Chuyện tình khó
quên
May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
Còn nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Dòng sông quê hương - Dòng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm còn nhớ ai! -
Audio
Sài Gòn là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng nghìn cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
Còn nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đò -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Nghìn trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - Tìm về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài Gòn
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện còn
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
Còn thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
Còn nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng nghìn cay
Con đường
tôi về
Hãy còn đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Bãi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ mình!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai mì
Khinh Binh 344
Tết
Thôi, vậy là yên phận em. Thật ra trừ thuở em còn nhỏ, lúc mẹ giao
chị việc cho em bú và tắm rửa, còn thì chưa lúc nào chị được ôm em
trong lòng, trọn vẹn chiếm hữu em như bây giờ. Em đã chịu khó nằm
yên nghe chị kể lể tâm sự, không như thời trước em vừa biết chạy
nhảy và nói năng, mỗi lần chị sơ ý quệt vào em một tí là em khóc nhè,
và đòi thầy me đánh đập trừng phạt chị mới chịu nín. Em biết không,
những lúc ấy chị trốn ra sau vườn, một mình lấy tre gai đâm vào tay
để tự đày đọa. Nhà chỉ có hai chị em, thầy me lại thường nuông chiều
cậu con trai quí, nên chị cảm thấy thừa thãi bơ vơ. Chị vẫn ao ước
được ôm vai em, vuốt tóc dỗ em nín khóc như những bà chị khác, đóng
trọn vai trò kẻ trìu mến khoan hoà.
Nhưng em luôn luôn ở ngoài tầm tay chị. Chị tưởng là em ghét chị,
khinh chị. Nhưng khi học bài cách trí bậc tiểu học, chị hiểu em hơn.
Sách dạy:
"Gà trống thường ưa đánh nhau, còn gà mái hiền hơn gà trống, chịu
khó đẻ trứng ấp con và chăn dắt chúng đến khi lớn".
Ờ, em là con trai, tính khí giống như gà trống, ưa ra khỏi sự trìu
mến quyến luyến của gia đình. Em ưa đánh giặc giả, ưa khiêu khích và
tấn công. Nhiều hôm em bị đánh chảy máu mũi, chị lo sợ hớt hải, còn
em thì lạnh lùng gạt bàn tay chị, lấy vạt áo quệt máu rồi chạy ra hò
hét tiếp. Cử chỉ tàn nhẫn lạnh nhạt ấy làm chị mủi lòng. Chị không
hiểu nổi em trong tuổi nhỏ, và cả trong thời gian em lớn lên. Không
như bây giờ, em chịu khó nằm yên nghe chị kể lể tâm sự.
Càng lớn em càng trở nên khác thường. Điều đó làm cho chị ngẩn ngơ
hãi hùng. Em muốn giấu chị hết mọi sự. Học ở trường em trốn đi chơi.
Nhà trường gởi thư phiền trách về cho thầy me, chị bắt gặp giấu đi
và đưa lại cho em. Em vùng vằng: "Có giỏi thì mách thầy me coi".
Em đăng báo tìm bạn bốn phương, vô tình chị đọc được mảnh báo cắt đề
tên em và địa chỉ nhà mình giấu trong sách vạn vật. Chị đọc cả nhà
nghe trong bữa cơm, tưởng chỉ pha trò cho vui:
"Hùng, tên thằng con trai ở miền khô cằn sỏi đá, tuổi chớm vào đời,
mang nhiều mặc cảm tình, tiền, địa vị, sống âm thầm trong lặng lẽ cô
đơn, muốn trao đổi tâm sự qua những cánh thư xanh của các bạn trai
gái khắp bốn vùng chiến thuật".
Không ngờ tiếng cười to của thầy làm em giận chị suốt mấy tuần. Chị
tìm cách làm hoà, em giả lơ. Chị cảm thấy cô độc hơn bao giờ. Thầy
vốn trầm tư, giữ thái độ nghiêm khắc với con cái. Me thì suốt ngày
lo việc buôn bán ngoài chợ. Chị thui thủi một mình trong căn nhà
rộng và khu vườn xanh. Làm sao chị chịu nổi sự lạnh nhạt xa cách của
em. Gian nhà mình rộng và tối. Tiếng tu hú sau bụi tre già trưa trưa
não nùng ma quái. Tàu lá chuối lọc hết ánh sáng mặt trời, chiếu hắt
nỗi xanh xao vào căn buồng hẹp, nơi trú ẩn chống đỡ cái buồn mênh
mông chị gánh chịu suốt thời thơ ấu. Thành thử lúc gia cảnh nhà ta
suy sụp, đồng lương thư ký của thầy ít ỏi vơi lần theo nhịp tăng của
thuế má vật giá, và chỗ bày hàng ngoài chợ của me bị tranh mất, rồi
dì Thanh giới thiệu cho chị làm trong sở Mỹ, chị đã xem đây là cơ
hội độc nhất giải tỏa đời mình.
