Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
…”Bạn ơi nếu tôi có một điều ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất
phong quang, chúng ta được trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi
đâu th́ đi. Tôi sẽ đi tới những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa,
thăm lại các bạn tù chúng ta c̣n nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ,
tới quận Phù Yên hỏi xem ông cụ Việt trại trưởng năm xưa c̣n sống
hay không? Nếu gặp được ông cụ tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là
cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ c̣n nhớ tôi không, thưa cụ?”… Một mai qua
cơn mê, xa cuộc đời bềnh bồng, tôi lại về bên em…- Trần Trịnh- Nhật
Ngân.
Tôi vừa nhận thư từ Seattle, Mỹ gửi sang. Không phải những người bạn thân quen của tôi mà nh́n tên người gửi thấy đề T. Nguyen lạ hoắc. Sang xứ sở văn minh thực dụng này, tên tuổi lộn đầu lộn đuôi mà chữ viết cũng ít khi dùng đến nên tôi cầm lá thư mà chưa nhớ ra ai. Mỗi người sinh ra trên trái đất này đều có một nhân dáng riêng, cũng như có một nét chữ riêng, có ai giống ai đâu? Bây giờ bỏ cái riêng tư ấy đi, dùng toàn chữ in sẵn trong computer – tiện lợi th́ có tiện lợi thật nhưng cầm cái thư tôi thấy nó lạnh lùng, khô khốc… Bề ngoài bao thơ không cho tôi một tín hiệu t́nh cảm nào, tôi hờ hững mở thư. Nhưng vừa đọc, tôi đă vô vàn cảm xúc: “Anh P. ơi, chắc anh không nhớ được em đâu, nhưng em nhớ anh hoài, em nhớ “ông già chăn ngựa”. Em là “La Sơn Phu Tử” đây.” Những cụm từ “ông già chăn ngựa ” và “La Sơn Phu Tử” đă như chiếc ch́a khóa mở ra một quăng đời tù tưởng đă nhạt nḥa trong kư ức…
Dạo ấy là cuối năm 1977, chúng tôi vừa từ giă trại tù quân quản Liên trại 2 để đến một nhà tù chính thức Yên Hạ – Sơn La thuộc Công an – Bộ Nội vụ. Cùng là đi cải tạo nhưng bên trong có chia ra nhiều loại. Loại cải tạo trong Nam tương đối nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Tù nặng, tù lâu là ra Bắc. Những năm đầu ra Bắc, tù đặt dưới quyền quân quản, tức là do bộ đội quản lư. Sau chừng từ 2 đến 3 năm tù được chuyển dần từ trại “trâu xanh” (bộ đội) sang trại “ḅ vàng” (công an). Ở trại tù chính thức của Bộ Nội vụ như trại Yên Hạ này chúng tôi được gặp những bạn tù anh em ta bị bắt từ hồi Mậu Thân (1968) cũng như một số anh em khác, tù binh từ trận Hạ Lào (1971). Những trại tù này thường là trại hỗn hợp vừa có tù chính trị (như tụi tôi) vừa có tù h́nh sự. Bên h́nh sự có thiếu ǵ những người tù bị h́nh án nặng nề từ 20 năm đến chung thân ở đây.
Đến trại Yên Hạ này, tôi được gặp
Trung tá Kh., dân Tiếp vận bị bắt hồi Mậu Thân khi về Huế ăn Tết
thăm gia đ́nh. Anh c̣n sống sót không nằm trong nấm mồ tập thể mấy
ngh́n người, kể ra cũng phải tạ ơn Trời Phật. Cho đến lúc này th́
Kh. đă có thâm niên 9 năm tù, kinh nghíệm hơn tụi tôi nhiều lắm (mới
có trên 2 năm). Khi được hỏi về sự khác nhau, giống nhau giữa 2 trại
trâu xanh và ḅ vàng Kh nói: “Một bên là dao găm, một bên là thuốc
độc, không biết bên nào êm ái hơn bên nào”. Ngừng một lát Kh. Nói
tiếp: “Tuy nhiên, qua các trại miền Bắc tôi thấy cuộc sống tù đày
tùy thuộc khá nhiều vào trại trưởng. Mới chuyển sang trại ḅ vàng
Công an mà các bạn được về đây là khá đấy. Ông cụ Việt, trại trưởng
trại này là một biệt lệ trong các cai tù… Rồi các bạn sẽ thấy”.
Chúng tôi nhận ra biệt lệ này ngay trong lần đầu tiên lên hội trường
nghe “huấn thị”. Trại trưởng trại Yên Hạ, cấp bậc Trung tá Công an,
thường được gọi thân mật là cụ Việt, là một ông già tóc bạc, tuổi
trên dưới 60, dáng vẻ trầm tư, phát ngôn mực thước. ông nói “Chúng
tôi được trên giao nhiệm vụ quản lư các ông, cải tạo viên chính trị.
Phạm nhân chính trị có quy chế riêng. Trại sẽ áp dụng đúng quy chế
ấy đối với các ông. Tôi mong các ông chấp hành nội qui nghiêm chỉnh
để trại chúng tôi thực hiện tốt mục đích trên giao mà các ông cũng
tạo được kết quả bước đầu trong học tập cải tạo”.
