May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Tràm Cà Mau
Chuyện kể của ông Hai
Dạo đó, tôi vừa mới trổ mă, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng
ra, áo quần thành ngắn cũn cỡn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái ǵ
cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy măi. La rầy để quở trách mà cũng chan
chứa t́nh yêu thương. Tôi ăn cái ǵ cũng ngon, đặt lưng xuống đâu
cũng ngủ được say sưa.
Thời này, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại
Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm
tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi
thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây,
nhưng chạy th́ nhiều hơn, v́ lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống
của Tây.
Tôi bị Tây bắt lăng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem
về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao
động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương.
Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi ṭ te
làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng
nghe mấy anh tập kèn cứ ọ ẹ từ giờ này qua giờ kia măi.
Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo
hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rơ ràng, làm mấy ông Tây
tưởng đă hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính
kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau
đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính,
và sung vào đội thổi kèn, ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút
hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng,
không như các ông bạn khác. Khi tập thổi kèn mà chơi, th́ tôi cảm
thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn v́ bắt buộc, th́
thật là chán nản, mệt nhọc, bực ḿnh. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân
nhạc không vui, v́ đă chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có
năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng. Về sau ông
thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó th́ bắt bất cứ con ǵ ăn phân
cũng được, miễn sao biết ăn phân th́ thôi. Nghe ông nói vậy, tôi
cũng tự ái, và bực ḿnh. Thường thường, th́ đội lính kèn được nhàn
hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con
gà gáy sáng, báo giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu
thật đúng giờ. Thế thôi. C̣n ngoài ra th́ chơi cờ, tán dóc, trêu
ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang:
“Tọ tè ti tọ tè ti..ti tọ ti tè...” Mà lũ con nít chuyển âm thành:
“Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu
tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.
Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, v́ anh cùng tuổi,
cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội
quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi
biết và thuộc ḷng tên đào kép của các gánh cải lương, ḥ quảng.
Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho
gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các
cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng,
chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của
các cô đào thôi. Ngày chủ nhật, chúng tôi về phố Sài g̣n đi dạo
quanh quanh, cũng chỉ để được nh́n ngắm các cô gái với áo bà ba vải
mỏng ôm sát eo ếch, ngực căng phồng có khe hở he hé giữa hai hột nút,
và nh́n quần lănh vải láng ôm sát mông căng. Đi từ phố vào chợ Bến
Thành, từ chợ ngược trở lại phố. Nh́n thiên hạ tấp nập tới lui. Chỉ
thế thôi, là đủ cho ḷng trai đôi mươi phơi phới. Khi mỏi chân, th́
về chợ Cũ vào tiệm Tàu ăn hủ tiếu, ăn cơm xào rau thịt. Có khi chỉ
mua ổ bánh ḿ thịt, vừa đi vừa nhai. Tuổi trẻ, khi đói bụng, ăn cái
ǵ cũng ngon miệng cả. Nhiều khi đi theo một cô gái, hai đứa chúng
tôi nói lời chọc ghẹo nhau vu vơ, cố t́nh để cô nghe, nhưng không
dám trực tiếp trêu ghẹo hay gợi chuyện.
Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. H́nh chụp rất
điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên,
mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa
tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở
Long Xuyên mới gởi lên. Kể từ khi thấy tấm h́nh này, Tư Thàn nể nang
tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh
không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt
nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm h́nh,
và hy vọng được ḷng tôi, th́ sẽ được ḷng em tôi. Vốn tính nhút
nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần,
anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng,
về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh
ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy,
tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem
mà mơ mộng. Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với
hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô này có nước da ngăm ngăm,
duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đ̣n
gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi
nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất ḷng ai. Tôi cũng khoái
cô này, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Đến tháng lănh lương,
th́ trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ
nợ cô, th́ cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, th́ phải
nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến ḿnh. Cái mưu kế này,
tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau.
Tôi có bày mưu này cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ ṣng
phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.
Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi
đi một ḿnh. Khi ngồi trong rạp, nh́n xéo qua bên kia, th́ tôi thấy
Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên
chỉ chỏ, như đang giải thích ǵ đó. À th́ ra Tư Thàn đă bí mật phỗng
được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư
Thàn làm ăn được tự nhiên.
Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra th́ tôi cũng hơi
ghen tức. Tôi đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo ǵ, Tư Thàn cứ
tự nhiên, th́ vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư Thàn:
“Mày phản bội em tao. Trả tấm h́nh con Mười lại cho tao. Tưởng mầy
đàng hoàng, th́ ra..
“Tao làm ǵ mà gọi là phản bội?”
“Mày c̣n giả vờ? Hồi hôm mày đi đâu? Làm ǵ? Với ai? Có chối được
không?”
“Ai nói với mày?”
“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm
chi?”
Tư Thàn bẽn lẽn móc ví trả tôi tấm h́nh cô gái có hai cái núng đồng
tiền. Anh có vẻ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:
“Em gái mày đẹp như thế này, th́ chán chi người ḍm kẻ ngó. Tao làm
ǵ mà vói thấu. Trả h́nh lại cho mày là phải.”
“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên
lắm đó chứ!”
“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’
Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”
Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi
bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu,
đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau này
về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nổi. Th́ ra, tôi nhẹ dạ
tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.
Từ ngày trả lui cho tôi tấm h́nh cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn
không c̣n nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết ḿnh ngu, đ̣i lại
tấm h́nh, chẳng ích ǵ, nhưng đă lỡ rồi, tiếc cũng không được.
Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có th́ giờ đi chơi với
cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau này cô thường múc cho tôi những tô
vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô
nữa.
Tư Thàn cho biết, cô Năm Cháo Trắng muốn giới thiệu cho tôi một
người bà con. Theo Tư Thàn, th́ cô Sáu Rau nầy đảm đang lắm, hiện
bán rau ở chợ Cầu Ông Lănh. Tôi mừng hớn hở, và nghĩ rằng từ nay sẽ
có một người bạn gái, cùng đi chơi trong những ngày nghỉ, cho bớt cô
đơn, đỡ chạy rong rong như chó tháng ba. Chúng tôi hẹn nhau đi xem
cải lương. Trước hôm gặp gỡ, tôi bồn chồn, lo lắng, chăm chút lại
nhan sắc cho đàng hoàng, ủi lại áo quần cho thẳng nếp, tóc tai hớt
cao sáng sủa. Gặp nhau tại rạp hát, tôi thất vọng năo nề. Cô gái mà
họ giới thiệu, có cái nhan sắc không hạp nhăn tôi. Cô này mặt hơi rỗ,
răng cời, cái mông rớt thấp xuống đến đầu gối. Ngồi bên cạnh cô
trong rạp hát, mà đầu óc tôi cứ luẩn quẩn nghĩ đến hai cái vé, tiếc
tiền mua bao. Hôm nay gánh cải lương diễn tuồng “Hoa rơi cửa Phật”
tức là chuyện t́nh Lan và Điệp. Chuyện kể cô Lan thất vọng v́ người
t́nh đi lấy vợ, vào chùa cắt tóc đi tu. Cô Sáu cảm động khóc mùi mẫn,
hai vai rung rung, và xịt mũi măi. Cô nắm lưng bàn tay tôi đang tựa
trên thành ghế. Bàn tay cô nhám xịt, có lẽ v́ nhiều cục da chai
trong ḷng tay, kết quả của công việc lao động hàng ngày. Tôi để yên.
Cô bóp nhẹ tay tôi nhiều lần. Tóc cô thoang thoảng thơm dầu dừa. Có
mùi hôi chua, có lẽ cô bị mồ hôi nách. Cái mùi chua đó làm tôi khó
thở. Tôi cứ để yên, không dám thụt tay về, sợ cô buồn. Một lúc sau,
tôi giả vờ nói:
“Rệp cắn. Rạp nầy nhiều rệp quá.
Đồng thời, tôi kéo tay về giả vờ găi.
Tan tuồng, cô Năm Cháo Trắng ép tôi đưa cô Sáu Rau về nhà bằng xích
lô máy. Ban đầu tôi từ chối, muốn về riêng, nhưng Tư Thàn cứ bấm tay
tôi măi. Tôi đành lên xe ngồi nh́n thẳng ra phía trước. Xe chạy vùn
vụt, gió tốc tóc cô Sáu quất vào mặt, vào cổ tôi. Những khi xe quành,
cả người cô Sáu đổ dồn, như chồm lên tôi. Cô Sáu ṿng tay ra ôm chặt
lưng tôi, có lẽ cô sợ ngă. Hai tay tôi xuôi ra phía trước, nắm trên
đầu gối. Khi cô Sáu xuống xe, cô chào tôi và cười nói: “Lính chi mà
hiền quá!”
