Những bài viết của Bất Khuất

May mắn & Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

ĐỖ TRƯỜNG - Người Chuyên Chở Văn Học Miền Nam Qua Vũng Lầy Lịch Sử


Phạm Tín An Ninh



Đầu năm 2022, tôi bất ngờ đọc được bài viết “Níu Một Đời, Giữ Một Thời” của tác giả Ban Mai, một nhà văn trẻ trong nước. Cô đang là giáo sư giảng dạy về Khoa Học Công Nghệ và Hợp Tác Quốc Tế tại Trường Đại Học Qui Nhơn

Mở đầu bài viết, tác giả đă vẽ lại bức tranh đen tối, kinh hoàng sau ngày 30.4.75:

“…phần lớn người Miền Nam làm việc cho chính phủ Cộng Ḥa đều bị tập trung cải tạo. Cuộc sống của nhiều gia đ́nh đảo lộn. V́ sau khi đổi đời, họ bị thất nghiệp, nhiều người lâm vào cùng quẫn. Cảnh quan thành phố tiêu điều xơ xác, thiếu lúa gạo khiến dân phải ăn độn bo bo và ḿ sợi. Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không c̣n được tự do tŕnh bày suy nghĩ, không c̣n được tự do hấp thu tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx. Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đă từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ư thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…”


Và tác giả cho biết sự t́nh cờ được may mắn tiếp cận với ḍng văn chương miền Nam:

“Mùa hạ năm 2010, tôi t́nh cờ đọc bài viết của nhà thơ Du Tử Lê giới thiệu về tác phẩm “Những cơn mưa mùa Đông” của tác giả Lữ Quỳnh do nxb Thư Ấn Quán ở Mỹ xuất bản, thời gian này tôi đang t́m hiểu ḍng văn chương Miền Nam nên liên hệ, ngay lập tức nhà văn Trần Hoài Thư và Lữ Quỳnh trả lời, tôi biết họ từ ngày ấy.

Bắt đầu từ đó, tôi t́m đọc ḍng văn chương Miền Nam Việt Nam do nxb Thư Ấn Quán phát hành, v́ ngày xưa trước năm 1975 tôi c̣n quá nhỏ chưa hiểu biết ǵ, tôi sinh ra và lớn lên ở Quy Nhơn, thuộc Miền Nam Việt Nam v́ vậy tôi không muốn văn chương Miền Nam bị thất lạc và bôi xoá, tôi cần phải t́m hiểu và phổ biến lại cho thế hệ trẻ ở trong nước biết.

Thật may mắn, mùa thu năm 2011 nhà thơ Vũ Trọng Quang từ Sài G̣n photo cho tôi trọn bộ “Văn Miền Nam” (4 tập) và 2 tập “Thơ Miền Nam thời chiến” do Thư Ấn Quán phát hành năm 2009. Cuốn sách mới nhất tôi được Trần Hoài Thư tặng là cuốn “Những tạp chí Văn học Miền Nam” do ông sưu tầm và nhận định in năm 2018, ông đă sưu tầm được 15 tạp chí đă từng xuất bản ở Miền Nam Việt Nam gồm các tạp chí: Ư thức, Bách khoa, Văn, Sáng tạo, Khởi hành, Vấn đề, Tŕnh bày, Thời tập, Hiện đại, Văn nghệ, Nghệ thuật, Mai, Văn học, Văn hóa nguyệt san, T́nh thương.

Nhờ ông, tôi có được một cái nh́n khái quát về diện mạo nền văn chương Miền Nam Việt Nam mà hiện nay ở trong nước đă không c̣n nữa.

Nếu không có ông, làm sao tôi biết 462 tác giả trong 2 tập “Thơ Miền Nam trong thời chiến”, mà phần nhiều là những người lính cầm bút đă chết, đó là “những trang thơ được sưu tập từ một thời kỳ đen tối của quê hương, khởi điểm bằng lệnh tổng động viên và chấm dứt bằng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tập sách này là một nguồn tài liệu giúp cho những nhà phê b́nh văn học, những người nghiên cứu văn học sử, và những ai chưa có dịp tiếp cận với nền văn chương Miền Nam trong thời chiến tranh để họ có cái nh́n rỏ và đúng đắn hơn về một ḍng văn chương t́nh tự, tự do, khai phóng, sáng tạo và nhân bản”

Cuối bài, tác giả có nhiều lạc quan về cái nh́n của một một số trí thức trẻ trong nước và kêu gọi sự tiếp tay của mọi người trong trách nhiệm “bảo tồn và chia sẻ Văn Học Miền Nam cho đời sau”.

“Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài G̣n cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm t́m kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đă chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng t́m kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đă đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh b́nh giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn: “Ta về như lá rơi về cội/Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/Chút rượu hồng đây xin rưới xuống/Giải oan cho cuộc biển dâu này”. Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

Tôi tin rằng, sẽ không c̣n bao lâu nữa ḍng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến tŕnh phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ ǵn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam.”


