Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tôi không hề nghĩ sẽ có ngày ḿnh trở thành một người lính tác chiến,
nói chi đến việc khoác áo hoa rừng và đội chiếc Mũ Nâu. Tôi học trễ
một năm v́ bị ở lại lớp. Đó là hậu quả tất yếu của việc lạng xe, cua
đào và vui chơi gần như xả láng khi được ba má mua cho một chiếc xe
gắn máy. Lúc đó là thời của “đợt sóng mới” và của lối sống buông thả
kiểu “hippie” ở hậu bán thập niên 60 của thế kỷ trước. Đến khi tôi
bắt đầu chăm lo học hành th́ đă quá muộn! Lệnh đôn quân theo luật
Tổng Động Viên năm 1972 đă xóa hết tất cả những ước mơ trong đời.
Buồn, lo là những điều tất yếu phải có, khi từ trong tháp ngà đại
học bước ra, để dấn thân ngay vào cuộc chiến đang đến hồi gay cấn
nhứt.
Một trong những niềm an ủi trong tôi lúc bấy giờ, là có tới gần 10 ngàn “nạn nhân kiêm chứng nhân thời cuộc” cũng bị thả vào chông gai, hiểm nghèo của đời quân ngũ. Thanh niên Việt Nam th́ lúc nào cũng “sinh bất phùng thời” bởi đất nước có khi nào ngớt can qua? Đến thời của Việt Nam Cộng Ḥa th́ đất nước cũng phải từng ngày lây lất vươn lên trong vô vàn gian khó. Lây lất?! Đúng vậy! Việt Nam Cộng Ḥa và Bắc Việt chính thức trở thành hai quốc gia vào năm 1954, cho nên rơ ràng là miền Nam đă vừa chiến đấu chống ngoại xâm- tức Cộng Sản Bắc Việt- vừa kiến thiết quốc gia suốt từ khi lập quốc cho tới lúc…chào thua định mệnh!
Hành tŕnh dấn thân của tôi, có thể nói, đă bắt đầu từ Tết Mậu Thân, khi Cộng Sản Việt Nam trắng trợn vi phạm thỏa ước hưu chiến nhân dịp Tết nguyên đán năm đó để thực hiện ư đồ mà chúng gọi là Tổng Công Kích (của Quân đội) và Tổng Nổi Dậy (của Nhân Dân).
Suốt từ cuối tháng 1-1968 đến cuối tháng 6-1968, chiến cuộc lan tràn tới hầu hết các đô thị và thành phố trên toàn lănh thổ của miền Nam Việt Nam, nổi bật nhứt là những trận đánh ngay trong Đô Thành Sài G̣n- Chợ Lớn- Gia Định và cuộc phản công tái chiếm cố đô Huế của Quân Lực VNCH và Hoa Kỳ.
Với tinh thần Sắp Sẵn, cộng thêm lời hứa “phục vụ cho đất nước và giúp đỡ mọi người bất cứ lúc nào”, tôi và các bạn kha sinh của Kha Đoàn Chương Dương (Đạo B́nh Than) đă tham gia giúp đỡ di tản đồng bào tị nạn chiến cuộc và tải thương cho các đơn vị tham chiến tại Chợ Lớn và Gia Định khi chiến tranh về tới Đô Thành Sài G̣n.
Đây là việc làm hoàn toàn tự nguyện
không chỉ riêng của Đạo B́nh Than chúng tôi, mà cũng là hành động
chung của các đơn vị Hướng Đạo trong thủ đô Sài G̣n (Đạo Phiên Ngung,
Đạo Đông Thành, Đạo Diên Hồng …v/v…) và đă được sự đồng ư ngấm ngầm,
nếu không muốn nói là làm ngơ của Hội Hướng Đạo Việt Nam lúc bấy giờ.
Tinh thần hướng đạo đó là hành trang lên đường, cũng là nghị lực dấn
thân, giúp tôi vững ḷng bước vào đời quân ngũ.
Thay v́ trốn điểm danh, tôi đă không ngần ngại vác túi quân trang
lên máy bay ra Nha Trang để thụ huấn tại quân trường Đồng Đế. Trong
khi đó, đă có một số bạn- nhứt là những ai c̣n muốn hít thở không
khí thị thành của Sài G̣n- lén ở lại trong Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập
Ngũ để chờ khóa học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức.