Cả tuần tiếp theo sau hôm đi xem cải lương về, tôi giận Tư Thàn,
giận luôn cả cô Năm Cháo Trắng. Hai người này khinh tôi, giới thiệu
cho tôi một cô gái vừa xấu xí, vưa hôi nách. Buổi sáng tôi không ăn
cháo trắng nữa. Tôi không nói chuyện với Tư Thàn trong một thời gian
lâu. Tư Thàn th́ không biết tôi giận, cứ líu lo nói chuyện này,
chuyện kia, mà tôi cứ phớt lờ.
Một hôm Tư Thàn hốt hoảng nói với tôi:
“Nguy rồi mày ơi. Con Sáu Rau đau nặng, sắp chết, nó muốn gặp mặt
mày một lần trước khi về chầu Diêm Vương.”
“Đừng đùa. Gặp để làm chi? Mà nó đau bệnh ǵ, mới đó c̣n khỏe mạnh
như trâu. Sao mày biết nó bệnh?”
“Th́ con Năm Cháo Trắng nói. Sáu Rau bệnh, không ăn uống được, nằm
kêu tên mày suốt ngày đêm. Mày theo tao ra cổng trại gặp con Năm
Cháo Trắng, nó đang chờ mày.”
Tôi gạt tay Tư Thàn ra. Anh cứ nắm áo tôi mà kéo đi. Tôi bực ḿnh
lắm, định gặp cô Năm Cháo Trắng, th́ cho một trận để cô ta biết mặt
tôi. Nhưng khi gặp cô Năm Cháo Trắng, thấy cái cười duyên dáng ỏn ẻn
của cô, th́ bao nhiêu giận hờn đều tan biến đâu mất. Cô cầm lấy tay
tôi một cách thân thiết, làm tôi run run, và cảm động. Cô Năm Cháo
Trắng ép sát người vào tôi, kéo tôi đi. Tôi ngại Tư Thàn nổi ghen,
phang cho tôi thanh củi vào đầu. Tôi nh́n lui phía Tư Thàn, thấy anh
không có vẻ ǵ phản đối cả, tôi yên tâm đi theo. Cô Năm nói:
“Anh giúp em một lần đi. Tất cả lỗi tại em gây ra, giới thiệu anh
cho nó. Nó mết anh quá, đau bệnh tương tư, anh không cứu nó, nó chết
th́ tội nghiệp lắm, mà anh mang tiếng thất đức nữa.”
Cô Năm ngoắt chiếc xích lô máy, đẩy tôi lên xe, cô leo theo, ngồi
sát vào tôi. Hai thân ḿnh tựa vào nhau, làm tôi mê mẩn, khờ ra, cô
bảo ǵ cũng nghe cả. Cô nói lớn v́ gió tạt mạnh:
“Anh giúp cho em một lần. Ghé thăm con Sáu Rau. Sau này anh muốn cái
ǵ, em cũng chịu. Giúp em, rồi em sẽ trả ơn lại.”
Tôi nghe cô Năm Cháo Trắng nói, giọng thỏ thẻ hứa hẹn, mà mụ cả trí.
Tay tôi quàng qua lưng cô Năm, ôm chặt lấy vai cô. Tôi quên mất cô
đang là người yêu của Tư Thàn. Tôi nghĩ, không chừng cô này khoái
tôi, bày đặt chuyện Sáu Rau đau, để có dịp gần gũi, tạo cơ hội cho
tôi tỏ t́nh. Nhưng có lẽ tôi không nên xớt tay trên của Tư Thàn. Xấu
hổ. Bạn bè như vậy, th́ làm sao mà c̣n nh́n mặt nhau nữa. Mà nguy
hiểm lắm, anh ta nổi ghen, cho một phát súng, th́ đi đời. Nghĩ vậy,
tôi lỏng tay ôm cô Năm Cháo Trắng, nhưng không buông hẳn.
Vào nhà cô Sáu Rau, mà tôi c̣n chưa tỉnh cơn mê v́ được ôm cô Năm
Cháo Trắng trong ṿng tay. Nhà tối tăm, lụp xụp. Tôi thấy cô Sáu Rau
nằm đắp chăn trên giường, mặt vàng như bôi nghệ, môi khô có đóng vảy,
mắt cô lờ đờ. Cô khóc và đ̣i nắm tay tôi. Tôi đưa tay ra cho cô nắm.
