Chuyện t́nh khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
DƯƠNG THỊ TUYẾT MAI
Mới đây một người bạn ở bên Mỹ gởi cho tôi tờ báo KBC đọc chơi, báo
h́nh như từ tháng nào, không phải báo mới đây, nhưng không sao … đọc
được tờ báo lính là thích rồi !
Tôi có tật, đọc sách mà có h́nh là tôi coi h́nh trước để mong nhận diện người quen, lần nầy th́ tôi nh́n được người quen thiệt. Lật vài ba trang đầu, tôi thích thú nheo mắt dừng lại ở một tấm h́nh. Tôi không đọc vội hàng chú thích bên dưới, tôi muốn chứng tỏ tôi nhớ đúng là ông, tôi la to lên "ông Thiếu úy Thất, Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân nè, ổng mới qua Mỹ chắc! Dữ chưa, mấy chục năm rồi".
Tôi vừa cầm tờ báo, vừa chạy lên lầu chỉ cho nhà tôi xem. Lúc đó tôi mới có th́ giờ đọc hàng chú thích bên dưới … "....Thiếu úy Thất, Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân, hy sinh tại ... năm ...... " … Tôi sững sờ, nín bặt, không tin mắt ḿnh, tôi tự hỏi thầm "Cái ǵ ?!! Ổng chết rồi hả ?!!" … tôi kêu nhỏ trong đầu "Oh … no !!!". Tôi nh́n kỹ lại tấm h́nh, h́nh ảnh đó, dáng dấp đó, nét mặt đó, những năm 1968 Tiểu đoàn anh đóng quân ở nhà tôi.
Hai mươi tám năm qua rồi, từ hồi Tết
Mậu Thân, năm 1968 đến giờ. Ngày đó tôi c̣n nhỏ lắm mới 10 tuổi thôi,
mà tôi c̣n nhớ như in, như mới năm ngoái năm kia …
Buổi tối hôm đó, nhà chỉ c̣n lại có Má và 3 chị em tôi. Ba tôi phải
vô sở ngủ do t́nh h́nh an ninh không cho phép. Anh tôi th́ ba gởi
vào nội trú ở Lasan Mossard Thủ Đức và em trai tôi th́ ba để ở dưới
nhà nội v́ nhà nội tôi ở sát bên bót Cảnh sát.
Thế là nhà ban đêm chỉ toàn đàn bà con gái, ban ngày th́ mới có ba và em về. Buổi tối, nghe tiếng gơ cửa, má tôi ra mở, thấy một toán 5-6 anh lính, má mời vào, các anh ngỏ ư muốn đóng quân trên lầu nhà tôi. Má tôi không chút e dè "mời" mấy anh ở liền, má nói "có lính ở trong nhà ḿnh, yên tâm hơn !".
Nhà tôi hai căn lầu cất dính liền nhau, một căn gia đ́nh đang ở, và một căn ba má tôi vừa mới cất xong trước Tết c̣n trống trơn chưa kịp chưng dọn ǵ cả, đó là lư do tại sao mấy anh muốn mượn nhà tôi để đóng quân.
Má tôi đưa mấy anh đi lên lầu ngôi nhà mới, tôi cũng lót tót chạy theo nghe chuyện. Tôi nhiều chuyện tới nỗi sau khi chỉ chỗ ở cho mấy anh xong rồi má tôi trở về căn nhà cũ tôi c̣n ở đó một ḿnh để xem các anh ăn ở ra làm sao. Lần đầu tiên tôi thấy lính và lần đầu tiên tôi nắm được bàn tay người lính, tôi thích lắm, tôi hỏi một anh : "Anh là lính ǵ vậy?" anh đáp "Biệt Động Quân cưng ơi !", rồi tôi mon men theo rồi đứng nh́n anh chia ca gác cho các anh khác. Tôi chưa chịu về nhà, mà các anh cũng không ai đuổi tôi đi c̣n nói chuyện, c̣n đùa giỡn với tôi nữa là khác, cho đến lúc má tôi gọi về ngủ.
