Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Dennie Lam
Khi nói hoặc nhắc đến mùa Xuân người
ta liên tưởng ngay đến một mùa được nhiều người yêu mến và ngưỡng mộ
nhất trong năm. Biết bao văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ đă không tiếc lời
ca tụng mùa Xuân, đă đưa mùa Xuân lồng vào tác phẩm của ḿnh với
những h́nh ảnh đẹp nhất, biểu tượng cho yêu thương, hạnh phúc và rải
rác đó đây với những nét chấm phá của hoa, của bướm, của nắng Xuân
vàng!
Qua chuỗi thời gian dằng dặc của đời sống, cũng giống như mọi người,
tôi đă sống, đă kinh qua những mùa Xuân trong đó có những mùa Xuân –
dù không cố ư tô đậm nét – vẫn in dấu hằn nổi bật mỗi khi nhớ đến,
mỗi khi nói về. Những mùa Xuân đáng ghi nhớ này không hoàn toàn tràn
đầy hoa bướm, không hoàn toàn tràn đầy hạnh phúc, không hoàn toàn
tràn đầy yêu thương mà ngược lại, có những mùa Xuân đánh dấu chia
xa, khổ cực nhục nhằn, hơn thế nữa, có những mùa Xuân ngập ngụa
trong tang thương với đầy máu và nước mắt…
Mùa Xuân xa nhà đầu tiên
Tôi đi vào quân đội năm chưa tṛn 20 và rất thấm thía với mùa Xuân
và cái Tết đầu tiên phải xa nhà. Giă từ Đà Lạt, thành phố đă ươm cho
tôi trọn mộng mơ của tuổi học tṛ và trải đầy kỷ niệm của thời thơ
ấu, nơi đó c̣n cha mẹ và các em thơ với t́nh gia đ́nh thiết tha gắn
bó, nơi đó c̣n biết bao bạn bè thân thương đă vun lên trong tôi
những kỷ niệm ngút ngàn… Chỉ mới hơn 4 tháng thưởng thức những lạ
lẫm của đời lính, chưa kịp làm quen với đời sống gắt gao và đầy kỷ
luật của quân trường, chưa kịp làm quen với “mùi lính” qua các quân
trang, quân dụng được cấp phát, chưa thể tách bạch trong bản thân
ḿnh giữa “cái tôi” của một cậu học tṛ và “cái tôi” của một người
lính mới ṭ te… tôi bị rơi vào một cái Tết xa nhà!
Tôi không bao giờ quên được h́nh ảnh đêm giao thừa năm 1960, ngồi ôm
súng gác tại cḥi gác gần cổng số 8 trên đồi Tăng Nhơn Phú (Trường
Thủ Đức). Tôi nhớ cha mẹ, nhớ các em, với biết bao kỷ niệm êm đềm
cuồn cuộn hiện về… Không có tôi ở nhà, ai sẽ đưa các em đi chơi chợ
Tết? Ai sẽ thay tôi dọn dẹp, trang trí bàn thờ tổ tiên và đánh bóng
bộ lư đồng năm nay? Ai sẽ thay tôi ngồi châm nước và đun củi vào bếp
ḷ để nấu nồi bánh tét vào đêm 29, 30 Tết? Tôi nhớ đến chị Thành,
chị của mấy thằng bạn thân, người tôi thường viết thư tâm sự; tôi
nhớ đến Yvonne, cô bạn gái người Pháp thuở c̣n học ở Petit Lycée với
hai thằng em trai Christien và Philip, tụi nó rất thương và quấn
quít tôi và tôi cũng thương tụi nó như thương các em ruột của ḿnh.
Nhớ đến những lần “cả đám” cùng đi xem phim ở rạp Eden, rạp Langbian
hoặc Cinéma d’Annam ở đường Hàm Nghi. Nhớ những dịp cùng đi ăn kem
hoặc đi ăn quà vặt, những lần đi pedal’eau trên hồ Xuân Hương.