Khác với cán bộ CS thường thay, trại trưởng Yên Hạ nói ngay vào vấn
đề, ngắn gọn, cụ thể – không lèm bèm chửi mắng mà cũng không lư
thuyết chính trị rẻ tiền. Nhưng điều đặc biệt là tù nhân chúng tôi
chưa bao giờ nghe thấy ở đâu là ông cụ Việt này gọi chúng tôi là
“các ông”. Sau tháng 4 đen 75, chúng tôi tự biết ḿnh đang đi xuống
nấc thang thứ bét của xă hội, thuộc vào giai cấp bị triệt tiêu, chưa
bị hành hạ, bắn giết lúc nào là may lúc ấy. Có bao giờ chúng tôi
nghĩ rằng ḿnh lại được gọi là “các ông” như thế. T́m hiểu về người
trại trưởng, tôi lại phải hỏi Kh. , người tù thâm niên ở đây. Được
tiếp xúc với trại trưởng nhiều lần, nên Kh. dường như hiểu biết khá
rơ về ông cụ Việt. Kh. nói: ông ta là người có văn hóa, nói tiếng
Pháp khá hay, nguyên là trưởng xa (chef train) của Sở Hỏa xa thời
Pháp. ông ta h́nh như có tham gia hội kín, hội hở trước 1940 và sau
mới chuyển theo Cách mạng. V́ “quá tŕnh” như thế nên bây giờ gần
tuổi về hưu rồi mà cấp bậc vẫn lẹt đẹt trung tá. Xem như tên trại
phó Đặng U. dân răng đen mă tấu chính tông mới chưa đến 40 mà đă
thiếu tá Công an rồi. Nó bóp c̣i qua mặt ông ta mấy hồi…”
Đây là trại tù chính thức của Công an miền Bắc, và tôi nhận ra rằng
những trại tù sau này mà tôi sẽ đi qua đều có một kiến trúc tương
tự. Tường đá bao quanh cao chừng 4m (ở đây Sơn La “lưới núi” nên xây
tường bằng đá hộc), ở trên có chăng thêm 3 tầng dây thép gai chằng
chịt. 4 góc có 4 cḥi canh, công an ḅ vàng gác suốt ngày đêm, đầu
giờ, cuối giờ kẻng đánh lia chia, gắt gỏng. Ngay bên cạnh cổng giữa
đi vào là văn pḥng trực trại, nh́n vào một cái sân rộng gọi là sân
“tập kết” nơi tù các đội tập họp đợi giờ xuất trại đi làm. Cuối sân
tập kết là Nhà Văn Hóa hay Hội trường, vừa là nơi hội họp, học tập
toàn trại vừa là nơi tŕnh diễn văn nghệ. Dọc hai bên sân tập kết là
2 khu nhà. Gọi là khu A và khu B. Mỗi khu lại chia ra nhiều lô nhỏ
có tường bao quanh. Mỗi lô có một nhà tù dài chia ra làm 2 lán. Mỗi
lán chứa 2 đội tù, từ 70 đến 100 người, tùy theo nhân số lúc vắng
lúc đông. Chúng tôi đến trại Yên Hạ này đầu mùa rét tháng 11 năm
1977 lúc tù rầm rộ kéo về mỗi người tù chỉ có được chừng 50cm vừa ăn
vừa nằm chật cứng. Khu A là khu dành cho chúng tôi, tù chính trị,
khu B đối diện là khu h́nh sự. Theo quy định nhà tù, lô này không
được sang lô kia, nếu không có phép của trực trại, và khu này với
khu kia th́ tuyệt đối cấm không được lai văng.
Một buổi trưa, chúng tôi vừa tạm thu xếp chỗ nằm xong chợt có tiếng
la giật giọng từ bên khu B đối diện vọng sang: “Chết tôi rồi, cứu
tôi với. ôi cụ Việt ơi!” Từ một lô nhà khu h́nh sự một người tù đang
cố sức chạy ra sân tập kết. Nhưng anh ta chạy không được v́ một cán
bộ Công an ḅ vàng đang nắm tóc người tù kéo giật xuống mà lên gối.
Tiếng kêu cứu của người tù tắc nghẽn giữa những tiếng hự hự liên
tiếp. Người cán bộ này ra đ̣n rất gọn rơ ra có nghề . Người tù rũ
xuống như một đống giẻ rách mà cán bộ chưa tha. C̣n “sút” thêm mấy
quả vào lưng vào bụng. Chợt có tiếng ông cụ Việt từ một căn nhà gác
ở bên ngoài cổng trại (ở dưới là văn pḥng trại trưởng, ở trên là
nơi ở) nói vọng vào: “Cái ǵ thế?” Có tiếng trại trưởng là cán bộ
mới từ từ bỏ đi… Tù bên khu B mới ra cơng người tù h́nh sự vào nhà,
h́nh như đă ngất đi, trào máu họng.
Vừa mới sang nhà tù Công an mà chúng tôi đă được “dàn chào” như vậy
nên rét quá. Lại phải đi hỏi Kh. bạn tù thâm niên. Kh. nói “Tù h́nh
sự ở đây nó khiếp lắm. “Đầu gấư’ cả đấy. Hở ra là nó giết nhau ngay.