“Thao trường đổ mồ hôi. Chiến trường bớt đổ máu!…” Lời của bài hát
hào hùng được bạn nào đó đổi lại là “Quân trường đổ mồ hôi…” để diễn
tả sự nhọc nhằn của những ngày đầu đời khoác áo treillis. Tuy vậy,
mồ hôi vẫn chưa phải là yếu tố quyết định cho sự thay đổi toàn diện
của một người vừa mới rời mái ấm của gia đ́nh và học đường.
Thời gian- mà trong quân trường gọi là 8 tuần huấn nhục- mới là
thước đo của sự chịu đựng và chấp nhận hoàn cảnh bằng mọi giá của
một tân khóa sinh. Tôi thầm cảm ơn hai người bạn thân đă thuyết phục
tôi gia nhập Hướng Đạo ngay khi Sài G̣n c̣n vang rền tiếng súng đạn
hồi năm Mậu Thân.
Không có cái chất “Khai Phá” của Kha sinh, không có tí máu phiêu lưu,
mạo hiểm- mà tôi thụ hưởng từ người cha- có lẽ tôi đă chọn Thủ Đức
để được gần gia đ́nh và có thể đă trở thành một Sinh Viên Sĩ Quan cả
ngày lo phụ trách kiểm thực, hay làm một công việc lè phè nào đó
trong thời gian thụ huấn không chừng.
Nhưng tôi đă có mặt tại Đồng Đế để có cơ hội ngắm biển Nha Trang và
để “đi cho biết đó biết đây” với người ta. Quân trường nào cũng đều
có những h́nh phạt đủ loại, đủ kiểu- với những lư do “trời ơi đất
hỡi” tưởng đâu là để dằn vặt, hay thậm chí đày đọa những thanh niên
vốn chỉ quen với lối sống an lành trước đó- kỳ thật là để trang bị
cho người trung đội trưởng tương lai một sức mạnh tinh thần lẫn thể
chất để lănh đạo, chỉ huy và vượt thắng gian lao, nguy hiểm.
Con người có đặc điểm là mau chóng thích ứng với hoàn cảnh, huống
chi ngoài niềm tin vào tôn giáo, tôi c̣n có chút hành trang vào đời
góp nhặt từ sinh hoạt Hướng Đạo và huấn dụ của vơ sư Sáng Tổ, cùng
những điều tâm niệm của môn phái Vovinam: “… tự thắng, khiêm cung,
độ lượng… Rèn luyện tinh thần, trau dồi đạo hạnh. Sống giản dị,
trung thực và cao thượng…. Sáng suốt nhận định, bền gan tranh đấu,
tháo vát hành động…”.
Ngần ấy giá trị tinh thần đă giúp tôi gạt buồn lo, quên khó nhọc, để
chấp nhận định mệnh, hiểu theo nghĩa đối diện với hiện thực cam go
và tương lai hiểm nghèo của đời Lính. Thích ứng với hoàn cảnh cũng
có nghĩa là dấn thân trong tinh thần phó thác và t́m ủi an trong câu
nói của Voltaire: “Tôi vẫn đi dù không biết ḿnh đang đi về đâu”
(*).
Nói cách khác- theo phong thái của dân kaki- là “Kệ mẹ nó! Tới đâu
hay tới đó!” Chính v́ vậy, tôi đă làm mọi người ngạc nhiên khi “…
hào sảng thảy đời lên chiếu bạc, chọn phong sương và t́m thú tang
bồng, Cọp chưa ‘liếm’ đă vung tay tự giác, kư tên vào danh sách Lính
đồ bông…”
Ai nấy đều bất ngờ! Từ vị đại úy cán bộ cho đến cả đại đội khóa sinh.
Không ai nghĩ là tôi t́nh nguyện về binh chủng Biệt Động Quân v́
dáng vóc vốn khiêm nhường của tôi không phù hợp chút nào với chức vụ
trung đội trưởng tác chiến. Chưa nói tới cặp mắt kiếng tuy không đủ
dày để được hoăn dịch v́ lư do sức khỏe, nhưng cũng đủ làm cho tôi
có lúc bị quáng gà khi trời sụp tối.