Thầy vẫn im lặng như thường lệ. Chỉ thoáng thêm đôi nếp nhăn và
tiếng thở dài. Thầy không nói gì về lời đề nghị của dì Thanh, nhưng
chị biết thầy lo âu. Me thì mừng rỡ, xem chị như cứu tinh của gia
đình. Me vồn vã ân cần với chị. Chị hơi tủi khi so thái độ của me
với chị ngày nhà ta còn khá giả... Nhưng chị hiểu tâm trạng của me.
Đàn ông như thầy và em ít chú ý đến chuyện bếp núc, cơm áo.
Riêng me, me đau đến thắt ruột khi thấy miếng thịt trong tô canh
ngày càng nhỏ, và nồi cơm ngày càng vơi để đứa con trai yêu dấu của
me phải bực mình dằn bát khi chị bảo hết cả cơm rồi. Còn riêng em,
nghe chị sắp làm sở Mỹ, em bĩu môi. Mưa gió bão bùng không làm chị
sợ bằng thái độ ấy của em. Nhưng chị cũng sợ màu lá chuối xanh xao,
tiếng tu hú và gian nhà u ám ẩm mốc. Chị đã đi làm.
***
Em đã dùng những chữ thô bạo nặng nề để kết án chị, khi chị bỏ nhà
về sống với Tino. Em bảo chị là con đĩ mười phương không chịu chừa
một phương lấy chồng. Em bảo chị có một tâm hồn bệnh hoạn sa đọa. Em
bảo chị làm mất hết tiếng gia giáo. Em bảo chị không còn xứng đáng
bước chân về ngôi nhà cũ, để được đứng dưới khóm trúc xanh nhìn
những chuyến xe lửa rập rình qua cầu, được nghe tiếng chim tu hú và
ngắm nắng xanh xao trước bực thềm. Chị đã tê tái khi nghe me khóc
thầm, chị đã đau đớn khi thầy lặng thinh quay mặt khinh bỉ không
nhìn chị. Nhưng có viễn ảnh nào đen tối cho bằng viễn ảnh đời đời
không được bước chân về cái cổng vôi rêu phong ấy. Chị mất quê hương,
mất hết, mất thầy, mất me, mất em. Chị thui thủi ôm bọc quần áo
trước bụng để che bớt cái thai. Thầy và em không biết, nhưng me biết.
Me khóc to hơn, tấm tức không dám nói vì sao, sợ thầy biết sẽ đánh
đập chị. Làm sao đến nỗi nầy hở con? Nhà tôi mấy đời ăn ở phước đức,
sao Trời nỡ đầy đọa hỡi Trời?
Vì sao? Vì sao? Me hỏi, rồi sau nầy em đích thân đến phòng Tino thuê
cho chị, giận dữ sừng sộ trước vẻ ngơ ngác của Tino (Tino có hiểu em
nói gì đâu, tưởng em là một thằng du đãng) em cũng hỏi chị câu ấy.
Vì sao? Vì sao? Lúc đó, chị định giải bầy cho em hiểu, nhưng hàng
xóm bu lại đông quá, chị thẹn nên van lạy em về cho. Mà dù chị có
giải bầy, chưa chắc em đã tin.
Bây giờ em nằm yên rồi, vĩnh viễn không múa may sừng sộ, chị mới có
thể nói hết. Chị cũng nhiều lần hỏi chị lắm. Vì sao? Chị mừng rỡ
thoát khỏi nhà như con chim sổ lồng, tự nhủ từ đây không bao giờ
quay trở lại với cõi tăm tối lạnh lẽo gia đình. Chị đã mơ ước như
vậy lâu rồi, mơ được một hoàng tử hôm nào đó cầm chiếc hài hoa gõ
cửa, như chuyện thần tiên mình từng say mê. Chị đã mơ ước gặp đâu đó,
do định mệnh an bài, người chị say mê từ lúc thoạt nhìn, tóc bềnh
bồng, mắt mơ màng, phương phi hào hoa.
Những giấc mộng lãng mạn cùng vơi với tháng năm, cuối cùng chị chỉ
ước mơ một ngày nào đó có bà già mặc áo thâm vào thì thầm với me
trịnh trọng với thầy xin hỏi chị cho cậu con trai cả. Me vẫn thường
bảo chị có số làm dâu trưởng. Chị mong thoát ra khỏi cái trầm buồn,
đều đặn, nhàm chán của nếp sống nghìn năm không thay đổi cung bậc.
Cho nên ngay lúc đầu, chị hân hoan đi làm với dì Thanh, với cảm giác
thoải mái của tên tử tù vượt ngục. Sở của chị là một thế giới hoàn
toàn khác lạ. Phòng thấp nhưng sáng sủa, máy lạnh rì rầm suốt ngày,
hàng lô máy chữ tí tách. Cử chỉ của nhân viên Mỹ nhã nhặn, khả ái,
khác hẳn thái độ binh sĩ ngoài phố. Tino là trưởng phòng kế toán,
nghiêm nghị và cần mẫn. Cả phòng đều sợ ông, ngay cả các nam nhân
viên da trắng.