Ôi! Cả vùng trời kỷ niệm của cảnh vật, của con người nơi thành phố
quê tôi cuồn cuộn hiện về… Không biết từ lúc nào, tiếng hát buồn năo
nuột của bài “Phiên Gác Đêm Xuân,” một bài hát thịnh hành vào thời
điểm đó, đang rên rỉ trong tôi…
“Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chào Xuân đến súng xa vang rền”…
…“Ngồi ngắm mấy nóc cḥi canh
Mơ về bên mái nhà tranh
Mà ước chiếc bánh ngày Xuân
Cùng hương khói vương niềm thương”…
Tự dưng nước mắt tôi tuôn tràn, tôi khóc thật mùi mẫn. Nếu không có
các vị sĩ quan đốc canh lâu lâu đến kiểm soát chắc tôi vẫn khóc
triền miên trong suốt 2 giờ thượng phiên. Tôi vẫn nhớ măi nhớ hoài
những ḍng nước mắt cho cái Tết và mùa Xuân đầu tiên phải xa nhà, xa
tất cả mọi người thân yêu và cả vùng trời ắp đầy kỷ niệm…
Mùa Xuân tang tóc trong chinh chiến
Đi vào quân đội, t́nh nguyện gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến
– một trong những đơn vị tổng trừ bị của quân đội – được điều động
đến những chiến trường sôi bỏng nhất của khắp 4 Vùng Chiến Thuật.
Bốn Vùng Chiến Thuật ở đây, đúng nghĩa của 4 vùng phân theo địa lư
và lănh thổ, chứ không phải dùng chữ “4 Vùng Chiến Thuật” như một
cường điệu hay cho hợp với thuật ngữ thời thượng! Cuộc chiến ngày
càng tăng cường độ cho nên vào các dịp lễ, nhất là vào dịp Tết
Nguyên Đán, các đơn vị đều ngưng cấp giấy phép thường niên, các đơn
vị tác chiến vẫn trong tư thế ứng chiến, ngay cả các đơn vị hành
chánh hay yểm trợ cũng phải cấm trại một trăm em ơi… Mặc dù cả phe
ta và phe địch vẫn thỏa thuận hưu chiến, nhưng biết bao lần địch đă
vi phạm lệnh hưu chiến. Nhưng lần vi phạm lệnh hưu chiến trắng trợn
nhất, dă man nhất và đồng khắp nhất là dịp hưu chiến Tết Mậu Thân
1968…
Đơn vị tôi tạm nghỉ quân trong vùng Cai Lậy sau một cuộc hành quân
trong vùng này, với chiến thắng và hơn 200 vũ khí các loại của địch
bị tiểu đoàn tôi tịch thu. Để trả thù và gây yếu tố bất ngờ, 1 trung
đoàn địch tấn công vào đơn vị tôi từ nửa đêm đến khi trời ửng sáng
đúng vào đêm dân trong làng cúng đưa ông Táo về trời (23 Tháng Chạp
trước Tết Mậu Thân). Tôi bị thương v́ mảnh B40 vào lưng và đùi và
được đưa về bệnh viện Mỹ Tho trong ngày hôm đó. Ba hôm sau tôi và
một số thương binh của đơn vị được chuyển về bệnh viện TQLC ở Thị
Nghè. Hôm 28 Tết, tôi tŕnh bày với bác sĩ chỉ huy trưởng bệnh viện
và xin được về Đà Lạt thăm nhà v́ từ ngày nhập ngũ đến lúc đó, tôi
chưa hề được về thăm nhà trong dịp Tết. V́ tôi đang trong t́nh trạng
bất khiển dụng nên các vị bác sĩ ở bệnh viện cũng đồng ư cho tôi về
thăm nhà. Thế là tôi khập khiễng chống gậy “về nhà ăn Tết”…
Đúng là số con rệp, được về thăm quê trong cái Tết ác ôn này. Cũng
giống như các tỉnh lỵ và thành phố khác trên toàn quốc, Đà Lạt cũng
bị Việt Cộng tấn công. Theo lệnh của Tiểu Khu Tuyên Đức, tôi phải
chống gậy khập khiễng đi tŕnh diện và được phân công chỉ huy “một
đạo quân” làm các chốt an ninh trong thành phố và các vùng phụ cận.