Khi đến phiên tôi lên chọn đơn vị th́ các Tiểu Khu và Sư Đoàn Bộ
Binh thuộc Quân Khu III và Quân Khu IV đều đă có người điền tên ḿnh
vào. Tuy vậy, vẫn c̣n một chỗ trống tại Sư Đoàn 21 BB ở Bạc Liêu-
Tỉnh Ba Xuyên (Quân Đoàn IV & Quân Khu IV). Trong khi đó, toàn thể
các Sư Đoàn BB và Tiểu Khu ở Quân Khu I và Quân Khu II (không kể Lâm
Đồng, B́nh Thuận và Ninh Thuận v́ không có trong danh sách) th́ chưa
ai chọn. Chỉ sau một thoáng suy nghĩ, tôi ghi tên ḿnh vào khung của
Biệt Động Quân, nằm ở phía dưới cùng của tấm bảng liệt kê đơn vị.
Cái “duyên” của tôi với Biệt Động Quân bắt đầu bằng h́nh ảnh của vài
đàn anh trong khu phố. Trông họ thật hào hùng với bộ đồ bông và
chiếc Mũ Nâu trên đầu mỗi khi về phép thăm gia đ́nh. H́nh ảnh đó
càng đậm nét hơn khi tôi chứng kiến cảnh Biệt Động Quân đẩy lùi cuộc
tấn công của Việt Cộng trong Chợ Lớn hồi Tết Mậu Thân.
Kế đến, một anh bạn thân và cũng là Kha Sinh trong Hướng Đạo B́nh
Than cũng bất ngờ trở thành trung đội trưởng Viễn Thám trong Đại Đội
Trinh Sát của LĐ5 BĐQ. Anh này là người đă kể về sinh hoạt quân ngũ
cho tôi nghe và kết luận đó là “một cuộc cắm trại hay picnic có mang
vũ khí mà thôi!”.
Tuy nhiên, khi chúng tôi vừa măn khóa tại Đồng Đế, câu nói dí dỏm
của vị Đại Úy Biệt Động Quân vào tuyển mộ (“… Biệt Động Quân không
cần người đẹp trai hay to con, không màng thước tấc. Cận thị cũng
không sao! Chúng tôi chỉ cần người can đảm và chịu đánh đấm ngoài
mặt trận…”), mới là lư do chính đă thúc đẩy tôi ghi tên vào binh
chủng Mũ Nâu sau khi mang lon chuẩn úy được đúng…một ngày!
Ngày hôm sau nữa, là tôi có mặt tại nhà ở Sài g̣n. Má tôi và các em
đều sững sờ khi thấy trên cánh tay áo bên trái của bộ treillis là
huy hiệu đầu Cọp màu đen, thay v́ phù hiệu “thanh kiếm bạc trên mặt
trời rực sáng” của Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa (tức
quân trường Đồng Đế).
Má tôi cứ luôn miệng “Sao lại chọn Biệt Động Quân vậy con…?! Dễ chết
quá đi!…” C̣n ba tôi th́ trầm ngâm không nói ǵ. Nhưng vài hôm sau,
ông đưa tôi một bộ đồ bông và đôi giày saut, kèm theo câu nói “…Thôi!
Ráng lên nghe! Nhớ cẩn thận…” Không nói ra, nhưng chắc chắn ba biết
tôi đă thừa hưởng đặc tính di truyền của ông. Đó là thích phiêu lưu
và ưa mạo hiểm. “Nó cận thị như vậy th́ làm sao thấy đường để đánh
giặc!?” là câu má tôi buột miệng than thở với ba, khi tôi từ giă gia
đ́nh để ra học khóa 57 Rừng Núi Śnh Lầy tại Trung Tâm Huấn Luyện
Biệt Động Quân ở huấn khu Dục Mỹ.
Nhờ c̣n “phông”, tích lũy từ trong quân trường Đồng Đế, nên tôi cũng
vượt qua 42 ngày, mà nhiều người gọi là “địa ngục” của khóa học một
cách không mấy khó khăn. Hai tuần sau khi rời Dục Mỹ, tôi và các bạn
đồng khóa chính thức dấn thân vào lửa đạn.
Cuộc hành quân đầu đời là theo các đơn vị Biệt Động Quân tấn công
lên núi Dài trong vùng Thất Sơn ( thuộc tỉnh Châu Đốc ) vào đầu
tháng 10/1973 và tiếp theo đó là những ngày thực tập trung đội
trưởng tại Pleimerong (Pleiku) vào đầu tháng 11 năm đó.
