Hoàng cố tránh, không muốn để ông cụ biết anh là ai, để đỡ ngỡ ngàng.
Ông cụ ho khan mấy tiếng, rồi trả lời
“Có chồng đi cải tạo, ai mà cho dạy nữa! Hắn bị đuổi lên kinh tế mới
Nam Đông, ôm theo ba đứa con dại. Nhà cửa bị tịch thu. Chân yếu tay
mềm, không biết mần răng mà phá núi, bạt rừng, cuốc đất trồng khoai
sắn. E rồi cũng chết đói cả lũ mà thôi.”
Hoàng ngậm ngùi: “Trời đất gió bụi, th́ ra ngoài đời, cũng đói khổ
không thua chi trong tù !”
Ông cụ nói nho nhỏ: “Trong tù, mấy anh khỏi lo miếng ăn, tuy đói,
nhưng mỗi ngày cũng c̣n có chút chi cho vào miệng. Ngoài tù, mỗi
sáng thức dậy, hoang mang lo lắng lắm, không biết hôm nay có củ
khoai, khúc sắn dằn bụng hay không. Nhiều hôm đạp xe thồ, cả ngày
chưa có chi ăn, bụng đói, chân ră rời, đạp không nổi, mồ hôi vă ướt
toàn thân. Nhiều gia đ́nh, có khi một ngày chỉ ăn một bữa, cũng có
lúc, một ngày không có chi ăn. Khổ lắm anh ơi. Người ta nói trời
sinh voi, trời sinh cỏ, sai bét. Họ ‘quản lư’ hết cỏ rồi, th́ voi
cũng nhăn răng.”
Hoàng hỏi: “Rứa th́ hôm ni bác đă ăn chi chưa?”
Ông cụ đáp yếu x́u: “Có. Hai củ khoai, cũng tạm dằn bụng. Uống nước
vô nữa th́ cũng tạm no.”
Nghe ông cụ nói, Hoàng cũng hoang mang lo lắng. Không biết rồi mai
đây, làm ǵ để sinh sống. Bỗng nhiên, đôi chân Hoàng ră rời, như
không c̣n sức lực. Khi đi ngang qua chợ Đông Ba, Hoàng dừng xe lại,
và nói:
“Ḿnh vô đây uống miếng nước đă bác! Mệt và khát lắm rồi.”
Hoàng cho tay vào túi, mân mê đếm tiền. Nhờ có vợ bí mật tiếp tế cho
một ít tiền từ tháng trước. Bên gia đ́nh vợ, chạy hết được ra khỏi
xứ từ năm 1975. Chỉ có vợ Hoàng kẹt lại, v́ Hoàng không chịu đi.
Hoàng ngồi xuống bên gánh chè, mời ông cụ xe thồ ăn một chén. Ông cụ
lắc đầu, bảo ông không có tiền, mà dù có tiền, cũng không phí phạm,
chè là thứ xa xỉ trong thời buổi nầy. Hoàng nói bác đừng lo, cháu
đăi bác mà. Ông cụ ngần ngại, rồi cũng ăn. Hoàng thấy mặt ông rạng
rỡ, nhai nuốt ngon lành, liếm mép, vét đáy chén, như cả đời chưa bao
giờ nếm đến món nầy. Trong ḷng Hoàng, dấy niềm thương cảm. Ngày xưa,
ông ngăn cản cuộc t́nh giữa Hoàng và con gái ông, nhưng Hoàng không
hề oán giận hay ghét bỏ ông. Hoàng chỉ không ưa cái phách lối phân
biệt giai cấp, nghề nghiệp, giàu nghèo. Các con ông đều là bạn của
Hoàng. Thằng Quư, con trai đầu của ông là bạn học thời thơ ấu, Hồng
là người yêu của Hoàng, các em Hồng là Đạo, Huy, Bê Chị, Bê Út. Ngày
đó, ông cấm con ông giao thiệp, chơi đùa với trẻ con trong xóm, v́
sợ lây nhiễm cái bần của con cái gia đ́nh nghèo. Nhưng rồi mười mấy
năm sau, đám con cái nhà nghèo nầy, có đứa thành giáo sư trung học,
đại học, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, sĩ quan, hoặc giữ các chức vụ hành
chánh trong xă hội. Các con ông, chỉ có Hồng lết lên đến đại học,
làm giáo sư. Nhớ các con ông, Hoàng tần ngần hỏi:
“Quư bây giờ làm chi? Ở mô hở bác? Có c̣n làm thơ viết văn không?”