Cô thều thào:
“Em chết rồi, anh đừng quên em héng.”
Thấy một người con gái thương ḿnh đến đau bệnh tương tư, th́ tôi
cũng có phần cảm động. Nhưng nh́n cái dung nhan xấu xí, tiều tụy,
vàng vọt của cô, th́ tôi nghĩ thầm, thà tôi chịu chết, chứ không thể
lấy một người vợ xấu xí như vậy. Tôi nghĩ thêm, chuyện đau bệnh
tương tư, chỉ có trong cải lương, và trong báo chí mà thôi. Tôi
không tin trong đời, có kẻ đau bệnh tương tư. Lo cơm hàng ngày c̣n
đỏ con mắt ra, đổ mồ hôi cực nhọc kiếm miếng ăn chưa đủ, không ai có
th́ giờ mà đau tương tư. Cô Sáu Rau nói lảm nhảm y hệt như những câu
trong tuồng cải lương kỳ trước, làm tôi nghe mà phát ngượng.
Sau nầy, tôi được Tư Thàn tiết lộ rằng, cô Sáu Rau muốn bắt cổ tôi,
nên giả vờ đau bệnh tương tư, bôi nghệ cho vàng mặt, nhịn ăn, bớt
uống hai hôm, làm cho ra vẻ hốc hác, để tôi cảm động, và thấy trách
nhiệm về cái chết của cô, mà phải chịu phép. Nhưng cô Sáu tính sai,
v́ giả vờ bệnh, làm mặt mày càng thêm xấu xí, hốc hác, th́ tôi càng
sợ, và càng cao chạy xa bay cho sớm hơn nữa.
Cô Sáu Rau c̣n nhắn rằng, nếu tôi không chịu mối t́nh, th́ cô sẽ vào
chùa, xuống tóc đi tu. Tôi đâu có khờ dại, mà sợ cô dọa. Tôi nói với
cô Năm Cháo Trắng rằng, đi tu được, là có phước. Đi tu có thập
phương nuôi, khỏi phải bôn ba nắng mưa ngoài chợ. Tôi nghĩ là cô Sáu
Rau bắt chước tuồng cải lương mà nói, chứ không chắc đi tu đâu.
Thường thường, Tư Phàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong.
Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi
thua, mà thua th́ nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi
dắt nhau đi nhậu vui vẻ, nhậu thâm cả tiền túi. Khi thua, th́ hai
đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần
bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị
bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ. Từ đó, chúng tôi t́m ra
một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một
xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa này được, th́ đứa kia
thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào,
chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, v́ một trong hai đứa thắng cuộc.
Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nh́n vóc
dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Tôi cứ nợ
Tư Thàn măi, và một hôm, tôi bắt cá lớn, hy vọng trừ nguyên món nợ
đang thiếu. Con gà tôi bắt độ, lớn hơn con gà của Tư Thàn cỡ một
mười, một bảy, và cựa của nó dài hơn chừng nửa phân. Tôi chắc ăn. Tư
Thàn nói con gà kia nhỏ, nhưng xương gị lớn, cựa năm khến, và sức
lực dồi dào hơn. Theo Tư Thàn, nếu trong khoảng năm phút đầu, mà cầm
cự được, th́ nó sẽ thắng. Hai con gà đá nhau túi bụi. Cứ mỗi cú đá
là địch thủ lăn ngửa ra. Máu me đổ lênh láng trên sân đất. Con gà Tư
Thàn bắt cá, bị té ngửa nhiều lần, và bỏ chạy hai lần, nhưng quay
lại chiến đấu tiếp. Con gà lớn của tôi bị hai cú đá đau điếng, luồn
đầu vào cánh địch thủ mà tránh đ̣n. Con gà nhỏ quay đầu lại, cắn vào
mồng con gà lớn, dùng hết sức lực đá ngược lên, làm găy cánh con gà
lớn. Nó nằm lăn quay xà ṃng trên mặt đất, cái mồm há ra hấp hối.
Tôi bị thua cá độ. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả
tháng lương. Nợ ít ít, th́ c̣n nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều
quá, không c̣n muốn trả nữa. Tôi cứ khất măi, và đến tháng lănh
lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn
có cái ǵ lấn cấn, t́nh bạn không c̣n như trước nữa. Tôi không dám
ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt
nợ, nhưng tôi tự bảo ḷng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả.