Đọc bài viết của tác giả Ban Mai, tôi bỗng nghĩ ngay đến một người khác, mà diện mạo của ông trong lĩnh vực này lúc nào cũng sáng lên trong suy nghĩ và hy vọng của tôi: Nhà văn Đỗ Trường.

Đỗ Trường người Nam Định, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm năm 1980. Sau thời gian theo học Khoa Anh Ngữ tại Đại học Ngoại Ngữ Hà Nội, năm 1987 ông nghỉ học, đi buôn rồi theo lao động xuất khẩu sang CHDC Đức. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ông ở lại và cùng cả gia đ́nh định cư tại thành phố Leipzip, CHLB Đức. Tác phẩm đầu tay là tập truyện “Không Bao Giờ Thành Sẹo” do Vipen xuất bản 2013. Sau đó là “Về Miền Kư Ức” (tạp bút),“Đất Nước Với Những Đường Cong”, “Không Thể Sống Trong Im Lặng”, “Từ Hộ Chiếu Buồn Đến Đau Thương Hành” (xuất bản năm 2019, là một tác phẩm đặc biệt nói về những khổ nạn mà chính quyền CS Việt nam đă hành xử đối với ông, v́ những bài viết của ông), và mới nhất là “Men C̣n Đọng Lại Đáy Ṿ”, viết về một số tác giả tiêu biểu, những người lính cầm bút miền Nam (Nhân Ảnh xuất bản năm 2022.) Ngoài ra, là một loạt các truyện ngắn, tùy bút, kư sự, biên khảo đựợc độc giả khắp nơi đón nhận khá nồng nhiệt.

Sự nghiệp văn chương chưa dày lắm, nhưng tên tuổi ông đă nổi bật cả trong lẫn ngoài nước, bởi các bài nghiên cứu khá tường tận, với những nhận định một cách khá công tâm, sâu sắc, tinh tế về nềnvăn học miền Nam, đặc biệt qua những tác giả vốn là những người lính cầm bút trong và sau cuộc chiến.

Lần đầu tiên tôi biết và đặc biệt lưu ư tới Đỗ Trường, cách nay hơn mười năm, khi đọc được bài viết “Những Giải Văn Học Không Có Thật”. Ông phê phán (có thể gọi là lên án) Hội Nhà Văn Việt Nam tại Hà Nội đă trao giải thưởng cho tác phẩm Dị Hương của một tác giả trong nước:

“Ngắc ngứ măi, rồi tôi cũng đọc xong truyện ngắn Dị Hương của Sương Nguyệt Minh. Quả thật, ngoài những pha làm t́nh mang dáng dấp từ truyện Đồi Thông Hai Mộ, Gia Long Nguyễn Ánh hiện lên đậm tính lục lâm thảo khấu với giọng văn kiếm hiệp phương Bắc. C̣n lại tôi không t́m được điều ǵ khác tác giả muốn chuyển tải đến người đọc.”

Để rồi ông nhận định thêm về “hiện tượng” đa số các cây bút trong nước lúc ấy:

“Trong khi viết về chiến tranh, các cây bút trong nước thật sự chưa có cái nh́n công bằng với những người quân, cán của VNCH. Họ vẫn hiện lên đầy rẫy ở các tác phẩm với những h́nh ảnh méo mó, với những tên gọi xếch mé. Gần đây nhất tôi mới thấy các cây viết trong nước ca ngợi một người lính VNCH, v́ anh có công cùng với người lính Mỹ cất giữ cuốn nhật kư Đặng Thùy Trâm, để hôm nay chúng ta mang ra phát động tuyên truyền. Chúng ta hăy b́nh tâm đọc lại những vần thơ của nhà thơ Trần Trung Đạo, anh là một thuyền nhân. Cũng viết về người lính, nhưng anh không phân biệt đâu lính VNCH, hay là anh bộ đội…..”

Sau này, qua nhiều bài giới thiệu, nhận định, phê b́nh về một số tác giả và tác phẩm miền Nam của ông, tôi dần dà có nhiều thiện cảm và đánh giá cao về khả năng văn chương, đặc biệt ư thức về một nền văn học mà cá nhân ông trước đây chưa từng biết qua, và chắc chắn khi c̣n ngồi trên ghế nhà trường, đă từng bị đầu độc đó là loại “văn chương phản động”, “văn chương đồi trụy” mà sau tháng 4 /1975 chính quyền Cộng Sản t́m mọi cách hủy diệt, nhưng không thể.