Chị phát khóc khi ông quăng trả tập hồ sơ đánh máy sai lên bàn chị,
báo trước đây là cơ hội chót chị thay đổi cách làm việc. Chị cảm
thấy ngộp thở, chới với, khi nghĩ đến vẻ mặt mừng rỡ của me lúc chị
đưa số lương hai mươi nghìn đồng cho bà tháng trước. Có thể, nếu chị
tiếp tục lỡ lầm, thầy sẽ không còn nhâm nhi với củ kiệu mỗi chiều,
còn em thì đâu được quyền hút Salem vung vít.
Làm sao có tiền trả cho Bill để mua cái tủ lạnh vào Chủ nhật tới?
Mấy hộp Rinso chịu giá với bà Hải, tiền ứng trước me đã lấy may quần
cho em, làm sao giao hàng? Còn hộp xì gà cho chú Tư? Còn dự tính sửa
lại từ đường của thầy? Nỗi khốn khổ thật khôn cùng. Đầu óc chị quay
cuồng, nhất là từ lúc Bill đưa cho chị xem tập hồ sơ nhân viên. Ông
Tino phê trong phần nhận xét trên phiếu của chị: "Nhiều lần cộng sai
và đánh máy lầm lẫn. Thiếu khả năng kế toán. Đã cảnh cáo lần chót.
Nhân viên vào loại không cần thiết". Suốt buổi sau, chị không đánh
máy nổi một trang hồ sơ. Khi trình lên Tino, ông lạnh nhạt đưa tay
nhận, không thèm nhìn chị, lấy viết chì đỏ gạch mạnh đến rách cả
giấy mấy lỗi chính tả sơ đẳng, rồi vất trả lại. Không còn cách nào
cứu vãn nữa, chị ôm mặt khóc, bỏ sở chạy về nửa chừng...
Em biết không, chị đã lang thang suốt cả buổi chiều trên tất cả
những con đường phố, thất thểu bước không nói năng. Chị chờ giờ về,
đến dì Thanh cầu cứu. Dì dặn đừng cho thầy me hay tin buồn, gắng vui
vẻ về nhà, ôm theo mấy hộp bia và bột giặt dì cho mượn. Dì khuyên
nên đến nhà ông Tino năn nỉ. Dì cho địa chỉ. Thấy chị e ngại, nhất
là bây giờ trời đã tối, dì bảo không sao đâu, ông ấy nổi tiếng đạo
mạo và đứng đắn. Không phải dân ba xạo và cà chớn.
Chị đã giấu nhà mối lo âu của chị, một mình đến tìm Tino.
Ngôi biệt thự ẩn sâu vào trong khu vườn rợp bóng mát. Lối đi trải
sỏi và viền hoa. Ánh sáng phòng khách dịu nhẹ. Ông Tino ngồi trên
chiếc ghế bành rộng, nước da đen chìm trong không khí mơ hồ huyền
hoặc của bóng đêm và ánh đèn mờ. Chị lắp bắp vài câu, rồi khóc trước
mặt ông. Ông không nói năng. Chị khẩn khoản xin lỗi. Ông đứng dậy
khép kín cửa, cầm tay chị, dìu đến ngồi trên cái ghế bành sát tường,
choàng tay qua vai chị. Chưa bao giờ chị nhìn ông ta gần như vậy.
Trên khuôn mặt đen, mắt ông sáng khác thường, pha lẫn nào phẫn nộ
nào cay đắng nào van lơn.
Chị lạnh tê y như cảm giác lúc nghe tiếng saxophone da đen nghẹn
ngào trong bản nhạc jazz, âm thanh của một nỗi si mê điên cuồng
không thể giải toả và một nỗi nhẫn nhục trong cam chịu ê chề. Hơi
thở ông dồn dập. Tim chị đập mạnh. Tiếng một chiếc lá sứ rơi bên kia
bức màn mỏng. Tiếng cánh bay của một con chim đổi cành. Chị cố ngồi
thu lại, thoát ra ngoài vòng tay ông Tino, nhắm mắt dằn xuống những
xao động chợt hiện lần đầu. Xe lửa ồn ào chạy qua con đường sắt bên
kia vườn. Cơn vũ bão phũ phàng cuồng nộ xô đẩy hết những cây cối nhà
cửa xóm làng ăn sâu trong ký ức chị. Sự thô bạo của Tino thôi miên
chị, quăng chị vào một cõi hãi hùng, tê điếng, khiến sau cuộc chị
vẫn nằm khoả thân trên thảm, mắt thao láo nhìn như một kẻ đã chết.
Chị đang ở đâu đây? Có gì vừa xảy ra? Sự tê dại càng sâu, rồi biến
thành nỗi xót xa tràn đầy. Tuy không khóc, nước mắt chị ràn rụa.
Tino quì xuống nền nhà, mắt thương xót lo âu. Tino lấy tay chùi nước
mắt chị, bàn tay to lớn xù xì mơn man gạt nhẹ từng giọt từng giọt ứa
trào. Tino gục đầu trên ngực trần của chị, ông khóc không thành
tiếng, rồi nói như đang mơ:
"Chúa ôi, con đã làm gì? Con đã làm gì? Tại sao con trút hết nỗi
phẫn nộ căm thù cuộc đời cho nàng? Đứa con gái nhỏ yếu đuối, sợ hãi.