“Đạo quân” này gồm một số quân nhân của hằm bà lằng quân binh chủng
và một số quân nhân đi phép đặc biệt với hằm bà lằng lư do như quan
hôn tang tế và một vài quân nhân trong t́nh trạng như tôi: đang nằm
bệnh viện ở các nơi khác được “dzọt” về thăm nhà…
Sau hơn 1 tuần, khi t́nh h́nh an ninh và trật tự của thị xă Đà Lạt
được tạm ổn và khi phi trường quân sự Cam Ly được tái lập đường bay,
tôi “xoay xở” được 1 chỗ trong ngày đầu tiên có chuyến bay để về Sài
G̣n… tái nhập viện. Khoảng 10 hôm sau, v́ nhu cầu hành quân, tôi
được xuất viện và bay ra Huế. Tôi được trở về đơn vị để tham gia các
trận đánh cuối cùng để tái chiếm Thành Nội Huế sau 28 ngày đêm chiến
đấu, giành giựt từng con đường, từng căn nhà từ vùng Mang Cá, xuyên
qua vùng Tây Lộc, qua cửa Nhà Đồ cho đến cửa Ngọ Môn… Việt Cộng bị
đánh bật ra khỏi Thành Nội, ra khỏi Huế nhưng trước khi rút chạy
chúng đă giết hàng ngàn người dân vô tội của Cố Đô và vùi dập thân
xác họ dưới các mồ chôn tập thể. Huế Mậu Thân với đổ nát, điêu tàn,
với sục sôi căm thù, với khói, với lửa, với máu và nước mắt…
Mùa Xuân đầu tiên trong lao tù
Khi Cộng Sản Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris và cưỡng chiếm Miền
Nam vào cuối Tháng Tư 1975, các thành phần Quân, Cán, Chính được lùa
vào các trại cải tạo qua cái thông cáo… “mang theo đồ cá nhân đủ
dùng trong 1 tháng…” Mấy tháng đầu tôi bị nhốt ở trại Long Giao,
Long Khánh, hầu hết phe ta bị phù thũng v́ “được” ăn gạo mục được
đưa về từ các chiến khu của Việt Cộng. Sau đó tôi được chuyển về khu
K2, trại Suối Máu, Biên Ḥa; đây là “Trại giam tù binh phiến Cộng”
trước tháng Tư 1975. Về đây được thưởng thức trọn vẹn cái “đổi đời”
về thực tế và tâm lư: chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa xây trại này để
nhốt tù binh Phiến cộng, bây giờ Việt Cộng dùng trại này để nhốt
“Ngụy quân.”
Tôi được thưởng thức cái Tết đầu tiên trong lao tù tại trại Suối Máu
này. Thoát được cái phù thũng ở Long Giao thấy hơi mừng trong bụng,
ai dè khi tới Suối Máu phải đương đầu với kiết lỵ đang hoành hành
tại đây. Khoảng 70% tù ở K2 bị kiết lỵ, nhiều người đă bị chết,
nhiều người được “chuyển đi viện” nhưng không biết số phận ra sao.
Thời gian mấy tháng c̣n ở trong Nam, tù không phải lao động nhiều;
lâu lâu mới phải ra đồng trồng sắn hoặc lao động vớ vẩn. Phe ta
khoái đi ra đồng lắm v́ mỗi lần đi lao động như vậy mới có dịp “gặp”
“mấy chị vợ Ngụy.” Mà các bà “đánh hơi” cũng hay thật, cứ giả dạng
“thường dân Nam bộ” lảng vảng trong vùng phe ta có thể ra lao động,
mặc dù các bà có cải trang cách mấy, như mặc đồ bộ, đồ bà ba, thậm
chí “diện” cả bộ đồ bần cố nông vào nhưng cái “air” của mấy bà vẫn
là cái “air” của mấy bà vợ Ngụy! Có vài người trong phe ta, may mắn
“gặp” được thân nhân, cách nhau khoảng năm mười thước, chỉ c̣n cách
duy nhất là “đá lông nheo” một cái cho đỡ nhớ nhung. Và chỉ có thế!