Hồi anh tôi chưa vô nội trú, tôi đeo theo anh và đám bạn trai của anh tôi bị ba má tôi la hoài : " … con gái ǵ mà cứ đeo theo chơi với con trai không !", nhưng la là la cho có vậy thôi chứ má tôi cũng thừa hiểu ngoài anh tôi ra, tôi có ai để chơi chung nữa đâu ?!!
Chị Hai tôi th́ lớn quá đang ở tuổi có bồ, em trai và em gái tôi th́ c̣n quá nhỏ, chỉ có anh tôi là tuổi trạc bằng tôi và chơi với anh cùng các bạn của anh th́ tôi được ch́u chuộng và được lo lắng đủ mọi thứ.
Bây giờ anh tôi vô nội trú rồi, tôi ở nhà chơi cu ky có một ḿnh, gặp lúc mấy anh lính đến nhà đóng quân, tôi có cảm tưởng như họ là anh tôi. Tôi biết tên hết từng anh, anh nào lạ không biết tên là tôi hỏi liền. Các anh c̣n chỉ cho tôi biết ai là "ông thầy" và ai là "ông táo", mấy bông mai là lớn nhứt, hết bông mai rồi tới cấp bậc ǵ.... từ đó tôi rành hết cấp bậc trong quân đội, chứ ba tôi có kể ǵ cho tôi nghe đâu, mặc dù ba tôi cũng đă từng ở trong quân đội hồi c̣n trẻ.
Từ đó nên tôi biết trong các anh đóng
quân ở nhà tôi, anh Thất là thiếu úy, là "ông thầy" của mấy anh kia,
mà qua lối nói chuyện tôi thấy mấy anh kia cũng có vẻ nể anh Thất
lắm. Hồi mấy anh ở nhà tôi, má tôi coi mấy anh như con cháu, có ǵ
ngon má tôi hay kêu tôi bưng lên cho mấy anh "ăn lấy thảo".
Có một anh tên là Kim, anh rất giống anh Tư của tôi từ gương mặt,
lối nói chuyện, anh Tư tôi rất ít nói và ăn nói cộc lốc, anh Kim
cũng thế, ít thấy anh giỡn với mấy anh khác, th́ giờ rảnh của anh
nếu không ngủ th́ anh o bế đôi giày trận và cây súng M16 của anh.
Những lúc đó tôi hay ṭ vè bên anh, nghe anh kể chuyện gia đ́nh anh. C̣n hai đặc điểm khác mà anh giống hệt anh Tư của tôi là anh cũng có cái răng khểnh, tôi thích nh́n anh Tư tôi cười, coi đẹp làm sao, tôi hồi đó cũng thích nh́n anh Kim cười, nhiều lúc ngồi nói chuyện lâu quá không thấy anh cười tôi nắm tay anh lắc lắc "anh Kim, cười coi", thế là anh nhe cái răng khểnh anh ra.
Má tôi đặc biệt thương anh Kim v́ anh có mái tóc quăn y chang mái tóc quăn của anh Tư tôi, ở nhà gọi anh Tư là "Quắn" v́ thế. Các anh và anh Kim ai cũng biết là má tôi thương anh Kim như con ruột qua h́nh ảnh của anh Tư tôi, nên anh Kim gọi má tôi là má, anh coi tôi như em gái. Thậm chí sau nầy khi đơn vị các anh đă đổi đi xa, khi có phép anh về ghé thăm ba má tôi.
Có một lần, buổi trưa, lúc đó anh đang đóng quân ở miền nào xa lắm tôi không nhớ rơ, tôi đang ngồi chơi bán đồ chơi một ḿnh trước cửa nhà, một chiếc áo lính hiện ra trước mắt tôi, ngước lên, tôi la "Ah … anh Kim, anh Kim …", rồi tôi phóng lên ôm anh. Sau lần đó, không thấy anh trở lại nữa. Má tôi hỏi ḍ nghe nói là Tiểu đoàn anh đă đổi ra miền Trung.