Cho nên cán bộ an ninh kiêm chấp pháp chuẩn úy Trần M. mới dữ như
vậy. Nhưng trại trưởng ông cụ Việt th́ ông ta không cho phép đánh
tù. Có mặt ông là không được phép. Nhưng mà sau lưng ông là nó đánh
ra ǵ. Đánh chết bỏ. Vài bữa nữa đi làm các bạn đi về phía Mường
Thải, thấy có cái nghĩa địa mả cũ mả mới lô nhô, đó là chỗ tù theo
nhau ra nằm ở đấy” – “Tù chính trị cũng vậy à”. – “Cũng nằm một chỗ
nhưng có khác. Mả tù chính trị th́ hơn được cái bia, hoặc là bằng đá
hoặc là bằng gỗ. C̣n mả h́nh sự th́ vùi nông một nấm, coi như xong.”
Sau vụ dàn chào ghê rợn, một số anh em tù cải tạo thầm th́ to nhỏ
với nhau rằng: “Trại trưởng ông cụ Việt đóng vai ông Thiện, phó
trưởng trại Đặng U. với cán bộ giáo dục (tức chính trị viên của
trại) Nguyễn Hồng L., và cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. đóng
vai ông Ác. Đó là tṛ vừa đấm vừa xoa thường thấy.” Nhưng ở lâu hơn,
tôi thấy hai khuynh hướng này đối chọi nhau rơ rệt, không phải chỉ
là sách lược đối phó nhất thời.
Đă gần hết năm, một buổi họp bàn về tổ chức vui Tết năm Ngọ (1978)
được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chủ tŕ. Anh cán bộ mặt gà mái
này tuyên bố: “Các anh sống một cuộc sống tay sai, trước là cho Pháp
sau là cho Mỹ nên các anh thiếu văn hóa, hay là không có văn hóa.
Bây giờ đi cải tạo, Cách mạng phải hướng dẫn các anh, dạy dỗ các anh
sống có văn hóa. Trong dịp Tết này, trại dành cho các anh một nửa
chương tŕnh, một nửa cho khu A, một nửa cho khu B. Các anh hăy rán
theo đường lối của Cách mạng mà sửa soạn một chương tŕnh văn nghệ,
để xem các anh có mở mắt ra được chút nào không?”
C̣n ông trại trưởng ông cụ Việt, khi gặp ban Văn nghệ chúng tôi được
triệu tập lo chương tŕnh Tết th́ ông cụ lại nhỏ nhẹ nói rằng: “Tết
là một ngày lễ truyền thống của dân tộc. Các ông là người có học.
Tôi hy vọng các ông sẽ đóng góp được một chương tŕnh văn nghệ có ư
nghĩa”. Cách ăn nói, thái độ khi tiếp xúc với chúng tôi của ông cụ
Việt trại trưởng nó ôn tồn, thoải mái, không có vẻ nghiến răng căm
thù như thường thấy nơi cán bộ CS. Phải chăng nguồn gốc xuất thân
của ông đă khiến ông có một niềm thông cảm tự nhiên đối với chúng
tôi, những người tiểu tư sản thua quân mất đất. Năm ấy chủ trương
đấu tranh giai cấp c̣n rất mạnh; ở miền Nam đang vào cao điểm đánh
tư sản, mại bản nên dân “Ngụy” chúng tôi từ trong tù cho đến ngoài
xă hội được coi như một lũ “cùi” không ai dám đến gần. Đúng theo quy
luật, chúng tôi là giai cấp bị triệt tiêu. Có những người bạn tù, có
anh em ruột thịt làm lớn ở ngoài Bắc.
Những nhà CM ấy đă vào Nam nhận họ, nhận “hàng”, nhận tiền, nhận bạc
để khi ra Bắc, nhờ mang một số quà đi thăm người thân cải tạo. Nhưng
dù là anh em ruột thịt, cùng mẹ cùng cha nhưng phần lớn các nhà CM
ấy quên luôn, không dám đi thăm. Dính líu với ngụy quân ngụy quyền
là phản động. “Thời kỳ phát động chiến dịch, bố tôi bị đi cải tạo là
tôi cũng phải quên bố tôi luôn nếu tôi muốn có sổ gạo, có bát cơm mà
ăn, huống hồ là anh em họ hàng”, một người tù h́nh sự đă nói với tôi
như vậy. Thế mà ở đây đang mùa đánh tư sản mại bản, ông cụ Việt
chánh giám thị trại tù lại gọi chúng tôi là “các ông”. Tôi chưa gặp
ở đâu, cai tù CS lại gọi đối xử với tù nhân như vậy…
Trại triệu tập ban Văn nghệ tù chính trị bằng hai cách. Theo nghề
nghiệp trước đây ghi trong hồ sơ và tin tức nhận được về những người
tù có khả năng văn nghệ. Một người bạn của tôi được gọi ra thành lập
ban kịch. Đó là bạn Nguyễn Văn Th. nguyên đạo diễn điện ảnh và sân
khấu. Anh cũng là người được giải thưởng văn chương toàn quốc thời
Đệ nhất Cộng ḥa… cùng với nhà văn Nguyễn Mạnh Côn. Th. già là bạn
cùng khóa 2 Thủ Đức và cùng ngành Chiến tranh Chính trị với tôi nên
một bữa Th. t́m gặp tôi và nói: “Cán bộ chính trị nó chửi ḿnh nặng
như thế th́ dù là tù đi nữa, ḿnh cũng phải làm cái ǵ chứ ông”. Nể
lời bạn nên tôi cũng vào ban văn nghệ với một nhiệm vụ khiêm nhượng
“phụ tá khói lửa”. Ở miền Bắc, kịch cũng như điện ảnh bao nhiêu năm
qua đều sống với đề tài chiến tranh nên tổ chức nào cũng phải có
người lo về khói lửa tức là vấn đề kỹ xảo về súng bắn, ḿn nổ, lửa
cháy, v.v… Nhưng nhiệm vụ khởi đầu của tôi chỉ là đem đến ban kịch
một cái nùi rơm và cái điếu cày để anh em giải lao hút thuốc. Ngẫm
ra rất đúng với nhiệm vụ được giao: có khói và có lửa.