Mắt nàng lấm lét e ngại. Tay nàng vụng về run sợ khi đưa hồ sơ đến
bàn con. Nàng không dám tránh xa khi con đến gần, không dám le lưỡi
với bạn bè khi con dọa. Con vội vơ lấy dịp may hiếm có. Nàng đã đến
đây van xin như con dự đoán, nhưng, lạy Chúa, con đâu có ngờ nàng
còn trinh tiết. Nàng chỉ là một đứa trẻ lạc loài cay đắng như con.
Con đã làm gì? Con phạm tội gì?"
Tino nói như mê sảng, chồm xuống hôn bàn chân chị. Đột nhiên chị đạp
mạnh vào đầu ông, choàng ngồi dậy trong góc phòng trong thế tự vệ.
Chị nói, giọng thất thanh:
"Ông là con thú dữ. Ông là ác quỉ hiện hình. Tôi ghét ông. Tôi tởm
ông".
Chị muốn lợm giọng khi nghĩ mình vừa kề cận với thân hình cục nịch
đen đúa kia. Chị cảm thấy bẩn thỉu nhầy nhụa. Đầu Tino va mạnh vào
góc bàn. Ông ôm lấy đầu, lặng yên, hai tay ép sát vào thái dương.
Bỗng Tino đưa bàn tay vàng bệch trước ánh đèn. Máu loang lổ đây đó.
Chị sợ hãi suýt rú lên. Tino vẫn ngồi xa, vội vàng trấn an:
"Không sao đâu em, chỉ bị nhẹ thôi. Máu chảy một ít rồi sẽ hết. Em
bé thấy không, máu tôi đâu có đen. Nó đỏ như mọi người. Và trái tim
tôi cũng vậy, mềm mại mảnh khảnh như mọi người. Làm sao tôi chịu
đựng được sự thù ghét nầy. Hãy nói đi, em bé nhỏ, hãy nói đi. Hãy
nói là tôi đáng thương hơn đáng ghét. Hãy nói là em hết thù hận".
Chị không chịu đựng nổi nữa, chị oà lên khóc. Tino lết đến gần chị
tự lúc nào, máu rỉ rỉ chảy xuống má, xuống cằm. Ông nắm tay chị, đặt
lên đầu ông, van xin:
"Hãy nói đi, em bé nhỏ, hãy phát một cử chỉ chứng tỏ em tha thứ, tha
thứ hết".
Chị se sẽ vuốt mái tóc Tino, cảm thấy máu ấm rịn qua kẽ tay. Chị
vuốt nhẹ xuống đôi má đen của ông. Tino cảm động gục mặt xuống hai
đầu gối chị. Hai bàn tay chị đưa nhẹ trên áo ông. Áo đỏ nhoè. Chị
gục đầu lên gối ông, và khóc thoả thuê. Chị gọi se sẽ: Tino, Tino...
Một niềm say ngây giống hệt trạng thái người đứng bên bờ vực xâm
chiếm chị. Hân hoan và lo âu. Trong thân thể to lớn cục nịch nầy, có
cái buồn xanh xao của ánh sáng lọc qua tàu lá chuối, âm thanh huyền
bí của tiếng tu hú não nùng, mùi ngai ngái ẩm mốc bao năm dồn về một
tối đứng gió. Chị sợ những gì sắp xảy ra, ngày mai.
Tino đã kéo chị vào cuộc phiêu lưu của những kẻ cô độc, đi đâu cũng
gặp những đố kỵ, khinh bỉ. Chị chỉ có thể giấu mọi người ba tháng
đầu, nhân viên trong sở tưởng chị được khoan hồng nên tiếp tục làm
việc. Chị tránh đứng riêng với Tino, nhất định không gặp ông lần nào
nữa sau đêm bão tố. Tino kín đáo, không tỏ thái độ đặc biệt nào. Ông
vẫn giữ nét mặt cũ, lạnh nhạt xa cách. Chị tưởng những gì xảy ra,
chỉ là một biến động nhất thời của cả hai người, những cuộc đi hoang
trốn tránh kiếp sống nhàm chán vô vị thường ngày. Nhưng lúc chị thấy
trong người có triệu chứng lạ, và bác sĩ xác nhận chị đã có mang,
bão tố thực sự mới đến. Phản ứng đầu tiên của Tino là sự vui mừng
hớn hở.
Nhưng khi nhận ra vẻ mặt ủ rũ của chị, ông tự kềm chế, vồn vã hỏi
han. Chị chưa tìm thấy đôi mắt nào đẹp như đôi mắt Tino bấy giờ: có
chút gió đông của đông muộn và chút nắng mới của mùa xuân. Chị không
biết phải làm gì, bảo để về hỏi ý kiến me. Me sụt sùi khóc, không
dám khóc to, tỉ tê kể lể những tai tiếng về sau cho gia phong, đòi
đưa chị đi phá thai. Chị thấy lạnh cả người. Không có cách nào khỏi
phạm tội lỗi khác hơn là bỏ nhà sống với Tino.