Tôi nhớ hồi đó tôi thích nh́n anh Thất với cây "dùi cui" đeo lủng lẳng bên hông, trong anh có vẻ ít nói, tưởng rằng khó chịu, mặc dù đôi lúc tôi thấy anh cười nhưng nụ cười h́nh như không thân thiện lắm. Lúc đầu tôi sợ, không dám đến gần đấu láo với anh … nhưng có một hôm tôi thấy một anh lính của anh Thất, tên là Hoàng … anh là binh nh́ thôi, mà hôm đó lúc nh́n anh tiễn cô bạn gái của anh từ trên lầu xuống, anh lại mặc áo có hai bông mai. Tôi nh́n lên, tên "Thất", tôi chưa đủ khôn để hiểu rằng anh mặc áo của ông Thiếu úy để lấy le với cô bạn gái.
Tôi chạy lại níu anh " … anh Hoàng ơi, anh mặc lộn áo rồi, áo của anh Thất mà !", anh c̣n giả bộ nh́n cái áo : "Ủa vậy hả ?!! Vậy mà anh không biết !". Lúc đó anh Thất vừa từ trên lầu bước xuống và anh mặc chiếc áo đề tên anh Hoàng, tôi ngơ ngác "Sao mấy ông nầy mặc tùm lum hết … ai biết đường đâu mà gọi! “.
Anh Thất ngồi xuống bên tôi:
- Đó là ông Thất, c̣n anh là Hoàng.
Rồi anh cười khó hiểu. Tôi chưa hết thắc mắc:
-Sao từ nào giờ em thấy ai cũng gọi anh là Thiếu úy.
Anh đứng dậy vuốt đầu tôi:
-Anh giống Thiếu úy hở ?
Rồi nói với anh Hoàng:
- Có cô em gái nhỏ xíu vậy mà c̣n qua mặt không được.
Anh Hoàng nhéo mũi tôi:
-Con nhỏ nầy, sao mà ŕnh anh kỹ vậy, em gái?
Tới lúc đó tôi mới hiểu ra rằng anh Hoàng chỉ muốn lấy le với cô bạn gái. Sau lần đó, tôi không c̣n có ư nghĩ là anh khó chịu nữa. Một lần tôi hỏi anh Thất :
-Bộ trong nhà anh thứ 7 sao mà Mẹ anh đặt tên là Thất? (cũng câu hỏi đó, về kể Má tôi nghe, Má mắng tôi "con gái nhiều chuyện")
Anh cười:
- Anh thứ 7 ha ? Không phải đâu em
gái (hồi xưa anh nào cũng hay gọi tôi là em gái). Bên Tiểu đội kia
có ông thiếu úy tên "T́nh", anh phải tên Thất" cho hợp với ổng. Em
không nghe lính khác họ gọi Tiểu đội nầy là tiểu đội "thất t́nh" sao?
Tôi tin ngay, cho đến giờ nầy sau 28 năm tôi vẫn không biết là anh
nói thật hay đùa.
Tôi c̣n nhớ hồi đó anh dạy tôi hát bài " … Biệt Động Quân anh hùng
chí trai. Súng thép hiên ngang diệt thù xây tương lai ... Biệt Động
Quân SÁT" … Tôi hỏi anh Thất : "Biệt Động Quân SÁT là ǵ?", anh nói
"Sát là sát cộng đó em gái.".
Hồi xưa lúc Tiểu đội anh đóng quân ở
nhà tôi, má tôi coi tất cả các anh như là con, má tôi không để ư anh
nào là Thiếu úy, anh nào là binh nh́, nấu món ǵ ngon là Má tôi kêu
bưng lên lầu cho mấy anh, không anh nào "từ chối".
Buổi trưa nếu không đi hành quân, các anh hay xuống nhà ngồi nói
chuyện với má, và tôi lại được dịp nghe mấy anh kể chuyện di đánh
trận ở xa, tôi mê nghe lắm. Nằm trên đùi má nghe một lát tôi "chơi
một giấc" luôn.
Hồi đó c̣n nhỏ tôi chưa biết tí ǵ về lính, đời lính, đi lính làm sao, đi học quân trường như thế nào, ở đâu ... các anh kể cho tôi biết hết. Từ đó tôi mới biết con trai đến 18 tuổi phải đi lính, rồi đi học ở Dục Mỹ, Nha Trang, Đồng Đế...., rồi đi dây tử thần, rồi chà láng, rồi hít đất .... đủ thứ hết.