Nguyễn Văn Th. được lệnh viết một cái kịch ngắn cho anh em tŕnh
diễn. Nhưng mà bạn tôi kẹt, viết măi không ra. Một bữa tôi mới nói
với Th.: “Ḿnh “sức voi” mà đi viết kịch. Tư tưởng ḿnh khác, tư
tưởng của họ khác. Đầu óc họ luôn luôn căm thù, nghi kỵ, không khéo
rồi bút sa gà chết. Tại sao ḿnh không lấy kịch của họ mà “chơi?” –
“Nhưng mà kịch của họ, nó chỉ chửi bố ḿnh không làm sao mà diễn”,
Th. đủng đỉnh trả lời như vậy.
Khi mới về trại, tôi có thời gian lo liên lạc mượn một số sách, báo
cho anh em, nên tôi biết thư viện trại có một số kịch bản. Trong
trường kịch Quang Trung của Trúc Đường có một màn có thể tách ra
diễn được. Tôi ngỏ ư với Th. già: “Màn Lửa Kinh Thành trong kịch
Quang Trung này viết khá. Nếu chơi màn kịch này, ḿnh có 2 điều lợi.
Thứ nhất ḿnh không mất công viết, kịch của họ, tác giả của họ ḿnh
khỏi lo về phần tư tưởng. Thứ hai kịch lịch sử nên anh em ta không
có mặc cảm khi tập và khi diễn. Như thế may ra mới có “chút lửa” cho
anh em”. Tôi đưa kịch bản Lửa Kinh Thành cho Th. đọc và bạn tôi đồng
ư; sau đó kịch được đưa lên ban Giáo dục duyệt. Trong khi đó bộ phận
nhạc do một số anh em ngành Tâm lư chiến đảm trách lo hát đồng ca,
tốp ca, đơn ca và độc tấu tây ban cầm. Anh em bên nhạc cũng đồng ư
chọn tŕnh bày những bài ca ít sắt máu, ít căm thù mà vẫn bàng bạc
một tấm ḷng yêu quê hương xứ sở. Chương tŕnh tổng quát được chuẩn
y, gồm 30 phút ca nhạc, một giờ kịch, anh em bắt đầu vào tập dượt.
Chúng tôi tập ở trên Hội trường, anh em h́nh sự tập trong một căn
nhà khu B. Chúng tôi được biết anh em h́nh sự được nghỉ lao động ăn
tập trước chúng tôi 2 tuần theo một chương tŕnh đă được công diễn
từ những năm trước, nay chỉ ôn luyện lại cho thuần thục. Nửa buổi,
khi chúng tôi đang uống nước cầm hơi th́ anh em văn nghệ h́nh sự
xuống nhà bếp đem về một rổ khoai lang “bồi dưỡng”. Theo như chúng
tôi cảm nhận, ban Giáo dục trại đang dốc hết tâm lực để phần tŕnh
diễn của anh em h́nh sự nhuần nhuyễn, vượt trội hơn phần văn nghệ
của tù chính trị, nhằm “dạy cho tụi ngụy một bài học về văn hóa”.
Anh em trong ban Văn nghệ khu A tuy không nói ra nhưng cảm thấy có
trách nhiệm trong tṛ chơi văn nghệ của ḿnh. Đói th́ đói nhưng anh
em tập dượt hết ḿnh.
C̣n gần một tháng nữa mới đến Tết nhưng không khí thi đua văn nghệ
giữa 2 khu A, B đă lan truyền khắp trại. Anh em khu A đi làm ngoài,
có bữa kiếm được củ khoai, miếng sắn lại dấm dúi đem cho. Chúng tôi
hiểu được sự chăm lo, kỳ vọng của anh em. Cuộc chiến tranh quân sự
tàn rồi, cuộc chiến tranh văn hóa c̣n đang tiếp diễn.
Một hôm đang nửa buổi, trại trưởng ông cụ Việt vào hội trường dự
khán anh em chúng tôi tập dượt. Thấy gần trưa rồi mà ban Văn nghệ
khu A vẫn xuông t́nh, ông cụ hỏi: “Anh em không nghỉ ăn bồi dưỡng
hay sao?” Mấy người có trách nhiệm mới tŕnh bày với trại trưởng là
chúng tôi vẫn tập “xuông” không có “bồi dưỡng”. Ông cụ Việt liền cho
gọi thi đua (mấy anh tù được cất nhắc lên làm chân chạy việc cho ban
giám thị) lên chỉ thị: “Cung cấp ngay chế độ bồi dưỡng hằng ngày cho
đội văn nghệ khu A”. Ông cụ c̣n dặn thêm: “lệnh trại trưởng cấp thêm
cho mỗi đội văn nghệ của A lẫn B mỗi ngày một gói trà. Anh em tập
dượt ca, kịch cần thấm giọng”. Thế là hàng ngày, “phụ tá khói lửa”
là tôi lại thêm việc đun nước pha trà cho anh em nhấm nháp.