Ông nghiên cứu và viết khá nhiều về những tác giả, tác phẩm miền Nam. Một số tôi đă đọc được:

– Trần Trung Đạo – Tiếng Vọng Từ Bên Kia Đại Dương
– Luân Hoán – Người Kể Chuyện Bằng Thư
– Vũ Hữu Định – Đường Đi Không Đến
– Vũ Hoàng Chương – Lạc Loài Trong Cơi Nhân Sinh
– Đinh Hùng – Con Đường Thi Ca Độc Đạo
– Ḥa Thượng Thích Như Điển – Chân Dung Một Nhà Văn
– Du Tử Lê – Đời Lưu Vong Chưa Tận Tuyệt Với Linh Hồn
– Phạm Tín An Ninh – Con Đường Giải Oan Cho Một Cuộc Bể Dâu
– Cao Xuân Huy – Người Vẫn Không Thể Thoát Ra Khỏi Cuộc Chiến
– Tô Thùy Yên – Tiếng Thơ Lầm Than Hào Kiệt Từ Một Thời Khủng Khiếp, Một Vận Phân Ly
– Nguyễn Đức Sơn – Chập Chờn Trong Cơi Hư Vô
– Thảo Trường – Những Mảng Ghép Của Chiến Tranh
– Duyên Anh – Từ Cảm Xúc Cho Đến Tận Cùng Của Con Chữ
– Trần Hoài Thư – Người Ngồi Vá Lại Những Linh Hồn…
– Trần Hoài Thư Với Những Vần Thơ Lúc Nửa Đêm
– Nguyễn Bắc Sơn – Một Đặc Phẩm Của Thi Ca Miền Nam
– Phạm Ngọc Lư – Người Vẫn Giữ Lửa Cho Văn Học Miền Nam– Tùy Anh – Từ Tháng Tư Buồn Đến Nỗi Đau Biệt Xứ
– Phan Nhật Nam – Hè Vẫn C̣n Đỏ Lửa
– Nguyễn Tất Nhiên – Một Trường Thiên Kịch Bản Bi Ai
– Cao Đăng Khánh – “Lửa Ngoài Giới Hạn” Chúng Không Tạ Từ
– Nguyễn Nho Sa Mạc – Một Ngôi Sao Xẹt Qua Bầu Trời Thi Ca
– Lữ Quỳnh – Chiếc Cán Cân Của Văn Học Miền Nam
– Song Vũ – Người Vẫn Chưa Thể Bước Ra Khỏi Cuộc Chiến
– Trạch Gầm – Một Giọng Thơ Độc Đáo– Cung Trầm Tưởng – Từ Chuyện T́nh Lăng Mạn Đến Hồn Thơ (Thế Sự) Lưu Đày



Đặc biệt, trong bài “Văn Học Miền Nam – Một Góc Nh́n” được viết ngày 16.11.2021, nhà văn Đỗ Trường đă có cái nh́n rất sâu sắc về Văn Học Miền Nam, đặc biệt hai khía cạnh Hiện Thực và Nhân Bản. Xin trích đoạn một số tiêu biểu:

…tuy bị bức tử, song cũng như âm nhạc, sức sống của nền văn học ấy vẫn mănh liệt lắm. Nó không chỉ âm thầm đi sâu vào ḷng người ở ngay đó, mà c̣n sinh sôi nảy nở ngoài cương thổ, nơi có mấy triệu người Việt nữa ḱa!

…có được sức sống lâu dài ấy, cũng bởi Văn học miền Nam chứa đựng những giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Hai giá trị cơ bản của văn học này, dường như ta rất ít gặp ở những tác phẩm ngoài Bắc trong cùng giai đoạn chiến tranh 1954-1975, bởi tính tuyên truyền đă bóp nghẹt những giá trị ấy. Dù miền Bắc có rất nhiều nhà văn tài năng.

…dù bị đánh tráo khái niệm, hay khoác cho một chiếc áo, một tên gọi mới, th́ thực chất Văn học miền Nam không hề bị méo mó, đổi thay. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ đi sâu vào cái giá trị hiện thực, và nhân đạo của Văn học miền Nam (trong chiến tranh) dưới ng̣i bút của những nhà văn người lính mà thôi.

…Có thể nói, chiến tranh tuy tàn khốc, nhưng đă sản sinh ra một loạt các nhà văn, nhà thơ tài năng xuất thân từ những người lính: Dương Nghiễm Mậu, Thế Uyên, Thảo Trường, Tô Thùy Yên, Lữ Quỳnh, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương, Trần Dzạ Lữ… Những tác phẩm c̣n nguyên mùi khói thuốc, vang tiếng đạn bom của họ như một luồn gió mới làm thức tỉnh, và giải tỏa sự bế tắc của Văn thơ miền Nam đang gà gật lúc đó. Và những tác phẩm ấy gắn liền với hiện thực của xă hội, sự tàn khốc chiến tranh, cũng như thân phận người lính.

…Có thể nói, những nhà văn miền Nam (1954-1975) không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi bất kể thế lực, đảng phái nào. Cái tôi, và tự do tư tưởng, sáng tạo của họ đă được coi trọng, phát triển. Với tư tưởng như vậy, nên nền Văn học miền Nam được h́nh thành bởi những giá trị hiện thực, và nhân đạo là điều hiển nhiên. Với tôi đó chính là một nền văn học đích thực.