Ông nói với giọng buồn: “Hắn tự tử chết rồi. Ngày xưa hắn chống
chiến tranh, trốn quân dịch, bị bắt đi làm lao công chiến trường,
rồi bị thương tật. Sau 1975, v́ không lao động được, chỉ ăn bám vợ.
Thấy vợ vất vả, hộc tốc ngày đêm tối mắt tắt mày chạy kiếm gạo, mà
cả nhà cha con đều đói. Hắn tự tử chết cho bớt gánh nặng đè trên vai
con vợ khốn khổ. Hắn có viết mấy bài thơ cảm động lắm, ai đọc cũng
chảy nước mắt dầm dề.”
Mắt ông cụ đỏ ngầu và ướt. Hoàng thở dài, thầm nghĩ, nếu trong hoàn
cảnh của Quư, th́ Hoàng cũng chọn cái chết, cất bớt gánh nặng cho
gia đ́nh. Hoàng hỏi tiếp:
“C̣n Đạo và Huy chừ mần chi? H́nh như Đạo có thời đi vô bưng theo
‘mặt trận’ phải không?”
Ông cụ thở một tiếng rất dài: “Đúng, thằng Đạo có thời vô bưng. Sáng
con mắt ra. Vỡ mộng, rồi trốn về thành, theo chương tŕnh chiêu hồi.
Hắn bặt tăm từ tháng 3 năm 1975, có lẽ mai danh ẩn tích ở một nơi mô
đó. Hoặc không chừng đă bị thanh toán gọn rồi. C̣n thằng Huy th́ bị
bắt đi ‘nghĩa vụ quân sự’, đă gởi xác bên Kampuchia.”
Im lặng một lúc cho bớt xúc động. Hoàng hỏi tiếp: “C̣n Bê Chị, Bê Út
chừ ở mô? Đă có chồng con chi chưa?”
Ông cụ nh́n ra xa, và nói như trong mơ: “Bê Chị bây chừ lang thang,
theo đoàn văn công đi lưu diễn đây đó. Có lẽ cũng vất vả, khổ cực,
nhưng cũng đỡ đói khát. Hai năm trước, vào dịp Tết, có người gặp nó
ở trại Tống Lê Chân, giữa rừng già gần biên giới Miên Việt, tŕnh
diễn văn nghệ giúp vui cho bộ đội. C̣n con Bê Út th́ đi vượt biển
không có tin về. Có lẽ cũng xong một đời rồi.”
Hoàng bụm hai tay vuốt mặt. Ông cụ nh́n kỹ Hoàng, rồi chộp vai anh
mà lắc, hỏi: “Hoàng! Anh là Hoàng phải không? Trời ơi, thay đổi như
ri, th́ ai mà nh́n cho ra?”
Hoàng nói nho nhỏ: “Phải, cháu là Hoàng đây. Hàng xóm của bác, và là
bạn của Hồng ngày xưa. Cuộc đời đổi thay nhiều quá, không biết mô mà
lường!”
Ông cụ thở dài, nói như phân bua: “Anh có tin vợ chồng là duyên số
không? Không duyên nợ, th́ có vùng vẫy mấy cũng không thành. Nầy, mà
con Thu vợ anh, là một người đàn bà đảm lược và gan ĺ có hạng, cả
xóm ai cũng phục hắn. Bị đuổi đi kinh tế mới, nhất định cố thủ,
không đi. Bị cắt sổ hộ khẩu, cũng không sợ. Hắn c̣n dọa, la toáng
lên cho bà con biết, sẽ đốt nhà tự thiêu cùng ba đứa con, nếu bị ép
quá. Có lẽ chính quyền cũng sợ nó làm ẩu, mang tiếng.”
Về đến nhà, Hoàng móc tiền ra trả, ông cụ không lấy. Hoàng dúi vào
túi ông rồi đẩy đi. Ông quay lại: “Coi như tui nợ anh số tiền ni.”
Cuộc đoàn viên của Hoàng với gia đ́nh sau bốn năm tù tội xa cách đầy
cả niềm vui và nước mắt.
Xóm cũ, bây giờ cán bộ miền Bắc vào, tịch thu nhà, ở xen kẽ đó đây.