Tư Thàn th́ cố làm theo lời cô Năm Cháo Trắng, muốn kéo tôi gần vào
cô Sáu Rau, cứ có dịp là nhắc đến cô Sáu.
Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô
nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:
“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn
mà trả chứ?”
Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến
răng trả lời:
“Mày c̣n đ̣i tiền nợ, th́ tao đánh cho bể đầu. Tao không nói đùa đâu.”
Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi th́ cũng không hết giận, định đi
theo gây sự thêm. V́ một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất t́nh bạn.
Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Ḥa được thành lập tại
miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem
vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ
thứ việc, từ thợ nhà in, lái xe chuyển vận hàng hóa, thơ kư cho hội
thánh Tin Lành và nhiều nghề khác. Cũng tạm đủ sống qua ngày, nhưng
v́ con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu thốn. Thời gian làm
việc cho hội thánh, tôi học được một ít tiếng Anh, nên sau này hữu
dụng. Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh
sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về,
chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi
ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Đầu óc suy nghĩ, tính kế không
ra. Tôi định bắt xe đ̣ về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà
không có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất
với hai con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng
cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:
“Này anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với.”
Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem
cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, th́ anh reo lên:
“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại
thăm?”
Tôi mừng quá, hét lớn:
“Tư Thàn! Mày! Đ. M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả? Chiếc xe nó biết
có mày ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mày.”
Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Đủ thứ
chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đ́nh mỗi người. Tư Thàn có hai
thằng con trai. Đời sống của gia đ́nh thong thả, nhờ cô Năm Cháo
Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư
Thàn chưa về lại Sài G̣n lần nào, v́ cũng không có chuyện ǵ, mà
chẳng c̣n ai để thăm viếng.
Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ
bên đường, đến đâu th́ đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn
trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.
Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con
gà trống thiến lớn. Sau khi chọc tiết, moi ḷng. Tôi phụ Tư Thàn
nhồi đất sét ướt bên ngoài, và thả con gà trong đống rơm mà nổi lửa.
Lửa cháy bừng bừng, mùi thịt thơm bốc lên làm tôi chảy nước miếng.
Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Thèm quá, tôi rót một ly nhỏ,
uống trước. Rượu thơm lừng nồng lên hốc mũi, và nóng như có lửa cháy
trong cổ họng. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con gà lên
chơng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đă rửa sạch.
Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn chai
này, qua chai kia. Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu,
không đuôi, chuyện này lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn
đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một
ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi
trời xế chiều, th́ cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra
tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng.
Cô mắng:
“Cái ông khỉ này, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tui ở
đây mà ghé chơi? Vui quá xá.”
Đêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít
đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say.
Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng
lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề
toan tính thanh toán cho ṣng phẳng. Cũng v́ món nợ đó, mà cái t́nh
bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn
nồng, không c̣n như trước. Tôi chậm răi nói lè nhè trong hơi men:
“Tao bậy quá, c̣n mắc nợ mày mà chưa có dịp trả. Công việc làm ăn,
cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may
lắm. Tiền không có dư...”
Tư Thàn cười hiền ḥa, giọng ấm áp nói:
“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ ǵ? Chuyện cờ bạc thời
trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quư rồi.”
Có lẽ v́ rượu đă ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí t́nh của bạn, mắt
tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Đêm đó, tôi
ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm ŕ trong bóng tối cho đến
khuya.
Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, th́ thấy chiếc xe chỉ c̣n là một
đống sắt cháy nham nhở. Th́ ra đêm qua, du kích đặt ḿn phá, mà ngủ
mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe ḍ về
Sài g̣n, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi
thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không
moi được một xu, th́ tha làm phước. Vă lại thời buổi chiến tranh,
không ai dự liệu trước được chuyện bom ḿn.
Nhờ có thời làm việc cho hội Từ Thiện, tôi quen biết một số người,
nên tháng tư năm 1975 chạy kịp ra khỏi nước. Tôi đem gia đ́nh chạy,
chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau này.
Cứ chạy đă. V́ tôi sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đă trở về
miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số đă chết trong tù, một số
c̣n bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được thả. Đó là tin tức chính
xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được
nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào
làm y tá cho một trung tâm dưỡng lăo của quận hạt. Làm việc cho đến
khi về hưu. Hai mươi mấy năm đời sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.
Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một
ḿnh, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi
đang ở Sài g̣n, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập ṭa nhà đôi chọc
trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay
nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau
đó, xem truyền h́nh, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Ḷng tôi đau nhói, và
nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm
thiết không thua ǵ quê hương cũ Việt Nam. Tất cả mọi chuyến bay đều
bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở về
lại Mỹ được, và trong ḷng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể
về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam măi, cho hết cuối
đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang
khách sạn. Từ trên cao nh́n xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ,
hơn năm mươi năm trước, nơi đây c̣n lau sậy um tùm, đất thấp ngập
nước, hoang vu. Từ bên trong pḥng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua
cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn năo nề:
“Sông kia rày đă nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật ḿnh c̣n tưởng tiếng ai gọi đ̣..”(*)
Ḷng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau
như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính
kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu băi biển đă biến thành nương
dâu, bao nhiêu trũng hoang đă trở thành phố thị. Những thế hệ trước
tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đă về với ḷng đất. Yên bề.
Những người c̣n sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm ǵ. Bỗng tôi
chợt nhớ đến Tư Thàn. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa
trả được, ḷng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời
mau sáng, để thuê xe đi t́m thăm Tư Thàn.
Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi t́m Tư Thàn. Anh
tài xế nghe tôi nói đi t́m một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đă
hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già
khùng lẩm cẩm. Xe từ Sài g̣n, về qua Tiền Giang, đi hướng về phía
Long Xuyên, dọc theo kinh đào. Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà
chiếc xe tôi lái bị đặt ḿn hơn ba chục năm trước. T́m ba nơi không
có, tôi qua nơi thứ tư, cái tên làng nghe mơ hồ quen quen trong trí
nhớ. Tôi vào làng hỏi, xem ai có biết Tư Thàn, nay chừng trên bảy
mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Gặp ai tôi cũng
chèo kéo, hỏi thăm, nói luôn tên cô Năm Cháo Trắng “đầu gà đít vịt”.
Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi nghĩ là đến lầm nơi. Nhưng vẫn
nhớ mang máng đâu khoảng này. Tôi cố moi trí nhớ, càng cố nhớ, th́
trí óc như cứ mụ ra, mơ hồ thêm. Tuổi già thành lẩm cẩm. Tôi đi lang
thang quanh làng, và hy vọng, c̣n có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi
tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi trong cái cḥi bán nước bên vệ
đường, th́ gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi,
suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:
“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là
ai, t́m Tư Thàn có chuyện chi không?”
“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây
giờ, nhớ bạn, ghé t́m thăm.”
“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trổ
chứng đi t́m!”
Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang
cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, hơn bảy mươi
tuổi, c̣n sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần,
xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn,
đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy g̣, hai má hóp,
miệng móm xọm, chỉ c̣n hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái
của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư
Thàn cả, có lẽ tuổi ông này già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:
“Tôi t́m Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là
chị Năm Cháo Trắng.”
Ông lăo phều phào:
“Ông là ai? T́m tui có việc ǵ không?”
“Tôi t́m Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”
“Ông là bạn cũ của tui? Chắc ông t́m lầm người rồi.”
“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng ?”
“Vợ tui, má thằng Độ, thằng Rề.”
Bây giờ th́ tôi chắc chắn ông lăo ngồi trước mặt tôi chính là Tư
Thàn, không ai khác. Tôi c̣n mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào.
Bố thằng Độ, Thằng Rề, hai thằng này tôi đă gặp hồi xưa. Ngày trước,
Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Độ, Rề, Mi, Pha, Xôn,
La, Xi, nhưng mới có Độ, Rề, th́ bà vợ tịt ng̣i. Tư Thàn ngồi co một
chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên
cao, để ḷi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm,
nằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá,
nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:
“Mày không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”
“Không. Ông có lầm tui với ai khác không? Ông là ai?”
“Thế th́ mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”
“Tui, Tư Thàn lính kèn đây.”
Tôi làm bộ buồn bă đổi giọng:
“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng
tên chăng?”
“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn
này thôi.”
Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:
“Đ.M. mày không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”
Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca:
“Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu,
tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”
Nghe tiếng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy
tôi mà thét lên:
“Đ.M. mày, chỉ có mày mới nói cái giọng này. Thằng chó chết, thằng
dịch vật. Thằng Quài, mày, Quài. Mà mày sang trọng, và trẻ quá, ai
ngờ, ai mà nh́n ra.”
Đám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và
gọi nhau bằng mày tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo,
và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn
ngào:
“Mày c̣n nhớ đến tao, t́m thăm. Đồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp
nơi nào?”