Chị chưa từng nghĩ tới chuyện giết một con kiến nhỏ. Em nhớ không,
lúc bé mỗi lần chụp được chú muỗi trong mùng, em hả hê lần lượt rứt
cánh rứt chân, còn chị thì đọc kinh tiếp dẫn. Thà cuộc đời chị coi
như bỏ, chị không thể vâng theo lời me. Hôm chị bước khỏi cái cổng
vôi ôm bọc quần áo lên phố với Tino, là hôm chị bị sa thải ra khỏi
xã hội người Việt. Cuộc ra đi của chị, chị biết, liên luỵ cả gia
đình. Me không dám ra khỏi nhà, trừ những lúc quá túng thiếu ban đêm
lén lút trốn thầy lên chị xin ít tiền chi tiêu. Thầy say sưa suốt
ngày. Nhưng tuổi già quen vác nặng. Chỉ tội nghiệp có thân em. Bị
chúng bạn xầm xì chế giễu, bảo em có con chị lấy Mỹ đen, chịu không
nổi em đâm liều. Tuy không có ở nhà, nhưng chị biết hết. Hôm nào
chiều về em cũng có vài vết thương. Em bỏ học, đăng lính biệt kích.
Thầy chỉ biết trầm ngâm, me lại một lần thờ dài.
Cậu quí tử của thầy me, hũ mắm treo đầu giàn của thầy me, cục cưng
của thầy me ra đi, càng làm tuổi già thêm hiu hắt vàng vọt. Chị cảm
động biết bao, khi thấy em lảng vảng suốt buổi chiều trước nhà chị
thuê. Chị biết em ngần ngừ, nhưng không dám ra gọi em vào, sợ xấu
lây cho em. Cuối cùng lúc trời tối, em mới lẻn vào. Em chị khóc, bảo
thương chị và suốt buổi không thốt một lời trách móc. Em biết đâu là
sau đó me cũng lẻn lên, lấy một ít thuốc Tây, bọc kim chỉ và xin chị
vài nghìn cho em. Chị không dám hỏi tin tức thầy, nhưng me đoán được
ý chị, bảo thầy đang say và mê sảng:
"Thầy mầy lúc sau đổ đốn, suốt ngày lảm nhảm. Ông nói chuyện không
đầu đuôi, me có hiểu gì đâu. Me bảo thầy già, lẫn rồi. Thấy quát
tháo bảo mọi người điên hết. Chiều hôm qua khi nghe me bảo thằng
Hùng nó đăng biệt kích Mỹ, thầy im lặng không nói gì. Thầy bảo me
ngồi xuống trường kỷ kể chuyện chiêm bao: đêm trước có ông nội hiện
về, bảo thầy theo nội có việc gấp. Hai cha con nắm tay nhau, chỉ
nghe gió thổi, chẳng mấy chốc đã đến bờ sông. Nội dẫn thầy đến bên
con ngựa đá, bảo lên yên và ra roi. Lạ quá, ngựa bỗng hí vang, rồi
lội xuống dòng nước sâu, sang đến bờ bên kia. Một thần nhân áo xanh
chờ sẵn, cầm tờ giấy điều đọc to:
Ngựa đá đã sang sông.
Lụt máu ngập đầy đồng.
Gạch tan và ngói rữa.
Xương kết bè trôi sông.
Đọc xong bỗng nước sông biến thành huyết, đầu lâu ngụp lặn sau lưng
thầy. Vài cánh tay xương rút đuôi ngựa. Ngựa quị hý vang. Thầy chạy
trốn bên thần nhân, ông nầy lại hoá ra bộ xương khô cầm đao. Thầy sợ
quá hét lên, tỉnh dậy mồ hôi ướt đầm. Thầy bảo con ngựa đá là Núi
Ngựa. Dòng sông là Trà Khúc. Nước Trà Khúc dâng ngập chân Núi Ngựa
thì thiên hạ chết hằng hà sa số. Không biết gia đình họ hàng mình có
việc gì không? Me nghe thầy nói lạnh mình, vì tuần trước o Phấn ra
chơi bảo trong mình lụt lội, nước sông tràn đến chân núi".
Me nói xong nhìn chị. Chị nhìn me. Hai mẹ con cùng lo âu. Me khuyên
chị bòn rút tiền của Tino cho thầy sửa lại từ đường, còn để dành lúc
sinh nở. Chị vâng vâng dạ dạ, me đâu có biết đưa mấy nghìn cho me để
me đưa cho em làm lộ phí, chị chỉ còn vài trăm trong túi. Sáng nào,
khi Tino vừa ra khỏi nhà, là có vài thanh niên mặt mày côn đồ vào gõ
cửa truyền lệnh: Me Mẽo, đưa tiền tiêu chơi. Ê, Me Mẽo, đem ít hộp
bia uống. Me Mẽo, Me Mẽo. Hai tiếng đó làm chị hao mòn, ngậm đắng
nuốt cay. Chị biết trốn đâu đây, để khỏi thấy những đôi mắt láu lỉnh
đưa dấu trong khi những đôi môi thì thầm khúc khích. Chị trốn hết,
trốn hết, nấp trong vòng tay Tino và khóc thoả thuê. Chàng vuốt tóc
chị, kề môi xóa hết nước mắt trên trán chị, tỉ tê kể những nỗi đớn
đau suốt cuộc đời chàng để chị thấy những rủi ro cam chịu của chị
không phải họa hoằn. Chàng hát, giọng khao và nghẹn, những điệu
blues buồn ru chị quên hết những ám ảnh chập chờn. Chị ngủ trong
lòng chàng, và khi chợt thức vẫn thấy chàng say đắm nhìn chị. Trời,
chị tha thiết yêu Tino, chị say đắm chàng.