…Nếu không có thơ văn đích thực, th́ chúng ta và các thế hệ sau này chắc chắn sẽ không hiểu sự thật về bản chất của cuộc chiến này, cũng như tâm trạng người lính với những năm tháng tang thương đó. Văn học như một chiếc cầu nối lịch sử đến với con người vậy. Và chính những nhà văn người lính đă nối những nhịp cầu ấy. Thật vậy, giữa sự sống và chết rất mỏng manh nơi chiến trường, vậy mà ta vẫn thấy tính nhân bản của con người chợt hiện lên…Và cái t́nh người ấy, dường như xuyên suốt trang thơ của người lính.

Trong bài “Phạm Ngọc Lư -, Người Vẫn Giữ Lửa Cho Nền Văn Học Miền Nam”, (khi đang ngồi đọc Văn thơ miền Nam 1954-1975, tác giả chợt nhớ đến nhà thơ Phạm Ngọc Lư, sống trong nước, gốc giáo chức (theo lệnh động viên nhập ngũ vào khóa 5/68 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức, nhưng chỉ một thời gian ngắn, được biệt phái trở lại ngành giáo dục), sau 1975 dù phải sống đời lang bạt khốn cùng, nhưng vẫn tiếp tục sáng tác những bài thơ (hành) đầy khí khái miền Nam, nhà văn Đỗ Trường đă viết:

“…Từ độ“đất trời dị biệt, gió mây bất đồng” th́ nền Văn học miền Nam bị khai tử. Và tṛn bốn mươi năm, tưởng chừng nó cũng đă ch́m vào lăng quên. Nhưng nh́n lại, dường như ḍng văn học ấy vẫn nảy nở, âm thầm chảy trong ḷng đất Việt. Có thể nói, ngay sau biến cố 1975 ḍng chảy đó tự chẻ ra như những nhánh sông luân lạc… rồi t́m về, tụ lại đó đây. Tuy chưa thể cháy lên, nhưng nó đă cùng với những nhà thơ, nhà văn hải ngoại làm ấm lại phần nào cho nền Văn học miền Nam.

Nếu được phép đi t́m những khuôn mặt cho Văn học miền Nam c̣n ở lại trong nước, chắc chắn thi sĩ tôi nghĩ đến trước nhất phải là Phạm Ngọc Lư. Tuy viết không nhiều, nhưng cốt cách Con Người cũng như hồn vía văn thơ của ông trong một cái xă hội dối trá lọc lừa, không phải ai cũng giữ được.”

Không chỉ viết về những tác giả, tác phẩm của Văn Học Miền Nam, nhà văn Đỗ Trường cũng đă viết về một số nhà văn nhà thơ tiêu biểu miền Bắc. Ông ca ngợi tài năng, sự thành công và cả thái độ “phản tỉnh”của họ, nhưng cũng đă thẳng thắn phê phán những trường hợp sai lầm, tiêu cực:

-Trong bài “Vài Suy Nghĩ Về Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh Của Nguyên Ngọc” có một đoạn nhà văn Đỗ Trường viết:

“Đọc “Hậu Báo Văn Nghệ Và Nỗi Buồn Chiến Tranh” của nhà văn Nguyên Ngọc, tuy rất khoái, nhưng tôi cảm thấy c̣n chút lăn tăn. Bởi, không chỉ Nguyên Ngọc, mà một số nhà văn trong nước vẫn c̣n luyến tiếc cái Trường viết văn Nguyễn Du. Một cái trường, dường như có tác dụng hợp thức hóa bằng cấp cho các bác vừa từ chiến trường trở về th́ đúng hơn. Chứ các bác đă thừa biết, có cái trường quái nào đào tạo được nhà văn, nhà thơ đâu. Do vậy, không những giải tán cái trường này, mà các bác nên giải tán luôn cái Hội nhà văn, cái Văn Nghệ Quân Đội, cũng như các trường báo chí tuyên truyền, trường luật pháp cùng các đoàn, trường nghệ thuật quân đội đỡ gánh nặng thuế má của người dân

…Tôi đồng ư với Nguyên Ngọc về sự đánh giá cao Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh. Tuy nhiên, cuốn sách này c̣n không ít những đoạn Bảo Ninh lên gân, và bốc phét hơi bị nghĩa lộ, chứ không toàn bích như Nguyên Ngọc đă viết

Cách nay vừa tṛn hai mươi năm(1993), tôi có về Hà Nội, gặp được ông em họ vừa ở tù ra v́ can tội là lính thám kích, quân đội VNCH. Tôi có đưa cho hắn cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh. Đọc xong, hắn bảo, ông Bảo Ninh viết hoàn toàn sai về người lính VNCH. Như câu chuyện bốn người lính thám kích bị bắt, tác giả viết một cách không đúng sự thật. Từ cách mô tả hành động đến thuật lại những mẩu đối thoại của những người lính thám kích này.