Trong thời gian này ở K2 có một nhân vật khá đặc biệt làm cho tôi
nhớ măi, anh ta tên Thông, anh này là một anh khùng, khùng thật chứ
không phải thuộc loại Tôn Tẫn giả điên! Trong ngày 30 Tháng Tư 1975,
Thông lượm được một cái áo nhà binh trên xa lộ, gần Thủ Đức, (ngày
đó quần áo trận phe ta bỏ đầy đường) anh ta ngang nhiên bận và đi
lang thang về Sài G̣n. Ngày hôm sau, Thông bị bắt với tội danh “Sĩ
Quan Ngụy” và sau này được chuyển lên trại K2 Suối Máu. Ḍm “bộ gió”
của anh ta, biết ngay là một thằng khùng, nhưng chủ trương của Việt
Cộng là “bắt lầm c̣n hơn tha lầm” cho nên Thông bị ghép vào tội Sĩ
Quan Ngụy và bị nhốt chung với các Sĩ Quan Ngụy. Tôi (và chắc chắn
những người ở K2 lúc bấy giờ) không thể quên anh Thông khùng này v́
anh ta cứ lảng vảng tại khu nhà bếp, t́nh nguyện phụ giúp làm mọi
việc như chẻ củi, xách nước từ giếng đưa vào nhà bếp, quét dọn và
chùi mấy cái chảo đụn trong nhà bếp v..v… Các “anh nuôi” thấy tội
nghiệp nên “bồi dưỡng” cho Thông vài miếng cơm cháy mỗi ngày. Tuy
nhiên Thông vẫn c̣n quá đói và anh ta thường lượm các loại rau cải
nhà bếp vứt đi để ăn thêm, dĩ nhiên là ăn sống, ăn xong ra giếng lấy
gàu kéo nước lên uống tỉnh bơ. Trong trại mọi người đều uống nước
sôi và ăn chín mà vẫn bị kiết lỵ dài dài, c̣n Thông cứ ăn uống thoải
mái như vậy mà không bị bệnh ǵ cả. Mọi người đặt cho anh ta cái tên
mới: “thằng Thông Vô Kỵ”…
Suốt đời, tôi không thể nào quên được cái Tết đầu tiên trong lao tù
Cộng Sản! Chưa đầy một năm kể từ ngày miền Nam sụp đổ, tôi vẫn chưa
thoát khỏi tâm trạng bàng hoàng, những khổ đau và nhục nhằn đang dày
xéo và ám ảnh mănh liệt. Tôi cứ nhớ và nghĩ về gia đ́nh và bà con
thân thuộc. Bây giờ cha mẹ và các em tôi ra sao? Gia đ́nh tôi có 4
anh em là sĩ quan, cuối Tháng Tư 1975 tôi gặp được 2 em và đưa các
em ra xe đ̣ về Đà Lạt vào những ngày đầu của tháng 5; c̣n một người
em thứ ba, đơn vị đóng ở miền Trung nên không có tin tức, không biết
sống chết thế nào?
Lại thêm một cái Tết và một mùa Xuân xa quê hương và xa gia đ́nh,
khác với những mùa Xuân xưa, dù xa quê và nhớ nhà nhưng tôi vẫn được
an ủi và tự hào v́ ḿnh đang làm nhiệm vụ của một người lính: bảo vệ
tự do, bảo vệ đất nước.