Tư Thàn nh́n tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:
“Tóc tai cũng c̣n, răng cỏ hai hàm c̣n nguyên, mặt mày có da có thịt,
áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mày là Việt Kiều về thăm
quê hương không? Bây giờ mày ở đâu? Làm ǵ?”
Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:
“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài g̣n, nhờ có mấy đứa con vượt biên
ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già
rồi, về hưu, không làm ǵ nữa cả.”
Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đă chết.
Thằng Độ đi lính quốc gia, đă đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho
“cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để
nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nh́n cái thân
thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm
lao động chân tay. Tôi nói:
“Thôi, mày đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu
bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”
Tư Thàn ngự trong căn cḥi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn,
không giường, chỉ có cái vơng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu,
méo mó. Tôi giở nồi ra xem, thấy c̣n có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn,
mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không c̣n răng,
ăn cách nào đây?
Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế t́m cho một quán
ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi,
không chịu vào, và nói:
“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Đừng hoang phí
tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng này cho chúng chém. Gặp
nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”
Tôi ép măi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi
trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên.
Tôi uống rượu thay nước, v́ sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi
không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.
Đưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy
báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật ḿnh, xô gói quà ra về phía
tôi:
“Cái ǵ đây? Tiền đâu mà nhiều thế này? Tôi không lấy đâu. Đừng bày
đặt.”
“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả
lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công
tao lặn lội đi t́m.”
“Không. Nợ nần cái khỉ ǵ. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ
dại. Tao đă bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không
có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”
Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói:
“Mày mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa
trả hết nợ, th́ sau này phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm.
Thương tao, mày cứ cầm đi. Để mua gạo. Để khi đau yếu có chút thuốc
thang. Nếu không có nơi cất, th́ đem gởi bà con.”
Đôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc:
“Đ.M, tao già đến thế này, mà mày cũng c̣n định gạt tao như hồi xưa
nữa sao? Thằng chó chết. Cái t́nh bạn của mày, c̣n quư gấp trăm ngàn
lần gói tiền này. Ừ, tao nhận cho mày vui. Tao sẽ làm mâm cơm cúng
bà Năm Cháo Trắng, nói cho bà biết cái t́nh bạn của mày. Dưới suối
vàng, chắc bà cảm động lắm.”.
Tràm Cà Mau
(*) Thơ Trần Tế Xương
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Thiệp Giáng Sinh của QLVNCH trước năm 1975
Bài thánh ca buồn
Múa xuân trên
đỉnh Torkham
Những trận đánh cuối cùng của QLVNCH
Những chân dung muộn của Phan Thúy Hà
Người c̣n nhớ
hay đă quên
Chuyện t́nh buồn
T́nh nghĩa anh em một đời Mũ Đỏ
Thương nhớ quá! Việt Nam Cộng Ḥa
Chiến Đoàn B/TQLCVN hành quân An Lăo 1967
|“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài G̣n
Đại Hội quân nhân người Mỹ gốc Việt Năm 2024
Trung Cộng răn đe CSVN phải thần phục tuyệt
đối
Lính nhà giàu, lính nhà nghèo
Yêu lính
Israel không kích Iran
Xin được
chối từ
Khép lại núi rừng
Đồi 383 và hỏa
tập TOT cuối cùng của PB/ND
Bạn xưa 50
năm cũ
Những vùng đất và ngày tháng rời...
Bắc Vàm Cống
Anh
hùng KQ Nguyễn Tài Cơ
Người
con gái Duy Xuyên
Bóng ma
biên giới
Ông Bảy Lắc
Gương chiến đấu dũng cảm của QLVNCH
Đồi 383 &̀ hỏa tập TOT cuối cùng của Pháo Binh Dù
Đêm
trên bờ Thạch Hản
Cây
cầu biên giới
Chị tôi
Thân phận người cầm bút
Đứa con dị chủng
Vùng kinh tế mới
Chiến tranh t́nh báo và điện tử : Hezbollah và Israel
Thằng cu của mẹ
Tiến
tŕnh bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ
Tết với người
lính thời xưa cũ
Người xhuyên chở văn học miền Nam qua vũng lầy...
Chuyện văn: Nhớ, Quên &
iPhone
Tháng Giêng cỏ non
Tết cuối bên quê nhà
Say đi em
Gà quư phái _ Poulet de Bresse
Quán cháo lú
Mùa Thu mây ngàn
6 sai lầm khi uống sữa
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng người lính
HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn tuẫn tiết vào giờ thứ 25.