Lính thám kích được chọn, hầu hết c̣n trẻ, gan dạ và có bản lănh. Họ không thể nào quá hèn hạ, van xin như Bảo Ninh kể. Nếu có xin tha đi nữa, th́ cách nói và những lời nói ấy, nhất định không phải của họ. Điều này hắn khẳng định không thể có. Người lính thám kích đă được giáo dục về nhân cách, ngay sau khi đă được tuyển chọn. Trong nhiệm vụ đặc biệt, những toán thám kích cần phải tránh nổ súng, tránh bị phát hiện, trừ trường hợp, tự vệ, bất khả kháng. Cho nên, không thể có trường hợp phát hiện, bắt ba cô gái, rồi dẫn đi nhởn nhơ như vậy, để nhóm của Kiên tóm được. Hơn nữa, trong trường hợp đă bị bắt, trước sự sống chết, không thằng nào ngu xuẩn, nói giọng trêu cợt: Ba nhỏ đó tŕnh quư anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi… Mấy nhỏ la khóc quá trời..

Hắn cũng cho rằng, cuốn truyện c̣n nhiều cảnh tưởng tượng quá mức, như trường hợp, một đám lính, làm thịt con xà niêng, nhưng sau khi cạo lông mới phát hiện ra đó là một người đàn bà.

Tôi viết lại lời hắn theo trí nhớ của ḿnh. Và c̣n nhiều lời nặng nề khác của hắn về Nỗi Buồn Chiến Tranh, nhưng tôi xin phép không chép ra đây. Hắn ra người thiên cổ đă lâu. Vài ḍng như một chút tưởng niệm đến hắn và những người lính cả hai miền Nam-Bắc đă hy sinh trong cuộc chiến vừa qua.”


Trong bài “Hữu Loan – Tài Năng Và Sự Mâu Thuẫn Trong Tư Tưởng Cũng Như Thi Ca”, (viết nhân 10 năm ngày mất của thi sĩ Hữu Loan), nhà văn Đỗ Trường đă đưa ra một vài chi tiết mà gần như hầu hết trong chúng ta chưa được biết về tác giả bài thơ nổi tiếng“Màu Tím Hoa Sim” này:

“Khó hiểu, và bất ngờ hơn nữa, trong cùng một thời điểm Hữu Loan viết bài ngợi ca: Chế Độ Ta, khác hẳn với sự châm biếm, đả kích ở bài: Cũng Những Thằng Nịnh Hót. Sự mâu thuẫn, nhức nhối này, làm cho người đọc một cảm giác “Cây gỗ vuông chành chạnh” Hữu Loan, dường như c̣n một khuôn mặt khác nữa:

“…Chế độ ta
Đến đâu
Mặt trời theo
Đến đấy
Chế độ ta
Đă dạy
Cho mặt trời
Công b́nh…

Chế độ ta
Không c̣n hành khất
Không c̣n người ăn sương
Nhân loại cần lao
Lớp lớp
Lên đường
Mặc áo muôn màu
Hát muôn thứ tiếng
Tay nắm tay thân mến
“Ta giữ ḥa b́nh
Cho chế độ ta đây…”

Có thể nói, Hữu Loan có cái nh́n méo mó về Hà Nội và Saigon, cũng như cuộc di cư của hơn một triệu đồng bào miền Bắc (sau1954), khi ông viết bài Đêm vào tháng 5/1956. Quả thực, dưới cái tư tưởng, quan điểm phiến diện như vậy của Hữu Loan, Hà Nội trước kia, và Saigon hôm nay (1956), hiện lên trong thơ như một thứ ung nhọt, giang mai cùng mă tấu. Sự đĩ điếm, bỉ ổi ấy, càng rơ nét hơn dưới phép so sánh của ông: “Đêm Hà Nội/ Ngày nay/ Như em nhỏ nằm tṛn/ Ru trong nôi chế độ”. Cái khía cạnh, và sự ru ngủ này, trong thơ Hữu Loan, dường như ít được các nhà nghiên cứu, và phê b́nh nhắc đến:

“…Hốt hoảng gọi nhau
Không kịp vớ áo quần
Những đêm Hà Nội ngày xưa
Lơa lồ
Ḿnh đầy ung độc
Đă xuống tàu đêm
Vào Sài G̣n
Tất cả

Những đêm Sài G̣n
Ngày nay
Đêm giang mai
Tẩu mă
Đang mưng
Cấp cứu gấp vạn lần
Những đêm xưa Hà Nội
“10$ 1 cốc cà-phê
100$ 1 con gái…”

Quảng cáo đóng đầy
Ngực đêm
Như áo ngủ Sài G̣n

Đêm Hà Nội
Ngày nay
Như em nhỏ nằm tṛn
Ru trong nôi chế độ
Những đèn dài đại lộ
Như những tràng hoa đêm
Nở long lanh
Trong giấc ngủ
B́nh yên”

Sau 1954, những thi sĩ, nhà văn cùng thời như, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, hay Nguyễn Tuân… đều phải đảo bút, úp mặt quay lưng v́ cuộc sống là điều dễ hiểu. Song với Hữu Loan một nhà thơ thẳng thắn, và can trường là một điều thật khó lư giải. Do vậy, cần lắm một sự nghiên cứu của các bậc tiền bối từ trong nước ra đến hải ngoại, để làm sáng tỏ một cách chân thật nhất về nhà thơ tài năng, đáng kính Hữu Loan.