Bây giờ, em nằm yên rồi, vĩnh viễn không nói năng, múa máy, sừng sộ,
chị mới dám nói thẳng câu ấy. Nói thật to cho em nghe, dù em có cười.
Tội nghiệp, đừng cười nữa. Em hãy nghĩ đến gánh nặng của sự khinh bỉ
nhân gian đè lên vai chị, để thấy thấm thía tình chị với chàng: Suốt
một tuần trong nhà hộ sinh, chị lấy khăn phủ mặt khi bế bồng cháu,
vờ không nghe những lời xầm xì. Mỗi lần cháu lên ban đi tướt cần đến
bác sĩ, chị phải che hết tay chân mặt mũi cháu, đứt ruột khi cháu
ngộp thở ngọ nguậy mà không dám giở chăn giữa chỗ đông người. Những
đêm khuya vắng, chờ cháu ngủ, chị mới dám ra khỏi nhà đi dạo cùng
chàng, nép sát vào đôi tay bao dung của chàng.
Em tưởng tượng nỗi bơ vơ của chị, khi chàng được lệnh trở về Mỹ.
Chàng xin cưới chị, van nài chị đi theo. Làm sao chị bỏ được nơi
chôn nhau cắt rốn. Chị không còn được quyền đứng dưới khóm trúc xanh
nhìn những chuyến xe lửa rập rình qua cầu, nhưng ý nghĩ nó vẫn còn
đâu đó gần gũi đủ làm chị yên tâm. Chị còn có thầy có me, chị còn
phải chờ em. Tino gửi tiền ở ngân hàng cho chị đủ sống chờ chàng xin
trở lại, nhưng vẫn lo bọn du đãng ức hiếp chị. Chính chàng đề nghị
chị đánh bạo về xin thầy me cho được trở về nhà. Lần đầu thầy ngồi
yên nhìn chị, rồi quay đi, không thốt một câu. Lần thứ nhì thầy bảo:
Thầy thương con, tuy chính vì con mà thằng Hùng bỏ nhà ra đi. Nhưng
muốn về, phải cho thằng nhỏ vào cô nhi viện. Chị khóc, xuống năn nỉ
me. Thầy bỏ đi ra vườn. Lần thứ ba chị xin thầy thương chị, đừng nỡ
cắt tình máu mủ. Thằng cháu da ngăm đen, tóc xoắn, nhưng khuôn mặt
giống chị hơn giống chàng. Nó u ơ trong giấc ngủ, miệng cười vô tư.
Đó là hình ảnh chàng trong một khu phố tồi tàn nào đó của miền Nam,
thời còn chưa biết nỗi nhục nhằn đắng cay vì màu da. Làm sao chị bỏ
nó được. Tino đi rồi, chị chỉ còn có nó. Nên khi thầy nhứt định giữ
ý cũ, chị đành xa thầy me nuôi con. Từ ấy chị không được gặp lại
thầy. Còn me thì lên thăm chị luôn. Nhà mình sa sút cay cực đến độ
não lòng. Ban đầu vì giữ ý, me nhờ chị vay hộ khi năm nghìn, khi ba
nghìn. Sau đó me thú thực, và nhờ chị giúp đỡ. Em có biết đâu trong
mấy tờ giấy bạc gửi cho em qua tay bạn bè có giọt nước mắt của mẹ
già và của người chị khốn khổ. Rồi có tin loan truyền trong giới
biệt kích về phép thuật siêu quần của em. Họ bảo em mình đồng da sắt,
đạn bắn không thủng nhờ cái dây chuyền xâu bằng tai người phơi khô
làm bùa hộ mệnh.
Mỗi lần nghe những chuyện hoang đường ấy, me lâm râm Mô Phật. Còn
chị thì tê tái cả lòng. Tất cả đều do chị. Em ra đi vì chị. Gia đình
tan nát vì chị. Trời, em tôi đây sao? Đứa em bất chấp lòng tự ái và
dư luận lẻn đến khóc trong vòng tay chị, trước khi nhập vào thế giới
bạo tàn chém giết? Gà trống thường hay đá nhau, nhưng gà trống đâu
có say mê đá nhau. Thằng con trai ở miền khô cằn sỏi đá, sống âm
thầm trong lặng lẽ cô đơn đó ư? Me bảo chị viết thư hỏi hư thực ra
sao, nếu thiên hạ đồn đúng thì me phải thí phát vào chùa. Thư chưa
kịp gởi, nhà đã hay tin em đào ngũ, bỏ lính về sửa trị ba thằng du
đãng ngày ngày hiếp đáp chị.