Núi Dài và Pleimerong chỉ là giai đoạn “thực tập” để làm quen với
chiến trường. Sau đó, các “chuẩn úy sữa” mới bắt thăm chọn Quân Khu
để phục vụ. V́ Biệt Động Quân không c̣n hiện diện ở miền tây (Quân
Khu IV) và tại Quân Khu III (bao gồm các tỉnh gần Thủ Đô Sài G̣n)
th́ thặng dư quân số, nên tôi và 35 bạn khác t́nh nguyện ra phục vụ
tại Quân Đoàn I và Quân Khu I (gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng Tín và Quảng Ngăi .
Sau khi chúng tôi tŕnh diện vào tháng 12/1973, tôi được Bộ Chỉ Huy
BĐQ/ QĐI và QKI đưa về Liên Đoàn 12 BĐQ để chỉ huy trung đội tại
Tiểu Đoàn 37 BĐQ, lúc đó đang hành quân trong vùng Phong Thử thuộc
quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ một bạch diện thư sinh, tôi vào
lính bằng một niềm tin phó thác và “trái tim hướng đạo”. Chỉ khi
nhập cuộc, tôi mới thấm thía hơn về những hy sinh vô bờ của những
người cầm súng nơi tuyến đầu.
Trước khi trở thành một quân nhân, tôi chỉ là một thanh niên đứng
bên lề cuộc chiến mặc dù có lúc đă cận kề với máu, lửa và thương
vong khi chiến tranh về tới thị thành. Quan điểm ḿnh là “nạn nhân”
(của lệnh đôn quân) kiêm “chứng nhân” (của thời cuộc và chiến tranh
) đă làm tôi cảm thấy xấu hổ khi nhận ra rằng từ bấy lâu nay, tôi
yên lành sinh hoạt ở hậu phương là nhờ sự hy sinh về mọi mặt của
những người lính trận.
Do đó, tôi không màng những ánh mắt – dù không hẳn là coi thường hay
dè bỉu- có vẻ như ḍ xét của thuộc cấp, khi tôi nhận bàn giao trung
đội từ một Trung Sĩ I vốn là Chiến Sĩ Xuất Sắc trong trận tái chiếm
Sa Huỳnh của Tiểu Đoàn 37 BĐQ, tháng giêng 1973.
Không dễ dàng ǵ chiếm được niềm tin của những thuộc cấp dạn dày
sương gió hơn ḿnh, huống chi ngoại h́nh của tôi lại là một đề tài
để anh em trong trung đội bàn tán và…cợt đùa! Ngay ngày đầu tiên,
anh chàng tà lọt đă cười cười “…Tụi nó thắc mắc không biết chuẩn úy
có thấy đường để đánh đấm hay không?…” Vài hôm sau th́ tay hiệu
thính viên cũng “phán” một câu xanh dờn “Tụi nó không thằng nào sợ
ông cả!”.
Sợ!? Cần quái ǵ phải sợ?! Hay ho ǵ phải mang bộ mặt “ngầu hầm”
hoặc dùng lon lá để áp đảo tinh thần thuộc cấp bằng lệnh lạc chỉ huy?!
Cái cảm giác gọi là “sợ” đó luôn đi kèm với sự xa cách, trong khi đó
định chế căn bản của một đơn vị tác chiến là cấp trung đội, lại cần
chất “Chi Binh” và t́nh “Huynh Đệ” keo sơn hơn bất cứ một yếu tố
t́nh cảm hay tâm lư nào khác. Tôi chỉ cần họ thương mến hơn là sợ
sệt, v́ lỡ ăn đạn trong lúc chiến đấu th́ c̣n mong có ai đó kéo ḿnh
về.
Không cần ai nói, tôi cũng biết cái dáng dấp thư sinh với cặp mắt
kiếng nh́n có vẻ như một thầy giáo của ḿnh không làm cho anh chàng
ba gai, bặm trợn nào nể phục cả! Nhưng dù sao th́ họ cũng phải nhận
lệnh của tôi, trung đội trưởng của 17 người lính, đa số bất cần đời
khi về nơi an toàn và liều mạng khi hàng ngang xung phong dưới làn
mưa đạn. Bất cứ người lính tác chiến nào, dù ngang tàng cách mấy,
bướng bỉnh cách mấy, cũng nhận rồi thi hành lệnh của cấp chỉ huy
trực tiếp.
Ở cấp trung đội, người ra lệnh trực tiếp cho lính là tiểu đội trưởng.