Anh Triệu Huỳnh Vơ
Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa
Nửa thế kỷ nh́n lại đời ‘Boat People’
Cựu TT Trump thăm cộng đồng Việt Nam ở Virginia
Người cựu chiến binh già
Mưa Sài G̣n có
buồn không em?
Tại
sao thích ăn phở?
Hy sinh
thầm lặng
Giải phóng
Sài G̣n hay vào ăn cướp Miền Nam?
Anh
tôi
VC chưa được huy chương nào nhưng "Việt kiều" th́ đă
Sống ở Mỹ sướng hay ở Việt Nam sướng?
Phó Đề Đốc Hải Quân Tuấn Nguyễn
Người lính lái
xe ôm trên thành phố Sài G̣n
Người Phi Công
liều mạng
Nguyễn Ánh 9 - Cô đơn, lạc
loài...
Chuyện t́nh
lỡ
T́nh người tại Mặt Trận
Những người quyết chiến
Đường vào Nông Sơn
Phát Súng “Ân Huệ”
Nếu c̣n một kiếp sau!
Ve sầu
40 năm
sau đọc lại tác phẩm của ḿnh
TT Trump cộng bố PTT
TT Trump bị bắn
Thăm bảo tàng viện Quốc Gia cựu chiến binh VN
Áo trắng t́nh hồng
Thơ Nguyên Sa trước và sau
1975
Con người & cái chết của Tướng Lê Văn Hưng
Đơn xin
thăm nuôi cách đây đúng 40 năm (1984 - 2024)
TPB/VNCH “Hoạ Vô Đơn Chí” V́ VC!
Một
quăng đời đă qua
Họa sĩ Bé Kư trong
tôi
Gặp người TPB-VNCH ở khu phố Tàu Bangkok
Gerald Emil Kosh
- Hải chiến
Hoang Sa
Eyewitness and victim of Vietnamese communist
crimes during the 1968 Tet Offensive
Người
Hạ Sĩ Nhứt
Ba và tôi
Không quên ngượi chiến sĩ QLVNCH
Minh oan và vinh danh QLVNCH
Người Việt và July 4 Hoa Kỳ
QLVNCH, những chiến thắng bị lăng quên
T́nh trạng chiếm đóng Trường Sa
Trần Hoài Thư và Ngọc Yến ...
Nhà thơ
cầm súng, Trần Hoài Thư
Huynh Trưởng Nguyễn Mâu
Trên chuyến tàu cuối năm
Đức tính ân cần của người miền Nam trước đây
Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024
Chuyến ra khơi bi hùng
Chuyến bay định mệnh
Cái
chết cả một dân tộc
Vụ đánh ch́m tàu 645 của CSBV
Trực thăng rơi.. Tổng thống Iran chết !
Những điều cần làm khi đi nước ngoài
Chuyện một thời để
nhớ
Có công mài sắt có ngày nên kim
Người xưa đâu?
Tùy bút của
Dương Công Quan
Trả súng
đạn này
Quên sao được ngày 30 tháng 4 năm 1975
QLVNCH vẫn chiến đấu ở giờ thứ 25
Cá ăn kiến hay
kiến ăn cá
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối
giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42
năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong
cuộc chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất
Cảm
nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024
Tôi đă khóc
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử
địa
Sài G̣n tháng Tư -
1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của
một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh
Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc
Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027
Trong lửa đỏ...
Đại đội
C Viễn Thám của tôi
Múa hè đỏ
lửa 1972
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công
Thành phố
Sài G̣n
Chiến
sự đầu xuân 75
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện
t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao
tử
Cuộc chiến
không muốn thắng
Có những mùa Xuân…
Nhật kư An Lộc
Qua cơn mê
T́nh lính
Cổ
thành QT & Đại Lộ kinh hoàng
Cho người năm xuống trên quê hương
Chai rượu vĩnh biệt
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc
Đại lộ Kinh Hoàng
Trận đánh tại Thường Đức
Xuân ở nơi
nào?
Năm Th́n nói chuyện Rồng
CSVN lại mồi chài Kiều bào
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n"
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH
Người lính chết sau cùng
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước
1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc
Riêng một
góc trời-Ngô Thụy Miên
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
HĐ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng
nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi xTông
nhà
Hai ông bố nuôi