Sao em biết chuyện? Ai mách cho em? Ai viết thư cho em? Chị vẫn cam
lòng nhẫn nhục, vì xem họ như thiên sứ nhà trời xuống trần để trừng
phạt chị. Em vẫn không bỏ tính cũ, thân lừa ưa vác nặng. Về quê chưa
kịp thăm thầy me và chị, em đã tìm đến nhà bọn du đãng đòi thanh
toán. Một thằng báo động hai, hai báo cho bốn, và một mình em làm
sao đương nổi mười đứa. Em ỷ có súng bắn quị hai thằng, nhưng em đâu
thấy ngọn dao của thằng thứ ba. Xác em nằm sóng soài, máu lênh láng
trong ngõ hẹp. Đôi mắt chưa kịp khép. Chị hôn lên mặt em, da diết
đớn đau. Em chết trong ngỡ ngàng, chưa hiểu rõ mình đang làm gì. Em
của chị đây sao? Con của me đây sao? Chị và me phủ phục trên xác em,
còn thầy thì cầm con dao đẫm máu hò hét múa may. Mọi người sợ chạy
dạt cả ra, trốn hết vào nhà. Thấy phát điên, i uông ca hát:
Tình tang... ứ hự... ứ hự ngựa đã sang sông. Nhong nhong là nhong
nhong ngựa ông lại về... Lại về ngựa đá sang sông...
Thôi, vậy là yên phận em! Thầy đã vào nhà thương. Me heo hắt trong
khu vườn xanh, đang chờ chị về. Vĩnh viễn, vĩnh viễn xa em rồi. Con
đường nhựa uốn cong theo con sông đào không còn dẫn em về chiếc cổng
vôi rêu phong, chiếc cổng không dẫn em vào vùng xanh xao của lá non,
múi ẩm mốc nghìn năm tích tụ, tiếng chim tu hú trong bụi tre già ma
quái... Thầy hết ngồi trầm ngâm, thầy chỉ lo hát ngựa đá sang sông í
a ngựa đã sang sông.
Hàng xóm bảo nhà mình bị quỉ ám. Chị không tin, vì nếu xét cặn kẽ
nguyên nhân, tất cả sự đổ vỡ đều do ở chị, do ở chàng. Chàng lập mưu
kế để chiếm cho được chị, nhưng em tha lỗi cho chàng. Tino ở trong
một trạng thái tuyệt vọng đến độ sự hiện diện của chị là tấm ván cứu
rỗi cho một cuộc đời vốn bập bềnh phù du. Bão tố đến cho chị, cho cả
nhà mình, nhưng ai bảo cuồng phong không phải là bạo lực tích tụ từ
những cơn gió heo may trở mùa, những làn phảng phất trưa hè vắng
lặng. Bão tố từ trong em, trong chị, trong con ngựa đá chỉ có do sự
tưởng tượng thi vị của dân làng ven sông.
Mừng em về nơi an bình, tuy chị xót xa hết sức khi mãi mãi xa em,
nhìn me héo gầy và nghe thầy hát cuồng.
Nguyễn Mộng Giác
2024
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng ngày tao loạn
Sài Gòn ơi!
Đoạn kết câu
chuyện tình buồn
Đôi giầy trậ
Thư ký của thiên
thần
Với tàu định
mệnh Lam Giang HQ 402
Bà Mẹ thượng đẳng
Do Thái và Bài học sinh tồn
Một bà mẹ vất vả
Áo bà ba tím
Anh hùng Richard Norden
Văn hoá không tên
Họ đến và chết vì tự do
Thiên đường đã xa
Yếm thắm hương xưa
Ông Sư nhà quê
Còng lưng vẫn gánh
Cuộc đời và sự nghiệp của danh ca Hà Thanh
How the 1972 North VN Easter offensive...
Xác
chết trên bãi biển
Những
món nợ khó trả
Nếu
có thể đi về quá khứ...
Người
đưa tin... độc địa
Chị Agnès
Một thời chinh chiến điêu linh
Người Saigòn ….xưa!!!
Trí thức sến
Đuổi gà cho vợ
Hậu Duệ VNCH rạng danh Tiểu Bang Texas
Máu đào
Bản tình ca của
người Tỵ Nạn
Miếng ăn
Cờ Việt Nam Cộng Hòa ngay giữa thủ đô
Melbourne
Đại uý Andrew Dang (gốc Việt), Phi công B-2
Chiến tranh Israel-Iran
Hình ảnh Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19/6
tại Úc
Kỷ niệm ngày 19 tháng Sáu tại Cali
Mắt lệ cho
người
BS trong tù
Những ánh mắt trẻ thơ
Gặp lại cố nhân!
Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!
Những năm nào chiến tranh đã quên
Sau 30 tháng 4. những nhớ và quên
Từ một tấm hình
Những người
chiến sĩ vô danh
Phố núi
Nhiều khi
Viết trong ngày Memorial Day 2025
Đệ Thất Hạm Đội - Cứu giúp thuyền nhân
Sự đời
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong nhớ bạn
Chuyện tình thời
chiến
50 năm – còn đó nỗi buồn
30 tháng 4. Một vài hồi tưởng...