Nhưng lần này, mọi thứ đều xoay chiều, mọi thứ đều sụp đổ; thân phận
của ḿnh, của gia đ́nh ḿnh, của đất nước ḿnh đang bị rơi vào hoàn
cảnh bi đát, buồn tủi, nhục nhằn một đời không thể nguôi ngoai…
Một điều rất lạ lùng mà tôi không hiểu được, khác với bản tánh cố
hữu của tôi, con người nặng về t́nh cảm và dễ bị xúc động; bị rơi
vào một cái Tết xa nhà, mất mát đến như vậy, khổ đau đến như vậy,
nhục nhằn đến như vậy mà tôi không khóc được! Những tố chất vật lư
để tạo thành nước mắt trong cơ thể tôi chắc đă đông đặc, đă biến
thành thể rắn để làm cho tôi nhức nhối, đau đớn, xót xa trong chất
ngất buồn tủi và đầy ắp hận thù…
Mùa Xuân ly hương nơi đất khách
Sau hơn 9 cái Tết và mùa Xuân “nằm ấp” tôi được tha về vào trước dịp
Tết 1985. Năm cuối cùng tôi được chuyển vào Nam sau những năm lao
động khổ sai ở Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Thanh Hóa… và được tha ra từ
trại Gia Rai, Long Khánh. Nhờ có anh chị nuôi tôi “xoay xở” nên địa
chỉ trong hồ sơ cải tạo của tôi được thay đổi, thay v́ phải về
ĐàLạt, tôi được tạm trú ở Thị Nghè, Gia Định với gia đ́nh ba má
nuôi. Tôi phải chấp nhận hy sinh về phần t́nh cảm của ḿnh để thực
hiện cho được điều này: chấp nhận sống xa cha mẹ và các em ở Đà Lạt
để được tạm trú tại Sài G̣n, v́ từ đây mới có nhiều “đường binh” để
vượt biên…
Thành ra, vào 2 dịp Tết 1985 và 1986 tôi chỉ được về thăm nhà có mấy
ngày, tôi đâu dám khai báo là gia đ́nh tôi đang ở Đà Lạt và tôi đă
“điếu đóm” với tên công an khu vực vùng tôi tạm trú để được “đi thăm
bà con” trong 2 dịp Tết đó. Gặp lại cha mẹ và các em là điều sung
sướng nhất như hằng ấp ủ và ước mơ trong những năm tháng lưu đày
trên đất Bắc, tuy nhiên niềm vui không trọn vẹn v́ người em thứ ba
của tôi đă bị bọn Fulro thảm sát cùng vợ và đứa con trai tại một
vùng quê ở La Ba, gần Đà Lạt. Tôi về thăm nhà vào 2 dịp này chỉ đáp
ứng được phần nào nỗi nhớ thương chất chứa trong ḷng, nhưng nh́n
chung với thân phận một “ngụy quân” như tôi, với thân phận “gia đ́nh
ngụy” như gia đ́nh tôi và cả “miền Nam chạy theo Đế quốc Mỹ” bị thua
trận sao nghe toàn cay đắng, năo nề. Tất cả đều đang xuống dốc, đang
cúi đầu, đang đi vào vùng tăm tối…
Lần sau cùng về thăm quê hương Đà Lạt, h́nh ảnh làm cho tôi thấy mất
mát nhất là hồ Xuân Hương lúc bấy giờ đang khô cả nước, một con
đường đất được đắp lên, chạy ngang hồ từ nhà Thủy Tạ và nối sang bờ
đối diện. Đà Lạt đẹp phần lớn nhờ vào cái hồ này, nhưng khi tôi về,
c̣n đâu mặt hồ soi bóng những hàng thông, c̣n đâu mặt hồ soi bóng
Nhà Thờ Con Gà, c̣n đâu mặt hồ soi bóng cái tháp của trường Yersin…
Hồ Xuân Hương lần đó đă làm tôi buồn và thất vọng, tôi bị ám ảnh bởi
cái hồ xinh đẹp và đầy kỷ niệm kia qua h́nh ảnh một người con gái có
nét mặt đẹp tuyệt vời đang bị một nhát mă tấu chém phập ngang mặt.
Nhát mă tấu này đang chém vào quê hương ĐàLạt của tôi. Nhát mă tấu
này đang chém vào cả quê hương Việt Nam của tôi…
H́nh ảnh đau buồn của quê hương ĐàLạt, của quê hương Việt Nam đă
theo tôi trên đường vượt thoát… Trong khoảng 2 năm nương náu và sống
lây lất với gia đ́nh ba má và anh chị nuôi với biết bao phập phồng,
trông chờ sự gia hạn của tờ giấy tạm trú từng 3 tháng một. Tôi đă
vượt biên tất cả 4 lần, 3 lần đầu bị “bể” và may mắn đă đến vào
chuyến vượt biên lần thứ tư từ Rạch Giá vào Tháng Giêng năm 1987!