Họ lạnh lùng, ánh mắt nh́n xoi mói như muốn ḍ xét, kiểm soát xóm
giềng. Thu, vợ của Hoàng trước đây cũng đi dạy học, bị sa thải, v́
có chồng đi tù cải tạo, nàng nói với Hoàng:
“Không cho dạy học nữa, cũng không tiếc. Nhờ vậy nên ḿnh mới có th́
giờ kiếm được chút cơm cháo, nuôi con sống qua ngày. Mấy đứa c̣n đi
dạy, suốt ngày bận rộn, nào là ‘giáo tŕnh’, nào là ‘đứng lớp’, liên
miên học tập chính trị, đêm về c̣n họp hành đến khuya khoắt. Lại đi
làm chiến dịch xoá nạn mù chữ, xuống tận các thuyền đ̣ trên sông,
lên tận các miền núi non. Học viên th́ bị bắt buộc, cả ngày đă lao
động quá mệt, đêm về uể oải, buồn ngủ không muốn học, không muốn
nghe. Ḿnh “mất dạy” nên có th́ giờ, chạy đến nhà quen, vét mua áo
quần cũ bán ra miền Bắc. Mua một, lời hai ba. Người ta nhát gan,
không dám ra chợ trời bán, sợ bị bắt, ḿnh đến tận nhà, dù chúng nó
biết là mua bán, cũng không tịch thu hoặc kết tội được. Cái xứ ǵ mà
mua bán là “mất đạo đức cách mạng”. Đi ăn cướp, th́ là có đạo đức
cách mạng chắc?”
Hoàng lo lắng: “Em ăn nói nên giữ lời một chút, kẻo mang hoạ vô thân.”
Thu đáp: “Em biết chứ, bà Long ở cạnh nhà ḿnh đó, bị tịch thu nhà,
và bắt đi tù cải tạo, chỉ v́ nói câu: “Đói rách vĩ đại”. Chúng nó
kiêng, cho rằng chữ ‘vĩ đại’ chỉ để dùng riêng cho ông Bác của chúng
thôi. Hai năm trước người ta đồn rằng, có thằng học sinh 15 tuổi, bị
bắn chết, v́ hắn dám kêu là ‘lăo Hồ’. Chúng nó là một lũ điên, mù
quáng, thờ phượng quỷ sứ.”
Hoàng can: “Thôi thôi em ơi. Nói cho đă miệng, rồi mang họa vào thân,
khổ lắm.”
Mắt Thu long lên: “Nếu tất cả mọi người đều đủ can đảm nói lên đúng
sự thật, không nói dối, và biết xấu hổ khi nói lời hoang tưởng về xă
hội chủ nghĩa, lại không nghĩ một đường, nói một nẻo, th́ bọn chúng
hết đất sống. Anh xem, xưa nay trong lịch sử Việt Nam, từ thời bị
Tàu cai trị, bị Tây đô hộ, có bao giờ dân t́nh bị khốn khổ, áp bức,
hăm dọa, khủng bố, kềm kẹp như bây giờ không?”
Nghe vợ nói, mà Hoàng sợ lạnh cả xương sống. Anh biết ḿnh hèn nhát.
Đă không dám làm, mà cũng không dám nói. Anh thầm phục vợ. Đúng, nếu
tất cả mọi người đều không sợ, th́ chúng nó hố to
Cái xóm cũ ngày xưa vui vẻ sống động, bây giờ tiêu điều buồn bă. Bọn
con trai ngày trước, chỉ c̣n lác đác vài mạng. Gặp nhau cũng không
dám chuyện tṛ nhiều, chào nhau lạt lẽo, không dám tin, và e dè nhau.
Phần bọn con gái th́ vẫn c̣n khá đông, đứa nào cũng xất bất xang
bang, đói vàng mắt, chạy gạo nuôi con, nuôi chồng trong tù.
Con Hiền th́ ôm con từ cao nguyên về, chồng đi tù, che tấm ni-lông
trước hiên nhà bố mẹ chồng, mấy mẹ con chui rúc trong đó. Những đêm
đông mưa dầm gió tạt, rét mướt, mấy mẹ con ngồi ôm nhau cho đến sáng.