Tôi nhớ có một anh, tôi gọi là anh Bảy (tên anh là Anh, nhưng v́ lúc đầu tôi chưa biết đọc tên anh, mà anh lại cứ hay nh́n chị Bảy, là người chị bà con của tôi hoài, hỏi tên anh là ǵ, đọc làm sao anh không chịu dạy tôi đọc mà lại cứ biểu tôi em gái ráng đọc đi, cuối cùng tôi nói em gọi anh là anh Bảy nghe, từ đó trong nhà tôi mọi người đều gọi anh là anh Bảy) kể tôi nghe rằng "cái nón sắt của tụi anh làm được nhiều việc lắm, ngoài cái chuyện đội trên đầu tụi anh c̣n xài nó để nấu canh nè, múc nước tắm nè, lót ngồi nữa ...".
Tôi không tin, tại v́ hồi nhỏ th́ tôi cứ nhứt định rằng hễ là cái nón th́ chỉ để đội trên đầu thôi, lót đít ngồi rồi là không nên đội lên đầu nữa, nói ǵ mà nấu cơm, nấu canh rồi c̣n múc nước tắm ...
Một hôm đang ngồi với Má tôi trong nhà, anh Bảy chạy xuống :"Bé, ra anh chỉ cái nầy", rồi anh dẩn tôi ra coi anh ǵ quên mất tên rồi đang nấu cơm bằng cái nón sắt. Thế là tôi tin liền. Anh c̣n nói "Tụi anh là lính mà, đâu có cái ǵ mà không biết chế biến!".
Tôi mê lính lắm từ hồi nhỏ đă bị má tôi la hoài con gái ǵ mà tối ngày cứ đeo theo mấy ông lính, kêu về nhà rồi là một lát cũng chạy tót qua bển. C̣n má tôi, má tôi tin tưởng vào sự hiện diện của mấy anh lính lắm. Có một buổi chiều đang ngồi ăn cơm trong nhà, anh Thất qua cho má tôi hay là : "Tụi cháu rút đi bây giờ!", trên tay tôi đang cầm chén cơm, má tôi lấy bỏ xuống bàn cái rụp rồi hối tôi "đi con, vô thay đồ rồi ḿnh cũng đi luôn" … tôi ngơ ngác "Đi đâu má?!!", má tôi nói "Mấy anh đi rồi, ḿnh cũng đi, tối đâu dám ngủ ở nhà. Ba đă dặn như vậy!". Rồi không đợi cho má tôi dặn ḍ ǵ nhiều, tôi chạy theo mấy anh liền, lên lầu tôi hỏi anh Kim "Mấy anh đi hết hả ? Có trở về không?", anh Kim cười với tôi : "Không biết đâu em gái, em gái ở lại mạnh giỏi nghe."
Rồi th́ sau khi các anh đổi đi, có các anh lính khác đến đóng quân nữa, má tôi mới dám dẫn tụi tôi trở về. Nhà tôi suốt trận giặc tết Mậu Thân, lúc nào cũng có lính đóng, mà lần nào các anh đến, h́nh như là má tôi hay dặn trước chừng nào rút quân đi th́ cho má tôi hay, nên cứ mỗi lần sắp rút đi là tôi thấy có một anh chạy xuống nói lẹ một câu rồi là trước sau ǵ má tôi cũng kéo tôi vô :” Chuẩn bị đi nghe con".
Có một lần lúc Tiểu đoàn 2 Trâu điên Thủy Quân Lục Chiến đến đóng, tôi cũng đeo theo mấy anh. Một buổi chiều đă 5, 6 giờ ǵ rồi, anh Út nói với tôi : "Bé về nói với má, tụi anh đi bây giờ, nhanh lên!", rồi tôi phóng ngay về nhà lặp lại y chang lời anh nói, xong tôi lại bay trở lại coi mấy anh chuẩn bị đi, lần nầy má tôi giận quá đích thân bà lội qua triệu tôi về, phét cho mấy roi để "nhớ đời".
Rồi sau khi cuộc chiến trong thành phố dần dần im, các anh rút đi. Từ đó tôi bắt đầu theo dơi tin tức chiến trường, coi TV tôi mê nhất mục Phóng sự chiến trường, đọc báo nghe tin đánh nhau và lính nào đang hành quân ... để khi nghe tới tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân, Tiểu đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến là tôi cứ tưởng như là có mặt các anh trong đó, tự nhiên mà tôi cứ có ư nghĩ các anh là anh của tôi, là con của má tôi hết.