Họ can đảm và gan ĺ th́ lính nể nang. Họ nề nếp nhưng chịu chơi th́
lính gắn bó với họ trong t́nh cảm lẫn khuôn phép. Nhưng quan trọng
và cần thiết nhứt, để giúp cho một người chưa có kinh nghiệm chiến
trường như tôi lúc bấy giờ, phải là một trung đội phó dạn dày kinh
nghiệm chiến đấu.
Tôi may mắn có được những trung đội phó đầu đời đều là Chiến Sĩ Xuất
Sắc. Họ là thầy, là bạn, là đồng đội và cũng là chiếc gạch nối giữa
lính và người trung đội trưởng. Tôi lần hồi hoàn thành trách nhiệm
của ḿnh và trở nên vững vàng hơn trong việc chiến đấu và lănh đạo-
chỉ huy, phần lớn là nhờ mấy ông Phó này.
Một người để lại cánh tay trái nơi chiến trường, một người trở thành
Thường Vụ đại đội, người thứ ba qua làm Phó cho một trung đội trưởng
khác. Cả ba người đều là chủ nợ của tôi, một món nợ nghĩa t́nh không
có ǵ cân xứng để đền đáp.
Nhưng vẫn c̣n một món nợ khác mà cả đời trả không bao giờ vơi! Đó là
nợ máu xương của những thuộc cấp đă hy sinh. Họ hy sinh cho tôi được
sống c̣n. Họ giúp tôi làm tṛn bổn phận và trách nhiệm được giao phó.
Họ nhận lệnh trực tiếp từ tiểu đội trưởng nhưng cũng là lệnh của
chính tôi qua trung gian là người trung đội phó.
Không có những khinh binh đó th́ các cấp chỉ huy không có huy chương,
không có đặc cách, không là ǵ cả! Họ trở nên trở nên tàn phế hoặc
hy sinh khi c̣n rất trẻ. Có người c̣n chưa kịp biết yêu. Đa số c̣n
không có khái niệm rơ rệt về hận thù hay chánh nghĩa. Họ rất hồn
nhiên trong cung cách sống, giản dị và mộc mạc trong suy nghĩ về vai
tṛ của người lính trong cuộc chiến.
Trong số những bài học được hướng dẫn lúc đang thụ huấn trong quân
trường, th́ họ quan tâm nhứt là những ǵ liên quan tới súng đạn, kỹ
thuật tác chiến và…mưu sinh, thoát hiểm. Những phần c̣n lại, đa số
nói về những đề tài liên quan tới dân vận, địch vận, tâm lư chiến…th́
họ trả lại cho Huấn luyện viên hoặc giao trách nhiệm có tính cách
“cao siêu” đó cho sĩ quan các cấp ngoài đơn vị.
Họ chỉ biết nhận lệnh rồi xung phong vào mục tiêu, hay thận trọng ḍ
dẫm từng bước dẫn đường cho đơn vị lúc xâm nhập vào vùng đất địch.
Họ hănh diện v́ màu cờ, hiên ngang cho sắc áo. Mặc dù có lúc họ rất
ba gai, phá phách, thậm chí kiêu binh cũng có.
Nhưng đó chỉ là hiện tượng! Trong bản chất của một quân nhân, họ đều
là những người lính khép ḿnh vào kỷ luật của Quân Đội. Họ, dù là
t́nh nguyện hay thi hành quân dịch, đều cùng chung một mục đích
chống Cộng Sản xâm lược. Nói một cách đơn giản và b́nh dân hơn, là
họ đi…đánh giặc!
Buồn thay! Do sự sắp xếp của ván cờ thời cuộc, giặc trở thành chủ
nhân mới của phần đất tự do ở miền Nam. Người Lính không cam tâm
nhưng đành buông súng rồi tức tưởi tan hàng, chấp nhận làm kẻ bại
trận. Đến lúc này, tôi mới thấm thía câu “nạn nhân kiêm chứng nhân
của thời cuộc”.
Quả thật Quân và Dân miền Nam đều là nạn nhân của một sự phản bội
trắng trợn, do “bàn tay lông lá” trực tiếp đạo diễn, đồng thời mọi
người cũng là chứng nhân của một cuộc đổi đời đầy máu và nước mắt.
Nước mất th́ nhà tan! Kẻ thắng trận vênh váo huênh hoang. Người thua
cuộc ngậm hờn qua ải. Họ chiến đấu chỉ để tự vệ, c̣n những kẻ xâm
lăng th́ đầy “hận thù trong ḍng máu”. Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa
bị ngược đăi về mọi mặt. Kể cả người đă chết cũng không được yên
thân.