Cả đám rách rưới như tổ đỉa. Mùa đông, lâu lâu thấy Hiền mặc quần
ướt, v́ chỉ c̣n một cái, giặt ban đêm phơi chưa khô. Ba đứa con c̣n
nhỏ, Hiền ngược xuôi tất tả, nó như con chim tha mồi về cho đàn con
đói. Hiền kể rằng, nhiều đêm chưa kiếm ǵ được cho con ăn, nó về rất
khuya, con nằm đói lả, nó cũng chưa có chút ǵ vào miệng, bụng cũng
đói meo, nằm ôm con mà nước mắt dầm dề. Hiền có hiềm khích với gia
đ́nh chồng, và tự ái, không muốn van xin. Ông bà nhạc gia giận hắn
hỗn láo, và có lẽ ông bà cũng đang đói, không giúp đỡ được ǵ cho lũ
cháu nội. Có khi đói quá, nửa đêm, nó gào lớn, kêu tên ông bà nhạc
gia ra mà bêu rếu: “Ông bà Trang ơi, cháu nội ông bà đang chết đói
đây. Ông bà ăn lấy một ḿnh, ḷng dạ nào mà nh́n lũ cháu nội chết
đói đây!” Bên trong, ông Trang ghé miệng qua song cửa “Suỵt! suỵt!
Mi có câm cái miệng lại không? Tau ra đánh cho chết cả đám bây chừ!”
Nó thách đố ông, gào to thêm giữa đêm khuya vắng. Ông bà xấu hổ với
xóm làng, im lặng chịu thua.
Anh Phú ngày xưa ghét và chống Mỹ, chạy vô bưng. Bây giờ về lại Huế,
miệng th́ vẫn ca ngợi cách mạng, hoan hô Bác Đảng, nhưng mặt th́
buồn tênh, tái mét. Anh cũng đói. ‘Cách mạng’ cũng chỉ cho phong cho
anh cái chức vụ quèn, chạy cờ, vô thưởng vô phạt. Họ c̣n nghi ngờ
anh được Mỹ Ngụy gài vào bưng nữa.
Một buổi sáng Hoàng gặp Lê là bạn cũ, Lê cho biết mấy năm nay không
cho lũ con đến trường nữa, v́ không muốn chúng học những điều gian
dối, láo khoét, học căm thù, học nhỏ nhen ti tiện. Không đi học, th́
chúng khỏi tiêm nhiễm những hư hỏng, xấu xa của bọn người rừng
thượng cổ đó. Phần Lê, th́ giả vờ nửa tỉnh nửa điên, ngày ngày đứng
trước cửa nhà chửi đổng, kêu ‘chú’ ông Trời ra mà thoá mạ, cũng c̣n
kiêng kỵ, chưa dám kêu ‘bác’ ông trời, sợ chúng quy chụp phạm húy.
Hoàng hỏi thăm anh Thiên, người anh lớn của Lê, trước đây là thiếu
tá Thủy Quân Lục Chiến, mới biết anh đă cùng đồng đội ngồi quanh,
rút chốt lựu đạn tự sát tập thể trong cuộc lui quân hỗn loạn v́ lệnh
lạc bất nhất ngày đó.
Thằng Tiến, bạn cùng lớp với Hoàng ngày xưa, nó hiền như con gái, có
ông bố vợ đi tập kết ra Bắc từ 1954 trở về. Ông nắm giữ một chức vụ
quan trọng ǵ đó trong ‘thành ủy’ B́nh Trị Thiên. Ông đă nhờ đồng
chí ngụy tạo cho anh con rể một giấy chứng nhận, là ‘cơ sở’ tức
‘cách mạng’ nằm vùng. Tiến được cất nhắc lên làm giám đốc một công
ty sản xuất. Nhờ đó, mà Tiến ôm hết tiền bạc của công ty nhà nước,
mua thuyền vượt biên cùng với gia đ́nh hai cô em vợ. Ông bố vợ bị
kiểm điểm, mất chức, nhưng ông không buồn. Khi nào người ta cũng
thấy ông cười cười như đang có chuyện ǵ vui. Thiên hạ x́ xào ông đă
‘hy sinh đời bố, củng cố đời con’
Một hôm, vợ Hoàng thầm th́: “Không lẽ ḿnh chịu sống măi cuộc đời áp
bức đen tối không thấy ánh tương lai nầy sao? Phải làm cái ǵ chứ!