Hồi 1972 coi TV thấy nói Tiểu đoàn 2
Trâu Điên đánh thắng ở miền Trung, tôi cũng mừng, cũng hân hoan, làm
như là tôi có đi theo mấy anh đánh trận vậy.
Hồi Tiểu đoàn này đến đóng quân trong nhà, tôi hỏi ba tôi "Mấy anh
đó là lính ǵ vậy Ba?", ba tôi nói "Thuỷ Quân Lục Chiến, Tiểu đoàn 2
Trâu Điên". Đối với tôi lúc đó, sau khi mấy anh Biệt Động Quân đi
rồi, không lính nào là bằng lính Biệt Động quân nữa, cho nên khi
nghe Ba tôi nói "Thuỷ Quân Lục Chiến", mà lại có cái tên "Trâu Điên",
tôi lè lưỡi nhăn mặt : "Tên ǵ mà xấu quá, khi không cái Trâu Điên".
Ba tôi th́ ngưỡng mộ : "Trời ơi, mấy ông nầy đánh có tiếng đó, đánh
như trâu vậy. Việt cộng nghe là buông súng hết". Hồi đó tôi không
tin cho đến khi đọc báo, xem TV... thấy nhắc đến "Trâu Điên" đánh
thắng ở khắp nơi, đến lúc tôi hiểu để bày tỏ sự khâm phục th́ các
anh đă đi rồi.
Chiến tranh bắt đầu dữ dội, và tôi bắt đầu lớn để hiểu thêm nhiều về chiến tranh từ những năm 72. Tôi để ư nhiều đến cuộc chiến, tôi bắt đầu suy nghĩ về chiến tranh. Mỗi lần nghe đánh đấm ở đâu là ḷng tôi nghe âu lo, thấp thỏm. Tôi nhớ lúc tôi xem đoạn thời sự quay Cổ thành Quảng Trị đă lấy lại được, nh́n lá cờ VNCH bay phất phới, và nh́n các anh lính vừa la vừa cười dưới chân Cổ thành, tôi thấy có một anh Trung úy c̣n trẻ măng, tóc dài thọng, đen thui thui, tôi nói với anh tôi : "anh Tư coi ḱa, ông Trung úy đó, c̣n trẻ ha, tóc dài thọng, coi hách chưa!", anh tôi nói: "Ông đó mới đúng là người hùng, lính phải vậy", anh em tôi nghe vui, làm như chính ḿnh cũng có dự phần trong đó, làm như chính gia đ́nh tôi có người thân trong đó.
Từ cuộc chiến mùa hè 1972, tôi biết thêm nhiều địa danh qua truyền h́nh, báo chí như Đại Lộ Kinh Hoàng, Nhà Thờ La-Vang...Tôi đau xót từng ngày những ngày An Lộc bị thất thủ, đếm từng ngày trông chờ cho An Lộc được giải vây. Sau cuộc chiến An Lộc, tôi xem trên TV và thuộc được hai câu thơ mà tôi rất thích (nghe nói là của một cô giáo!!) :
"An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân"
Năm đó tôi đang học lớp đệ Tứ, thầy tôi cho bài luận văn "hăy b́nh luận câu nói của Tướng Lê văn Hưng: An Lộc thất thủ tôi sẽ tự sát". Tôi phải thú thật rằng, từ nhỏ đến giờ đi học tôi rất sợ môn Luận văn, tả người, tả cảnh, tả t́nh ... tôi dốt lắm. Tôi chưa bao giờ được điểm cao về Luận văn.
Hồi đệ Thất, đệ Lục cô giáo cho đề tả con chó, con mèo, tả cành bông Huệ ... tôi ngồi cắn nát cây bút cả hai tiếng đồng hồ chưa viết ra được một hàng. Vậy mà hôm ông thầy cho đề b́nh luận về câu nói bất hủ của Tướng Lê văn Hưng tôi đă nói tràng giang đại hải, nói quá chừng chừng, mặc dù lúc mới đọc đề luận tôi rầu lắm, rên thầm trong bụng "cái ông, cho đề ǵ mà trên trời dưới đất, biết viết ǵ đây?!!".