Và một trong nhiều trường hợp thay đổi tư duy ngược lại: nhà thơ Đinh Thị Thu Vân (trong Hội Văn Nghệ Long An)

“…ngay từ những ngày đầu cầm bút Đinh Thị Thu Vân đă hồ hởi, reo vui: “Tháng Tư ơi xin đẹp măi tâm hồn.”. Và Ba mươi tháng Tư đến, nhà thơ như cởi bỏ dĩ văng, gột rửa được tâm hồn. Lời tự thú ấy đă được Đinh Thị Thu Vân viết thành thi phẩm: Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư, rất đồng điệu với khí thế hừng hực của những ngày sau 30-4-1975. Quả thực, nó chẳng khác ǵ một bản kiểm thảo trước chi bộ đảng đoàn vậy

“…Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư
Em giờ vẫn như thuở nào, sợ tay ḿnh lấm đất
Sẽ không biết tự khuyên ḿnh những lời nghiêm khắc nhất
Không một lần dám sống hy sinh
Và giữa ḍng người cuộc sống gấp bon chen
Em đâu biết tin ai một điều ǵ tuyệt đối
Em sẽ đến với t́nh yêu bằng nửa trái tim yếu đuối
C̣n nửa tim kia đành giữ lại… để nghi ngờ

—-

Sẽ… rất nhiều, anh hiểu phải không anh
Ngày tháng trước em là con ốc nhỏ
Con ốc đa nghi cuộn ḿnh trong lớp vỏ
Sống vô t́nh mà ngỡ sống thông minh…”

Nếu “Nếu không có ngày Ba mươi tháng Tư” là lời tự thú, để rũ bỏ quá khứ, gột rửa tâm hồn, th́ đến với “Saigon Đau” lại là sự t́m về dĩ văng, trong cái tiếc nuối và nỗi đau mất mát của Đinh Thị Thu Vân. Có thể nói, “Saigon Đau” là bài thơ tiêu biểu, và rơ nét nhất cái mâu thuẫn tư tưởng trên những trang viết của Đinh Thị Thu Vân. Và nó cũng là một trong những bài thơ viết về thế sự xă hội hay nhất, mà tôi được đọc. Thật vậy, nỗi đau và sự luyến tiếc đó, dường như không phải của riêng nhà thơ, mà nó đưa đến, và nhận được sự đồng cảm của rất nhiều người. Vẫn những lời thơ tự sự, Saigon Đau như một mũi khoan xoáy vào ḷng người đọc. Nhất là những kẻ buộc phải rời xa quê. Ta hăy đọc lại những trích đoạn có lời thơ dân dă, song rất đẹp dưới đây để thấy rơ, (và so sánh) cái mâu thuẫn tư tưởng, cũng như cái tôi, và chất trữ t́nh trong thơ thế sự xă hội của Đinh Thị Thu Vân:

“em yêu Sài G̣n, v́ nơi đó có một người đau
một người mất những vàng son quá khứ…
Sài G̣n của anh
một thời Công Lư
một thời Tự Do
Sài G̣n của một thời Thương xá
em bước qua, ngơ ngẩn mắt quê mùa…
không có t́nh yêu, Sài G̣n như đất trống
như câu thơ lạc vận chẳng neo hồn!
không giữ lại dáng h́nh xưa được nữa
Sài G̣n đau ngơ ngác buổi em về
anh ở đâu những ngày cây lá đổ
có đợi chờ bàn tay nắm sẻ chia?…”

- Một vài nhận xét về Đỗ Trường từ những nhà văn thành danh trong và ngoài nước:

- Trong bài viết về tác phẩm “Từ Hộ Chiếu Buồn Đến Đau Thương Hành” của tác giả Đỗ Trường, nhà thơ Trần Trung Đạo đă có nhận xét:

“Nhà văn Đỗ Trường cảm nhận giá trị văn chương và hoàn cảnh của tác phẩm bằng trái tim trong sáng hơn là t́nh cảm riêng tư, quen biết trước. Anh không viết theo cách “mặc áo thụng vái nhau”. Cảm xúc dâng lên sau khi đọc một bài thơ, một truyện ngắn anh bắt gặp đâu đó, và như thế anh ngồi xuống viết. Anh có thể không biết và cũng không quá cần phải biết ngay tác giả của bài thơ, bài văn mà anh đang phân tích là ai, tầm cỡ nào, c̣n sống hay đă chết, miền Nam hay miền Bắc, Cộng Sản hay Quốc Gia.