Tôi được hưởng cái Tết và mùa Xuân năm 1987 tại trại Phanat Nikhom,
Chonburi, Thái Lan (khoảng 30 dặm phía Nam Bangkok). Thời gian đó,
trại này có khoảng 16 ngàn người Việt tị nạn c̣n kẹt lại. Trại dưới
quyền sinh sát của “Anh Chô,” một trại trưởng thuộc Bộ Nội Vụ Thái
Lan. Anh Chô đă dùng loại kỷ luật sắt để điều hành, đặc biệt là dùng
“lực lượng Aran” làm trật tự nên toàn trại lúc nào cũng trong t́nh
trạng lo âu, không biết sẽ bị hành hạ, đánh đập hay nhốt xà lim bất
cứ lúc nào! “Lực lượng Aran” gồm khoảng hơn 100 người, họ là những
anh bộ đội Việt Nam, phần lớn vượt biên bằng đường bộ qua ngă
Cambodia.
Lúc đầu họ ở các trại ở Aran, một tỉnh phía Nam Thái Lan, về sau
được chuyển về trại Phanat Nikhom. Lư lịch của họ dĩ nhiên không thể
nào phối kiểm được: họ là thường dân phải đi nghĩa vụ quân sự, phải
qua chiến đấu ở Cambodia, chán nản, đào ngũ rồi vượt biên? Hoặc họ
là những cán bộ Việt Cộng được gài vào các thành phần này để hoạt
động ở hải ngoại? “Lực lượng Aran” đă ở trại này khá lâu, có nhiều
người đă ở đây cả 6, 7 năm, dĩ nhiên không thể nào “đậu” được qua
các kỳ phỏng vấn và thanh lọc. Anh Chô sử dụng “lực lượng Aran” này
như những “đội xung kích,” những “đội hành động” đi lùng sục, uy
hiếp, bắt bớ, đánh đập bất cứ ai vi phạm kỷ luật trại hoặc có những
hành vi xấu. V́ vậy toàn trại lúc nào cũng lên cơn sốt, lúc nào cũng
lo sợ phập phồng; bù lại t́nh trạng trật tự và an ninh của trại được
coi là ổn định và đi vào khuôn phép… V́ số người tị nạn c̣n đọng lại
quá đông nên mọi người phải nằm dưới sàn xi măng trong các lán trại,
thức ăn và nước uống, nước tắm giặt được phát mỗi ngày theo tiêu
chuẩn. Dù sao so với các trại cải tạo ở Việt Nam th́ đây vẫn là một
thiên đàng v́ được ăn cơm có rau, có cá, có thịt và nhất là mỗi ngày
khỏi phải lao động khổ sai!
Phần tôi dù đang buồn v́ phải xa cha mẹ, xa các em và nghĩ rằng
không bao giờ có thể gặp lại các người thân, nhưng điều an ủi lớn
nhất là tôi đă đặt chân đến đầu cầu của tự do, niềm ước mơ đă từng
ôm ấp trong những năm tháng đọa đày trong lao tù Cộng Sản! Và tôi
càng nôn nao hơn với tràn ngập niềm vui v́ người tôi thương và người
thương tôi đang vẫy gọi, đón chờ từ bên kia bờ Thái B́nh…
Vào dịp trước Tết 1987 tôi được gọi phỏng vấn lần đầu tiên và qua
lần phỏng vấn này tôi được mời làm thông dịch viên cho phái đoàn.