Vậy mà không ngờ khi đặt bút xuống tôi viết một lèo đă tay luôn. Nộp bài luận rồi tôi c̣n sợ không biết ḿnh viết có đúng đề không hay dám rồi đây ông thầy sẽ hoạch "lạc đề" to tổ bố trong bài. Tôi chưa bao giờ thấy mặt tướng Hưng, dù trên báo, trên truyền h́nh hay trong tài liệu, chỉ căn cứ vào những tin tức coi được trên TV, đọc được trong báo về trận chiến An Lộc, và kư giả báo chí nói về vị tướng trẻ tài ba, bất khuất. Bài luận đó tôi được hạng nhứt. Tôi ngỡ ngàng gần như nằm mơ khi nghe thầy kêu tên tôi và biểu đứng dậy...
Những người lính trận tôi gặp lần đầu tiên trong đời, đă cho tôi thấy h́nh ảnh oai hùng, hiên ngang về một người lính, một người chỉ huy trong quân đội, đó là những anh lính Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân, rồi sau đó các anh Thủy Quân Lục Chiến của Tiểu đoàn 2 Trâu Điên, các anh lính Biệt Khu Thủ Đô ... những anh hùng bằng xương, bằng thịt mà tôi thấy được, biết được. Tôi biết khi các anh đă đánh là phải thắng, đánh cho tới cùng, đánh cho tới Việt Cộng nghe tên đă sợ...
Đến trận chiến năm 1975 lúc đó tôi đă lớn hẳn để hiểu nhiều hơn về chiến tranh và mất mát. Tôi theo dơi từng con số viện trợ chiến tranh mà Chính phủ Mỹ dành cho Việt nam. Tôi cũng bàng-hoàng, hụt hẫng khi nghe tin Mỹ cắt phân nửa rồi sau hơn phân nửa, và cuối cùng là chỉ c̣n một phần viện trợ nhân đạo.
Những buổi chiều ngồi với nhỏ Đều trên sân thượng nhà tôi, nh́n thấy chiếc máy bay nào bị trúng hỏa tiển tầm nhiệt của Việt cộng, rơi xuống, hai đứa tôi chết lặng trong ḷng. Tôi với nhỏ Đều (là bạn học cùng lớp với tôi) ngồi lâm râm cầu nguyện cho mấy anh được b́nh yên. Tôi với Đều hỏi qua hỏi lại "mầy có thấy cánh dù nào bung ra chưa?". V́ tôi nghe ba tôi nói "bắn rớt máy bay không hề ǵ, anh phi công c̣n sống mới là quan trọng". Ngồi dán đôi mắt lên trời măi cho tới khi chắc chắn thấy một cái chấm ǵ đen đen từ trong máy bay bung ra th́ hai đứa mới an tâm. C̣n nếu không thấy một dấu hiệu nào, hai đứa bắt đầu boăn khoăn lo sợ.
Mỗi lần nghe tiếng bom nổ ở miệt Tây Ninh, Trảng Bàng, Hậu Nghĩa là tôi leo tuốt sân thượng ngồi nh́n, đếm từng chiếc máy bay, bao nhiêu chiếc đến và bao nhiêu chiếc trở về. Tôi thương các anh quá đỗi là thương. Tôi và Đều hay nói với nhau : "Ḿnh ở đây giờ nầy, ngồi trong nhà yên ổn như thế nầy mà chính mắt thấy lính ḿnh rớt máy bay như vậy … Trời ơi tao chịu không thấu mầy ơi!!!"
Một ngày nước mất nhà tan. Một ngày "xẻ đàn tan nghé" (Trương Anh Thụy). Một ngày Quân Đội ta tan hàng "găy súng" (Cao Xuân Huy) buổi trưa ngày 30 tháng 4, 1975 ba tôi vừa khóc, vừa nói với anh em tôi rằng: "Ḿnh đă sống b́nh yên, hạnh phúc được cho đến ngày hôm nay là do công giữ nước, giữ đất của lính VNCH, không phải chỉ bằng mồ hôi nước mắt mà c̣n bằng máu của họ, bằng mạng sống của họ , bằng sự mất mát của gia đ́nh họ, bằng tất cả cuộc đời của họ ... nhiều lắm ḿnh không trả nổi công ơn đó. Phải nhớ như vậy để đừng bao giờ quay lưng, ngoảnh mặt như những người dưới đường đang làm".