Anh biết không, chị Hương có gặp anh Phong trên xe lửa. Anh ấy bảo
là đang cùng bạn bè chiến đấu ‘phục quốc’ ở rừng Tây nguyên. Anh
đang đi chiêu mộ bạn bè đồng chí hướng. Trước đây, bằng ḷng buông
súng đầu hàng, v́ nghĩ mấy mươi năm chiến tranh, dân chúng đă khổ
lắm rồi, hy vọng thanh b́nh, dù cho chế độ nào, nhân dân cũng sẽ đỡ
khổ hơn. Nhưng không ngờ, hết chiến tranh, c̣n đói khổ hơn gấp nhiều
lần. Chúng cai trị hà khắc, xía vào từng đời sống riêng tư, muốn
kiểm soát chặt chẽ cả tư tưởng, ư nghĩ, sinh hoạt thường ngày. Chính
họ đă bắt buộc chúng ta cầm súng đứng dậy, để cởi ách nô lệ nầy. Anh
có muốn tham gia không, em bằng ḷng để anh đi.”
Nghe mà Hoàng sợ lạnh cả người, và thấy xấu hổ với vợ. Hoàng ấp úng:
“Anh sợ quá! Trước đây, chúng ta có cả triệu tinh binh, mà chỉ v́ Mỹ
thôi viện trợ, hết đạn dược, nên đành chịu thua. Bọn chúng, có cả
mấy chục nước trong khối cộng sản tiếp tế, viện trợ không ngưng
nghỉ. Chúng ta lấy ǵ mà chống lại?”
Thu nghiêm mặt: “Lấy ǵ để chống lại? Chúng ta lấy ḷng dân để giành
lại đời sống tự do. Trước đây, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đều bị
chúng lừa bịp ngon ơ. Dân Nam th́ chưa hiểu rơ cộng sản là cái quái
ǵ, dân Bắc th́ bị nhồi nhét tuyên truyền dối trá. Nay mọi người đều
hiểu biết, biết rơ. Ḷng dân là ư trời. Nếu có kẻ anh hùng dựng cờ
lên tiếng, th́ muôn người sẽ về theo như sóng dậy. Lịch sử đă chứng
minh từ xưa đến nay, khắp Âu, Á, khi bị bạo quyền cai trị, th́ ban
đầu, cũng chỉ năm ba người dựng cờ khởi nghĩa, mà đi đến thành
công.”
Buổi nói chuyện với vợ hôm đó, làm Hoàng vừa lo nghĩ, vừa sợ hăi,
vừa phấn khởi, vừa xấu hổ cho bản thân, những t́nh cảm đối nghịch
nầy làm anh phát bệnh, sụm luôn mấy ngày.
Thu biết chồng không có đủ can đảm và dũng khí để làm đại sự. Cô
thúc dục Hoàng: “Nếu không làm được ǵ cho đất nước, th́ phải làm
cho riêng ḿnh, cho gia đ́nh. Sống trong chế độ nầy, con người trở
thành hèn nhát, nhỏ nhen, ti tiện, dối trá. Phải t́m đường thoát.
Không c̣n lối nào khác.”
Sáu tháng sau, Hoàng xin giấy phép của công an, đưa vợ con về vùng
kinh tế mới Cà Mau. Rồi leo lên thuyền ra khơi đi t́m tự do. Khi
thuyền bị chết máy, lênh đênh trên biển nhiều ngày. Đói, khát, hết
hy vọng sống sót, nhưng Thu vẫn cương quyết nói: “Thà chết trên
đường đi t́m tự do, c̣n hơn là sống với bọn gian ác khốn cùng đó.”
Khi được định cư trên quê người, trong hai mươi mấy năm liên tiếp,
Thu đă chắt chiu từng đồng, mua quà gởi về, chia xẻ cho các bạn bè
cũ trong xóm, mua gạo cho con cái họ đỡ đói trong thời buổi điên
khùng đó.
Tháng 5 năm 2015, kỷ niệm bốn mươi năm đau buồn ‘mất nước’, các cô
bạn ngày xưa trong xóm cũ nội thành, nay đều đă thành ‘mệ’, họp nhau
tại quận Cam để chung vui hàn huyên. Các bà nầy đa số đi theo chồng
qua Mỹ theo chương tŕnh tù nhân chiến tranh, một số khác đă vượt
biển, một số nhỏ, được gia đ́nh bảo lănh. Bà nào cũng con cháu đầy
đàn. Nhắc lại thời xưa, mà bà nào cũng nước mắt c̣n rưng rưng. /.
Tràm Cà Mau
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974