Trong không gian mênh mông không hố hầm ngăn cách của tâm hồn anh, họ là những con người có trái tim Việt Nam như anh và cùng rung môt nhịp xót xa hay hy vọng với anh.

Với nhà văn Đỗ Trường, giá trị của tác phẩm làm nên tên tuổi chứ không phải tên tuổi làm nên giá trị tác phẩm”

- Trong bài viết “Thân Phận Bút Mực Trong Con Chữ Đỗ Trường”, nhà văn Trần Mạnh Hảo đă có những nhận xét khá độc đáo:

“Đỗ Trường viết văn bí mật như người đi vào một thành phố bị chiếm. Chao ôi, những trang giấy trắng này đă bị sự dối trá chiếm đóng từ muôn nơi, trong đó có quê hương của ông tàn tạ những chân trời. Ông hân hoan trao sự thật ḷng ḿnh cho trang giấy như người vợ đêm tân hôn trao cho chồng sự trinh trắng cả tâm hồn và thể xác…”

- Đặc biệt và mănh liệt hơn, trong bài viết ngày 28.8.2017, dưới cái tựa: “Đỗ Trường – Kẻ Không Khoan Nhượng Với “Bầy Sâu Đang Khiêng Nước Việt Đi Chôn”, được đăng trên RFA, nhà văn Vơ Thị Hảo sau khi nhận định về tài năng và khí tiết của Đỗ Trường, đă kết luận như sau:

“Người Việt ở Đức và mọi nơi trên thế giới rất cần thêm những người viết mang nhân cách chính trực như Đỗ Trường. Ngay tại Đức quốc, ai ngờ lại quá hiếm hoi những người viết như vậy. Chúng ta cần biết bao những người dám nói và viết lên sự thật để tẩy rửa sự tanh tưởi của những cơ hội và nhạt đạo tâm hồn.

Không cần nổi danh, Đỗ Trường viết vậy là chỉ để tự cứu rỗi chính ḿnh. Nhưng nhân cách viết da diết v́ sự thật và cộng đồng ấy đă cần mẫn ngày ngày gắng gỏi cho một sự nghiệp lớn và v́ thế anh thành danh ngoài mong muốn.

Bằng những gắng gỏi, góp gió thành băo của mỗi người, sẽ tới một ngày, Việt Nam…”

- LỜI KẾT:

Bài viết này, ngoài việc giới thiệu đến độc giả diện mạo đặc biệt đáng quí của một nhà văn sinh ra và lớn lên từ miền Bắc trong giai đoạn chiến tranh, cũng để thay cho lời cám ơn gởi đến nhà văn Đỗ Trường, người đă “chuyên chở văn học miền Nam, đặc biệt những người lính cầm bút miền Nam, vượt qua vũng lầy của cuộc chiến” do chế độ CS man rợ đă cố t́nh hủy diệt sau tháng 4.1975, để mang đến cho mọi người Việt Nam, đặc biệt những thế hệ hậu sinh trong nước, giá trị đích thực và vĩnh cữu của nó.

Phạm Tín An Ninh

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Thiệp Giáng Sinh của QLVNCH trước năm 1975
Bài thánh ca buồn
Múa xuân trên đỉnh Torkham
Những trận đánh cuối cùng của QLVNCH
Những chân dung muộn của Phan Thúy Hà
Người c̣n nhớ hay đă quên
Chuyện t́nh buồn
T́nh nghĩa anh em một đời Mũ Đỏ
Thương nhớ quá! Việt Nam Cộng Ḥa
Chiến Đoàn B/TQLCVN hành quân An Lăo 1967
|“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài G̣n
Đại Hội quân nhân người Mỹ gốc Việt Năm 2024  
Trung Cộng răn đe CSVN phải thần phục tuyệt đối