Ba tôi vừa nói vừa chỉ những người đeo băng đỏ trên cánh tay, ôm một đống cờ mặt trận, mặt mày hớn hở leo lên xe jeep chạy loạn xà ngầu trong thành phố. Ba tôi nói "ngày hôm nay không phải là ngày Giải phóng giải phiếc ǵ hết, ngày hôm nay là ngày mất nước, nhớ không !!!".
Đó là lần đầu tiên trong đời cả nhà tôi chứng kiến ba tôi khóc. Ba tôi nước mắt ràn rụa, khóc tức tưởi, khóc như bị bức tử. Và thật vậy, kể từ sau ngày 30 tháng Tư, gia đ́nh tôi không một ai làm ǵ dính líu đến chính quyền cộng sản.
Anh tôi lúc đó đang ngồi năm thứ hai Đại học Sư Phạm, bị tống cổ ra khỏi trường v́ ba tôi "ngụy". Tôi thi rớt "Tú Tài Giải Phóng" v́ gốc "ngụy" ở nhà chơi luôn. Em út tôi hai đứa ráng đi cho hết Trung học rồi cũng nằm nhà.
Và cho đến bây giờ, sau hơn hai mươi năm, ba tôi vẫn gọi sau ngày 30 tháng Tư là ngày mất nước, không bao giờ ba tôi nói và ông rất không bằng ḷng ai nói "từ sau giải phóng" … Ba tôi nói "sau ngày mất nước"… hoặc "sau ngày 30 tháng Tư" nếu phải nói chuyện với đám cán bộ, công an cộng sản ...
Bởi ba tôi dạy thế nên anh em chúng tôi không bao giờ quên ḿnh là ǵ, ở đâu, bởi dù ǵ th́ chính Ba tôi đă là "ngụy". Ba tôi đă nuôi dưỡng chúng tôi không chỉ bằng mồ hôi nước mắt, mà c̣n bằng máu của ông nữa.
Cho nên t́nh cờ mà nh́n lại được h́nh ảnh anh Thất trên tờ KBC để rồi biết anh đă hy sinh, tôi tưởng chừng như mới hôm nào thôi, không khỏi bàng hoàng và thương nhớ như ḿnh vưà nhận được hung tin mất đi một người anh từ chiến trận, anh Thất ơi …
Viết những ḍng nầy cho anh hôm nay, dù đă sau hơn 20 năm, tôi xin cúi đầu tưởng niệm, gọi tên anh, cầu nguyện cho anh nói riêng và những người lính VNCH nói chung đă nằm xuống.
Cuộc chiến nầy dù đă kết thúc như thế
nào, người dân miền Nam Việt Nam vẫn cúi đầu ghi nhớ công ơn các anh,
sự hy sinh cao cả của các anh bởi trên từng tấc đất mà họ đang sống
đều được đắp bồi bằng máu của những người như các anh đă không sống
hết tuổi xuân của ḿnh.
DƯƠNG THỊ TUYẾT MAI
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài G̣n ơi!
Đoạn kết câu
chuyện t́nh buồn
Đôi giầy trậ
Thư kư của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết v́ tự do
Thiên đường đă xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
C̣ng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên băi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saig̣n ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Ḥa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uư Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
H́nh ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đă quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm h́nh
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện t́nh thời
chiến
50 năm – c̣n đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học tṛ cũ
Vào viện dưỡng lăo
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nh́n lại tháng Ba găy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đ́nh Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Ḥa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
T́m được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đ́nh
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm t́m được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Ḥa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
T́nh
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cơi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm ǵ
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương tŕnh kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đă “Giă Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta c̣n có em...
Nhà báo lăo thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài G̣n trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành tŕnh
Hăy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài G̣n, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài G̣n xưa
Sài G̣n ơi, Em c̣n đó hay không?
Ḍng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
H́nh ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi t́m hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nh́n lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài G̣n
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Kư của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974