Sau hơn 40 năm, sự thù hận vẫn c̣n v́ bạo quyền cộng sản luôn luôn
t́m cách áp bức, ngăn chặn và phá hoại bất cứ hành động nào có tính
cách nhắc nhở hay vinh danh chánh thể của miền Nam qua h́nh ảnh của
lá cờ Vàng và người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Ngay sau khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản cho đến tận ngày nay,
hàng triệu người rời bỏ quê hương bằng mọi cách. Chiến tranh không
c̣n, nhưng người Lính chỉ buông súng, bỏ cuộc chứ chưa giải ngũ, nên
cuộc chiến đấu chống phỉ quyền tại hải ngoại vẫn c̣n tiếp diễn qua
một h́nh thức khác, đa dạng hơn và mang tính chất “hiện đại” hơn bởi
lẽ “…Mặt trận ngày nay không thép súng. Giáo gươm đâu phải chỉ trên
tay?!…”
Cuộc hành tŕnh dấn thân lại tiếp tục trên đất lạ quê người và từ
trên…bàn phím! Cánh thiên di lần lượt gom đàn để tạo nên một khí thế
mới tại hải ngoại. Nhưng khí thế ban đầu tưởng chừng như có thể dời
sơn, lấp biển đó đă dần dà mất đi cường độ. Nạn “sứ quân”, bè phái,
cũng như sự thiếu tổ chức là những nguyên nhân chính của sự rạn nứt
trong cộng đồng hải ngoại.
Không có lănh tụ chân chính, đủ uy tín và đức độ, để tập hợp lực
lượng đấu tranh thành một khối đồng nhứt. Ngoài ra, đă có không ít
những gương mặt nổi bật trên chính trường và trong Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa đă âm thầm mang nỗi đau vong quốc xuống tuyền đài. Sự im
lặng của họ là một hành động quả cảm của kẻ sĩ lúc tàn cuộc khi chấp
nhận lời chỉ trích, thậm chí không màng đến sự phỉ báng của những kẻ
cuồng ngạo lợi dụng lúc giậu đổ nên b́m leo.
Họ, những bậc trưởng thượng và các cấp lănh đạo, đă không hề lên
tiếng trước công luận để đổ thừa cho bất cứ ai khác đă làm mất nước,
mặc dù trên thực tế, ai cũng biết là Việt Nam Cộng Ḥa đă bị bạn
“đồng minh” bán đứng cho khối Cộng Sản quốc tế.
Sự hưng phấn của ngày nào đă lụi tàn đến mức không ngờ. Con đường
tranh đấu c̣n dài, cuộc hành tŕnh c̣n lắm chông gai, nhưng người bỏ
cuộc th́ mỗi ngày một nhiều. V́ đâu nên nỗi? Câu trả lời nằm trong
tận cùng sâu thẳm của từng người, nhưng có thể nói nguyên do chính
là …thời gian! Thời gian tuy là liều thuốc bổ trong nhiều trường hợp,
nhưng đồng thời cũng là độc dược hiểu theo nghĩa lực tàn, ư tận.
Đau ḷng hơn hết là họ đă phải sống chung với chính những kẻ đă từng
đối đầu ngoài chiến trận hoặc trên bàn cờ chính trị thuở xưa. Chưa
kể con cháu của họ cũng của địch đă và đang sinh hoạt trong cùng một
mái trường, thậm chí sống chung dưới một mái nhà.
Hải ngoại đă vậy, nội địa càng “thê thảm” hơn! Bởi v́ những “tay
súng oai hùng” thuở xưa lâu nay đă phải ẩn nhẫn cầm hơi để chờ một
ngày mai tươi sáng. Câu hỏi là chờ đến bao giờ, khi chính họ cũng
chỉ là thiểu số nhỏ bé trong hơn 90 triệu “cừu non” đă và đang bị
đám sói hung hăn của Bắc Bộ phủ tha hồ làm t́nh, làm tội?
Tuổi hạc đă cao. Cuộc hành tŕnh c̣n “thăm thẳm chiều trôi” mà lực
đă bất ṭng tâm. Th́ cũng đành phải hy vọng vào một ngày mai quang
phục mặc dù vẫn chưa thấy chút ánh sáng nào le lói ở cuối đường hầm!
HUY VĂN (HUỲNH VĂN CỦA)
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974