Tiếng khóc của
một dân tộc
Bài thơ của
một người học trò cũ
Vào viện dưỡng lão
Thu - Hát cho người
Mảnh vụn
Ơn em
Người vợ
lính
Melbourne - Tưởng niệm 50 năm Ngày Quốc Hận
Ngày người tù binh trở về!
Tưởng Niệm Tướng Nguyễn Khoa Nam
Vào ngày này năm 1975, Chiến dịch Gió lốc
Ngày cuối cùng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Cong lưng vẫn gánh
Đề tài về Đà Nẵng cuối tháng 3, 1975
Tháng
Tư - Nhìn lại tháng Ba gãy súng
Băng đạn cuối cùng
Cuộc di tản tệ hại ở toà Đại Sứ Mỹ
Tưởng nhớ anh Năm
Nguyễn Đình Bảo
Cờ Vàng: Biểu tượng của Việt Nam Cộng Hòa
Vĩnh biệt anh chị Trần Hoài Thư
Tìm được hài cốt Th/T Trương Phùng...
Các anh hùng LCĐB tử thủ An Lộc
Đêm đình
chiến
Ai xứng đáng được phủ Quốc Kỳ VNCH
Những
tên vc nằm vùng
Giải oan cho Tổng Thống Thiệu
Trại tị nạn Camp Pendleton năm 1975
33 năm tìm được xác chồng
Kẻ bại trận
nợ người tử trận!
Sao Mai 09
Tuấn Ngọc -
Gửi gió cho mây ngàn bay
Chữ "Tín"
Nghĩa trang tử sĩ Biên Hòa
Tonle Tchombe
(Tống Lê Chân)
Người lính trong lửa đạn, và sau trận chiến
Không
bỏ Anh Em, không
bỏ Bạn Bè
Tình
người
trong cuộc
chiến
Trận
chiến Đại Phú
Tâm thức người lính Nhảy Dù trong cõi vô sắc giới
Tâm tưu của một thằng lính ngụy
Tao là Ngụy!
Những kẻ mở
miệng là phát ra tiếng "Ba Que"
Ba mươi tháng tư năm
xưa, bác ở đâu?
LHQ chất vấn Việt Nam về TPB VNCH
Chết để làm gì
Đưa anh về nhà
Chiều
Thằng "Cầu" đỏ
Kỷ niệm 50 năm người Việt định cư tại Úc
Chương trình kỷ niệm 50 Năm, người Việt Tỵ Nạn CS
Chuyện về một lá thư
Đất nước lạ lùng
Chuyến đi Hawaii & giây phút thần tiên khó quên
Người Lính Già Oregon Đã “Giã Từ Vũ Khí”
Bên bờ sinh tử
Đời ơi tôi khóc !
May mà ta còn có em...
Nhà báo lão thành Mạc Kinh
Tô Lâm thừa nhận Sài Gòn trước 75 phồn vinh
Khi rừng chưa thay
lá
Bạn xưa 50 năm cũ
Cuộc hành trình
Hãy thắp
cho anh một ngọn đèn…
Trận tổng tấn công của VC và phản công của TQLC trong Tết
Mậu Thân
Kỷ niệm Cổ Thành Đinh Công Tráng
Tái chiếm Quảng Trị, trận chiến dài nhất
QLVNCH tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị
Sài Gòn, quán cafe & tuổi lang thang
Khoác áo chiến y
Một nét văn hoá Sài Gòn xưa
Sài Gòn ơi, Em còn đó hay không?
Dòng sông đứng lại
Con người thực Anthony Fauci
Trong lửa đỏ, giữa sự chết, trên Quê Hương!
Tết năm này nhớ
tết năm xưa
Phi vụ cuối cùng
55 năm Tết Mậu thân 1968
Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng
Người Việt Nam
đầu tiên nhảy dù là ai?
Hình ảnh Lễ Thượng Kỳ mồng một Tết Ất Tỵ tại Úc
Đêm giao thừa buồn
3 mẫu chuyện ngắn
Đi tìm hơi ấm
Đồng Hương
Ngựa đá qua sông
50 năm nhìn lại người Việt tại Hoa Kỳ
Con dao con chó
Người Nam Kỳ
Tâm sự của một cựu sinh viên Luật Khoa Sài Gòn
Sự chiến đấu kiêu hùng của QLVNCH
Người ở lại Định Quán
Xứ cao bồi những ngày trước lễ Giáng Sinh
Phiên phiến tuổi già
Một chuyện rất Việt Nam
Đỉnh ngu trí tuệ
Tạp ghi CẢM ƠN NGƯỜI VIẾT SỬ “Phía Bên Kia”
Bạn thân từ thiếu
thời
Chân dung
ngày xưa Hoàng Thị
Xóm cũ nội thành
Tôi tay đôi với tụi nó đây!
Tấm thẻ bài
Rạn rụa lệ mềm
Các con phải sống
Hồi Ký của người về Từ Hoa Lục Đỏ 1974