Đi vào thực hiện kịch lịch sử đối với chúng tôi, nó có ưu điểm nhưng
cùng một lúc nó kéo theo nhiều điều phức tạp. Thứ nhất tập dượt cầu
kỳ. Người “ngày xưa” ăn nói cử chỉ khác người ngày nay. Một ông quan
văn với một ông quan vơ chào hỏi, vuốt râu nó khác nhau, không giống
nhau. Cách phát âm hay nói theo giọng nhà nghề “đài từ” của kịch
lịch sử khác với kịch thời đại. Hơn nữa trang trí sân khấu, cách
phục sức cho nhân vật kịch “ngày xưa” nó đ̣i hỏi nhiều nghiên cứu,
nhiều phụ tùng hơn kịch “bây giờ”, cái kho đạo cụ của trại không
thỏa măn được. Vào việc đạo diễn Th. già bấn xúc xích về việc dàn
cảnh, về đạo cụ nên bạn già yêu cầu tôi lo giúp về phần tập luyện.
Bạn Th. già biết dạo xưa tôi có sinh hoạt trong Sông Hồng Kịch Xă ở
Hà Nội trước khi động viên vào quân đội, trong khi đó Th. già viết
cho báo Giang Sơn. Chúng tôi biết nhau từ ngày ấy. Vả chăng tôi vốn
sinh trưởng ở nhà quê mà làng tôi vốn là đất chèo, có một phường
chèo thường trực ở trong làng nên tự nhiên tôi quen thuộc với một số
ước lệ của tuồng, chèo cổ. Những năm đi kháng chiến ngoài bưng, tôi
đi theo một đoàn Tuyên truyền xung phong nên tôi cũng tàm tạm có một
số kinh nghiệm về sân khấu. Cho nên nhận lời bạn già, tôi đang là
“phụ tá khói lửa” lại thêm một chức vụ nữa “phụ tá đạo diễn”.
Không gian kịch là tư dinh Đinh Đề Lĩnh, viên quan trấn thủ kinh
thành Đông Đô (Thăng Long – Hà Nội). Thời gian là đêm mồng 4 tháng
Giêng năm Kỷ Dậu đêm trước của toàn quân vua Quang Trung đại phá
quân Thanh. Vở kịch đ̣i hỏi 5 vai quan trọng: Đinh Đề Lĩnh, trấn thủ
Thăng Long; thất vọng trước sự yếu hèn của hôn quân Lê Chiêu Thống,
căm hận trước sự tham tàn bạo ngược của quân tướng nhà Thanh nên
phút cuối cùng Đinh Để Lĩnh nghe theo lời khuyến dụ của La Sơn Phu
Tử, đặc sứ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ, mở cửa thành, đốt kho
lương thảo khi nghĩa quân tấn công. Vai chính Đinh Đề Linh do Nguyễn
Huy T., đại úy đài Tự Do cục Tâm lư chiến đảm trách. T. là một con
người tài hoa, hát hay, nhảy giỏi, dáng người cao mà thanh, vừa văn
vừa vơ, đă nhập vai Đinh Để Linh rất đẹp. Anh chơi kịch từ thời sinh
viên nên có đủ bản lĩnh trên sân khấu vừa say mê vừa tỉnh táo.
Vai La Sơn Phu Tử do Nguyễn T. cũng đại úy bên Tổng cục Chiến tranh
Chính trị (người ở Seattle vừa viết thư cho tôi) nhận lănh. Nguyễn
T. vốn là em một người bạn tôi, nên tôi biết T. từ khi chưa bị động
viên vào quân đội. T. đi Hướng đạo nên quen thuộc với sân khấu. T.
không dám tin ở tài sức của ḿnh nhưng tôi khuyến khích T. nhận vai
La Sơn Phu Tử. T. vốn người Thanh Hóa, nói được giọng già, dáng
người văn nhă mà cứng cỏi, lại chuyển sang gíọng Nghệ An – Hà Tĩnh
rất ngọt nên có đầy đủ dáng vẻ của một mưu sĩ “đàng trong”. Một vai
phản diện rất gay là vai tướng nhà Thanh, nói tiếng Việt ngọng líu
ngọng lo mà tham dâm hiếu sắc do Trung tá Lê Văn Hóa, Tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn văn nghệ Quân đoàn 4 phụ trách. Anh là người tràn
đầy kinh nghiệm sân khấu lại thêm là “vua cười” của đội, luôn mồm
hát, no cũng hát, đói cũng hát “Ngộ bên Tàu à… ngộ mới sang – sang
Nam Việt bán buôn làm giàu…” nên vai tướng Tàu như là vai viết riêng
cho anh vậy.