Trong trại lúc bấy giờ có hơn 100 người Việt tị nạn được chọn ra làm
việc (thông dịch viên hoặc nhân viên văn pḥng hay thư kư, v.v…) cho
2 tổ chức: văn pḥng Cao Ủy Tị Nạn do Thái Lan điều hành và văn
pḥng điều hành người tị nạn do phái đoàn Mỹ phụ trách, tôi làm
thông dịch viên cho phái đoàn Mỹ. Sau khoảng 2 tháng làm việc cho
phái đoàn Mỹ, tôi là một trong 4 thông dịch viên được chọn làm
“Out-of-Camp Interpreter” để làm việc với phái đoàn Sở Di Trú Hoa
Kỳ. Chúng tôi rời trại Phanat và được đưa lên Bangkok để làm việc
cho Chương Tŕnh Tị Nạn do ṭa Đại Sứ Mỹ tại Bangkok phụ trách.
Chúng tôi thoát khỏi cảnh nằm đất ở trại và được sống với các viên
chức sở Di Trú Mỹ tại hotel ở Bangkok.
Ngoài công việc văn pḥng tại Bangkok, chúng tôi theo phái đoàn sở
Di Trú Mỹ đi về các tỉnh ở miền Nam Thái Lan để phỏng vấn người Việt
Nam tị nạn tại các trại Dong Creg, Platform I và Platform II, v.v…
Sau mỗi lần phỏng vấn chúng tôi lại trở về Bangkok vẫn làm việc ở
văn pḥng. Bốn thông dịch viên chúng tôi được trả lương bằng tiền
Thái, mỗi tháng được khoảng 220 hoặc 230 gọi là tiền dằn túi thôi
th́ như thế cũng yên ḷng. Đó là những ngày bắt đầu của mùa Xuân ly
hương để sau đó được trại coi như “qualified,” khỏi phải qua Phi học
Anh văn và được định cư vào Mỹ Tháng Tám năm 1987.
Kể từ năm 1987 ở Thái Lan, đánh dấu cho cái Tết và mùa Xuân ly hương
đầu tiên từ sau Tháng Tư 1975; tiếp nối là những cái Tết và mùa Xuân
ly hương trên xứ tạm dung này. Cứ mỗi lần Tết đến Xuân về ḷng tôi
vẫn quặn thắt, đặc biệt mỗi năm lúc dâng hương lên bàn thờ gia tiên
trong đêm giao thừa, lúc nào cũng vậy, tâm tư ngập tràn xúc động và
tôi không thể nào ngăn được ḍng nước mắt.
Tôi, cũng giống như hầu hết mọi người Việt tạm dung trên đất nước
này, chúng ta chỉ c̣n một giấc mơ duy nhất: mơ được thấy những cái
Tết và mùa Xuân thật sự sẽ về trên quê mẹ Việt Nam để mọi người dân
Việt được thoát khỏi ách thống trị của bọn Cộng Sản độc tài; được
sống trong tự do, dân chủ thật sự; được có những mùa Xuân tươi đẹp
của đất trời ḥa nhập với mùa Xuân bất tận của ḷng người với tràn
đầy tin yêu và hy vọng…
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối
giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42
năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong cuộc
chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất
Cảm
nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024
Tôi đă khóc
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử
địa
Sài G̣n tháng Tư -
1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của
một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh
Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc
Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027
Trong lửa đỏ...
Đại đội
C Viễn Thám của tôi
Múa hè đỏ
lửa 1972
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công
Thành phố
Sài G̣n
Chiến
sự đầu xuân 75
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện
t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao
tử
Cuộc chiến
không muốn thắng
Có những mùa Xuân…
Nhật kư An Lộc
Qua cơn mê
T́nh lính
Cổ
thành QT & Đại Lộ kinh hoàng
Cho người năm xuống trên quê hương
Chai rượu vĩnh biệt
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc
Đại lộ Kinh Hoàng
Trận đánh tại Thường Đức
Xuân ở nơi
nào?
Năm Th́n nói chuyện Rồng
CSVN lại mồi chài Kiều bào
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n"
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH
Người lính chết sau cùng
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước
1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc
Riêng một
góc trời-Ngô Thụy Miên
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
HĐ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng
nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi xTông
nhà
Hai ông bố nuôi