Lính nhà giàu, lính nhà nghèo  
Yêu lính  
Israel không kích Iran  
Xin được chối từ  
Khép lại núi rừng  
Đồi 383 và hỏa tập TOT cuối cùng của PB/ND  
Bạn xưa 50 năm cũ  
Những vùng đất và ngày tháng rời...  
Bắc Vàm Cống  
Anh hùng KQ Nguyễn Tài Cơ  
Người con gái Duy Xuyên  
Bóng ma biên giới
Ông Bảy Lắc  
Gương chiến đấu dũng cảm của QLVNCH  
Đồi 383 &̀ hỏa tập TOT cuối cùng của Pháo Binh Dù
Đêm trên bờ Thạch Hản  
Cây cầu biên giới  
Chị tôi
Thân phận người cầm bút
Đứa con dị chủng
Vùng kinh tế mới
Chiến tranh t́nh báo và điện tử : Hezbollah và Israel
Thằng cu của mẹ
Tiến tŕnh bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ
Tết với người lính thời xưa cũ
Người xhuyên chở văn học miền Nam qua vũng lầy...
Chuyện văn: Nhớ, Quên & iPhone
Tháng Giêng cỏ non
Tết cuối bên quê nhà
Say đi em
Gà quư phái _ Poulet de Bresse
Quán cháo lú
Mùa Thu mây ngàn
6 sai lầm khi uống sữa
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng người lính
HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn tuẫn tiết vào giờ thứ 25.
Anh Triệu Huỳnh Vơ
Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa  
Nửa thế kỷ nh́n lại đời ‘Boat People’  
Cựu TT Trump thăm cộng đồng Việt Nam ở Virginia 
Người cựu chiến binh già  
Mưa Sài G̣n có buồn không em?  
Tại sao thích ăn phở?  
Hy sinh thầm lặng  
Giải phóng Sài G̣n hay vào ăn cướp Miền Nam?
Anh tôi  
VC chưa được huy chương nào nhưng "Việt kiều" th́ đă  
Sống ở Mỹ sướng hay ở Việt Nam sướng?  
Phó Đề Đốc Hải Quân Tuấn Nguyễn 

Người lính lái xe ôm trên thành phố Sài G̣n
Người Phi Công liều mạng
Nguyễn Ánh 9 - Cô đơn, lạc loài...
Chuyện t́nh lỡ
T́nh người tại Mặt Trận
Những người quyết chiến
Đường vào Nông Sơn
Phát Súng “Ân Huệ”
Nếu c̣n một kiếp sau!  
Ve sầu  
40 năm sau đọc lại tác phẩm của ḿnh 
TT Trump cộng bố PTT 
TT Trump bị bắn 
Thăm bảo tàng viện Quốc Gia cựu chiến binh VN 
Áo trắng t́nh hồng 
Thơ Nguyên Sa trước và sau 1975 
Con người & cái chết của Tướng Lê Văn Hưng
Đơn xin thăm nuôi cách đây đúng 40 năm (1984 - 2024)  
TPB/VNCH “Hoạ Vô Đơn Chí” V́ VC!  
Một quăng đời đă qua  
Họa sĩ Bé Kư trong tôi 
Gặp người TPB-VNCH ở khu phố Tàu Bangkok 
Gerald Emil Kosh - Hải chiến Hoang Sa
Eyewitness and victim of Vietnamese communist   
crimes during the 1968 Tet Offensive
 
Người Hạ Sĩ Nhứt  
Ba và tôi  
Không quên ngượi chiến sĩ QLVNCH  
Minh oan và vinh danh QLVNCH
Người Việt và July 4 Hoa Kỳ  
QLVNCH, những chiến thắng bị lăng quên  
T́nh trạng chiếm đóng Trường Sa 
Trần Hoài Thư và Ngọc Yến ...
Nhà thơ cầm súng, Trần Hoài Thư  
Huynh Trưởng Nguyễn Mâu 
Trên chuyến tàu cuối năm 
Đức tính ân cần của người miền Nam trước đây 
Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024 
Chuyến ra khơi bi hùng 
Chuyến bay định mệnh 
Cái chết cả một dân tộc 
Vụ đánh ch́m tàu 645 của CSBV  
Trực thăng rơi.. Tổng thống Iran chết !  
Những điều cần làm khi đi nước ngoài
Chuyện một thời để nhớ  
Có công mài sắt có ngày nên kim  
Người xưa đâu?  
Tùy bút của Dương Công Quan  
Trả súng đạn này  
Quên sao được ngày 30 tháng 4 năm 1975  
QLVNCH vẫn chiến đấu ở giờ thứ 25  
Cá ăn kiến hay kiến ăn cá
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong cuộc chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất  
Cảm nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024  
Tôi đă khóc  
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử địa
Sài G̣n tháng Tư - 1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên  
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027 
Trong lửa đỏ...  
Đại đội C Viễn Thám của tôi  
Múa hè đỏ lửa 1972  
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công  
Thành phố Sài G̣n  
Chiến sự đầu xuân 75  
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh  
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao tử
Cuộc chiến không muốn thắng
Có những mùa Xuân…  
Nhật kư An Lộc 
Qua cơn mê  
T́nh lính  
Cổ thành QT & Đại Lộ kinh hoàng  
Cho người năm xuống trên quê hương  
Chai rượu vĩnh biệt  
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc  
Đại lộ Kinh Hoàng  
Trận đánh tại Thường Đức  
Xuân ở nơi nào?  
Năm Th́n nói chuyện Rồng 
CSVN lại mồi chài Kiều bào 
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024  
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n" 
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH  
Người lính chết sau cùng  
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước 1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác 
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon  
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc 
Riêng một góc trời-Ngô Thụy Miên  
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt  
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...  
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi x
Tông nhà
Hai ông bố nuôi