Người nữ độc nhất, cô chủ quán mê hoặc tướng Tàu do đại úy Tôn Thất
L. thủ vai. Anh đi tù cực khổ, đói khát như vậy mà vẫn da trắng tóc
dài, mắt sắc như dao làm gái Thăng long rất đẹp. Riêng có một vai
quê mùa, vai ông già chăn ngựa thọt chân, luôn luôn say xỉn do một
đại úy Cảnh sát đảm nhận vai mà tập măi chưa vô. Anh có nhân dáng
quê mùa, cục mịch, say mê vai diễn nhưng tiếng cười, giọng nói của
anh nó văn minh quá, thành thị quá thiếu mất chất nhà quê. Mà đây là
vai quần chúng vai đại diện cho nhân dân phản kháng nên trại để ư
lắm. Thiếu úy Công an Q. đại diện cho pḥng Giáo dục, hằng ngày theo
dơi chúng tôi tập dượt, lắc đầu trước vai ông già chăn ngựa mà phê
b́nh đủng đỉnh “chưa được”. Sau rồi, đạo diễn Th. già mới tham khảo
ư kiến anh em mà bảo tôi rằng: “Ông khỏi mất công dượt cho anh ấy
nữa.
Ông th́ vừa già, vừa chân tập tễnh, lại vừa có chất quê… thế th́ ông
chơi ngay cái vai ấy đi cho nó tiện việc sổ sách.” Anh em cũng ồn ào
đề nghị nên tôi lại kiêm luôn vai cụ Triệu ông già chăn ngựa. Sở dĩ
đạo diễn Th. già và tôi chú ư đến giọng nói là v́ khi diễn kịch ở
đây, chúng tôi diễn “chay” không có ban nhạc làm nền (background
music). V́ vậy phải đặt trọng tâm vào giọng “thoại”, đưa vào đó
nhiều màu sắc để phần nào quên đi cái thiếu vắng nhạc nền kia.
Có giọng Bắc trầm hùng cứng cỏi của Đinh Đề Lĩnh, giọng miền Trung
uyển chuyển, sâu sắc của La Sơn Phu Tử, giọng ngọng nghịu của tướng
Tàu, giọng Bắc pha Huế đài các của cô chủ quán, giọng quê mùa bạo
liệt của ông già chăn ngựa. Nút kịch được thắt khi La Sơn Phu Tử
đang đêm được ông già chăn ngựa nhà ở gần bên đưa vào gặp Đinh Đề
Lĩnh ở tư dinh, thuyết điều hơn, lẽ thiệt. Kịch được thắt thêm 1 nút
khi tướng Tàu sục sạo đi t́m cô chủ quán xinh đẹp bất ngờ xộc vào tư
dinh Đinh Đề Lĩnh khi La Sơn Phu Tử c̣n đang hiện diện. Để tránh cho
cơ mưu của “đàng trong” đừng bại lộ, cũng là cởi nút cho vở kịch…
ông già chăn ngựa liền dũng cảm nhảy vào đâm chết tướng Tàu rồi cùng
chết. Cái chết bất ngờ của ông già chăn ngựa như một giọt nước làm
tràn ly khiến Đinh Đề Lĩnh c̣n đang do dự, chuyển hẳn sang thế nghĩa
quân… mở cửa thành, đốt kho lương thảo khi đại quân vua Quang Trung
tràn tới. Sau đó, b́nh minh ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu cũng vừa hiển
hiện.
Để lo việc trang trí sân khấu và phục sức cho nhân vật kịch, trung
tá Quân cụ Tr., nguyên sinh viên Mỹ Thuật ngày nào bây giờ là trưởng
ban đạo cụ liền đem cái tài hoa c̣n lại của ḿnh sửa chữa mấy đôi
bốt hư của cán bộ thành hia cho văn quan, vơ tướng nhà Lê, cải biến
mấy cái mền dạ cũ màu đỏ, màu xám thành nhung y cho Đinh Đề Lĩnh,
cho tướng nhà Thanh. Mấy cái đường kẻ đen trên tấm mền đỏ ngày nào
bây giờ dưới bàn tay thần t́nh của Tr. đă biến thành hoa văn “thủy
ba sóng rợn”. Tướng nhà Thanh th́ nhung y lẫm liệt, hia măo đàng
hoàng. Nhưng khi Đinh Dề Lĩnh, vơ quan nhị phẩm triều đ́nh đội măo
theo đúng nghi thức th́ tôi có ư kiến là Đinh Đề Lĩnh không nên đội
măo chỉ nên đội khăn. Đội măo xem ra nó “cải lương” hơn, không
truyền thống bằng cái khăn lượt Việt Nam. Đạo diễn Th. già đồng ư.
Anh Tr. cũng đồng ư tuy rằng anh rất tiếc chiếc măo “vơ quan nhị
phẩm” rất công phu của anh.
Trong thành tích trang trí tư dinh của Đinh Đề Lĩnh ngày Tết, anh
Tr. đắc ư nhất là 3 chữ đại tự anh viết trên bức hoành phi (bằng
giấy): Huyết do hồng. Tr. vừa là nghệ sĩ vừa là trí thức. Th. già và
tôi hiểu ư anh, nắm tay anh thông cảm. Thiếu úy Công an Q. người
thường xuyên sinh hoạt với chúng tôi một bữa mới hỏi Th. già về ư
nghĩa mấy chữ nho này. Th. giải thích: đây là 3 chữ cuối trong vế
đối, nhắc lại chiến công chống xâm lược phương Bắc của tiền nhân
“Đằng Giang tự cổ Huyết do hồng” (Nước sông Bạch Đằng từ xưa đến nay
vẫn c̣n đỏ máu). Tôi thấy Thiếu úy Q gật gù, ngẫm nghĩ, và từ đó
thái độ đối với chúng tôi có khác. Anh em chúng tôi dù sống kiếp tội
đồ khổ sở, đói khát nhưng trong công tác văn nghệ này ai củng cố
gắng đóng góp một chút ǵ, để hy vọng nói lên rằng: chúng tôi thua
trận, bị cầm tù, bị lăng mạ nhưng chúng tôi có văn hóa theo cách
riêng của chúng tôi.
Đă đến ngày 30 Tết, năm Tỵ sắp sang năm Ngọ (1977-1978). Nghe anh em
lưu cựu ở đây lâu nói rằng chưa có bao giờ trại ăn Tết to như thế.
Có lệnh của trại trưởng là bao nhiêu tiền quỹ của năm cũ chi cho
bằng hết nên Tết đến thịt trên 10 con heo, 1 con ḅ; tát ao lấy cá
chắm, cá chép lên ăn Tết. Mấy vườn su hào cũng nhổ “đại trà” làm
dưa. Toàn là món “cao cấp” cho toàn trại, toàn thể tù nhân ăn Tết.
Trong 10 năm đi tù cải tạo, tôi ngẫm lại chưa có năm nào, ở đâu được
ăn một cái Tết tù như vậy. Ngoài các món ăn, anh em tù nhân c̣n được
lĩnh mỗi người hai bánh chưng, thuốc lá, thuốc lào, và đêm 30 đi xem
kịch tất niên về toàn trại c̣n có cháo ḷng ḅ bồi dưỡng. Nghe phong
thanh là sau Tết trại trưởng trung tá Trần Việt sẽ nghỉ hưu nên ông
xă cảng “cái ǵ của tù là trả hết cho tù”.
Bữa tổng dượt có mặt đủ ban Giám thị trại, chương tŕnh của khu A
chúng tôi được cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. chăm chút rất kỹ. Y ta
để ư rất nhiều đến những sự “đóng góp” của chúng tôi vào vở kịch,
hỏi khá kỹ về câu đối “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng “. Vốn bản
tính đa nghi nên y không muốn đưa vào bất cứ điều ǵ không có trong
kịch bản. Ông cụ Việt, có lẽ ông ta là người rộng răi kiến văn nên
ông cụ nói: “Tư dinh một viên vơ tướng có tâm hồn với đất nước mà
treo bức hoành Đằng Giang tự cổ huyết do hồng th́ được lắm. Để đối
phó với cường lân phương Bắc lại càng hay nữa .” Nhưng cán bộ giáo
dục tỏ ư ngần ngại, khi chúng tôi định hát đoạn đầu của bài Thăng
Long Hành Khúc của Văn Cao vào đoạn kết của vở kịch. Nguyên văn
trong kịch bản chỉ có “tiếng hô sát của đại quân ta nhỏ dần rồi màn
hạ”. Ở đây chúng tôi trong hậu trường sẽ hô “sát, sát” đồng loạt rồi
hát từ từ nhỏ đến to dần lên “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long
thành cao đứng, trông khói sương chiều ám trên ḍng sông. Nhị Hà c̣n
kia Nhị Hà c̣n đó, lũ quân giặc Tôn sập cầu trôi đầy sông.” Màn từ
từ khép và đến đó là dứt kịch. Chúng tôi muốn cho cái “coup de
rideaư’ nó thêm sức thuyết phục.
Đă thử lại lúc màn hạ này mà không có tiếng đồng ca Thăng Long Hành
Khúc ở bên trong. Nó nguội đi nhiều lắm. Cán bộ giáo dục cuối cùng
chấp nhận “cách đạo diễn” của chúng tôi nhưng nhất quyết không bằng
ḷng 2 chữ “giặc Tôn” mà phải đổi ra là nhà Thanh “cho nó rơ nghĩa”
(chữ của y ta, bởi v́ giặc Tôn có thể liên tưởng đến Tôn Đức Thắng
chăng?).
Tối 30 Tết, trại Yên Hạ nôn nả hẳn lên. Mới 7 giờ đêm, mà hội trường
đă chật cứng. Phạm nhân khu A ngồi bên phải. Khu B bên trái. Những
dăy ghế phía trên là dành cho quan khách, gồm cán bộ khung xă sở
tại, huyện ủy Phù Yên, cán bộ Công an và gia đ́nh. Cứ như ư kiến bữa
tổng dượt th́ đêm 30 Tết, ban Văn nghệ sẽ diễn trong trại. Mồng 4
Tết chúng tôi sẽ ra huyện lỵ Phù Yên diễn cho dân chúng tới xem. Cho
nên buổi diễn hôm nay là buổi diễn trong chương tŕnh vui Tết đón
Giao thừa, vừa là buổi phúc khảo trước khi ban Văn nghệ “đem chuông
đi đấm xứ người”.
Chương tŕnh khu B, bên h́nh sự được diễn đầu tiên. Cũng đồng ca,
đơn ca, một màn kịch ngắn “đánh Mỹ” và kết bằng màn dân ca Quan họ
Bắc Ninh. Anh em h́nh sự chơi chương tŕnh này đă “thuộc” nên đối
đáp, tung hứng rất là nhuần nhuyễn. Nhưng v́ “bổn cũ soạn lại” nên
nó làm cho tù chính trị chúng tôi chăm chú hơn là khán giả sở tại.
Bên h́nh sự có một ca sĩ tên Ng. hát rất hay, rất kỹ thuật; nghe nói
anh ta đă tốt nghiệp thanh nhạc nên hát đâu có thua ǵ ca sĩ trên
đài phát thanh. Ca sĩ bị tù mút mùa v́ nghe nói anh mắc tội làm tem,
phiếu giả. Kịch “đánh Mỹ” th́ không có ǵ mới. Vẫn theo công thức
cũ. “Mỹ cút, ngụy nhào, quân ta kẻ thù nào cũng đánh thắng, khó khăn
nào cũng vượt qua”. Nhưng phải công nhận anh em h́nh sự chơi nhạc
cảnh Quan họ “Mời trầu, giă bạn” rất đằm thắm, ư nhị và duyên dáng.
Đây là một tiết mục hay. Khi anh em cúi đầu chào khán giả, chúng tôi
dù ở trên sân khấu, đang sửa soạn “ra tṛ” mà chúng tôi cũng không
ngừng vỗ tay tán thưởng. Đoàn trưởng đoàn kịch khu B. Quách H., đứng
ở cánh gà phía bên kia, đứng nghiêm, để tay lên ngực cúi đầu chào
lại chúng tôi như một sự cảm thông cái t́nh tri âm, tri kỷ.
Có lẽ “cái đinh” của đêm văn nghệ hôm nay đối với khán giả địa
phương là Văn nghệ khu A, tù chính trị. Họ chưa bao giờ được biết
miền Nam thật sự như thế nào? Miền Nam đă thua, đă tan nát nhưng
những tàn dư của miền Nam, lũ tù chính trị chúng tôi, vẫn c̣n đây.
Họ đă được nghe “nhà nước ta” nói rất nhiều về miền Nam, nhưng “trăm
nghe sao bằng một thấy”. Văn nghệ, là một thái độ sống. Họ muốn biết
thái độ sống của miền Nam thế nào qua những đại diện khốn khổ nhưng
trung thực là chúng tôi. Chúng tôi cũng cảm nhận được điều đó nhưng
trong t́nh trạng tù đày, bó buộc như thế này, biết ăn, biết nói làm
sao? Thôi th́ “sức người có hạn, được đến đâu hay đến đó”.
Qua mấy màn ca nhạc, đồng ca, đơn ca, tôi nghiệm ra là về kỹ thuật,
chúng tôi không sánh bằng anh em h́nh sự. Điều dễ dàng nhận thấy là
tù chính trị già hơn, nên hơi hám kém hơn. Nhưng hiệu quả sân khấu
th́ chưa chắc ai hơn ai. Lấy ví dụ như ca sĩ Văn B. của chúng tôi
hát làm sao tốt bằng, khỏe bằng Ng. bên khu B, nhưng khi anh hát
xong tiếng vỗ tay có lẽ nhiều hơn, nồng ấm hơn. Ng. hát giọng ngực,
lớn, vang nhưng anh hát theo lề lối thường thấy ở ngoài Bắc, không
rơ lời. Nhiều khi không biết anh hát cái ǵ nữa chỉ thấy trước sau
giọng ngân vang rền rĩ mà thôi. C̣n Văn B. anh là ca sĩ tài tử
(ngoài Bắc kêu bằng nghiệp dư, thích th́ hát chơi không phải nhà
nghề) nên hát bài nào anh phổ tâm t́nh vào bài hát đó. Anh không
trưng bày giọng hát mà như văn nghệ thường thấy ở miền Nam, anh có
một tâm sự để mà kể lại. Anh thuộc loại ca sĩ trữ t́nh (chanteur de
charme) không phải ca sĩ Opera như khuynh hướng ngoài Bắc. Cho nên
nghe Văn B. ca sĩ miền Nam, hát không giỏi bằng, không khỏe bằng
nhưng nó dễ nghe hơn, nó thấm thía hơn, nó con người hơn. Mà cũng có
thể v́ cách hát của anh khác lạ hơn nên anh được chú ư và tán
thưởng.
Tiết mục gây được nhiều tiếng cười sảng khoái là màn tốp ca. Anh em
chúng tôi dựng tiết mục này theo lối AVT, nhằm kiếm được nụ cười
trong t́nh trạng tối ám của nhà tù. Mà điều này cũng là một thực tế.
Chúng tôi là phạm nhân nhưng trong đời sống chúng tôi vui cười nhiều
hơn cán bộ coi tù. Ở ngoài Bắc, hoặc là người ta sống căng thẳng quá
hoặc là người ta phải ngụy trang lối sống cho nên phần đông mọi
người mặt khó đăm đăm. Đây là bệnh táo bón tinh thần thường thấy nơi
xă hội thiếu tự do. Ba bạn Đỗ H., Văn B., Trịnh P. hát ḥ, đối đáp
với nhau thoải mái. “Cái ǵ nhúc nhích là ta chén liền “. Tiếng cười
đồng cảm vang lên. Từ cánh gà nh́n xuống, tiếng cười lan tỏa chỉ có
người cau mặt là cán bộ giáo dục…
Màn gây ấn tượng sâu sắc là độc tấu Tây ban cầm. Đây là loại đàn
nhiều người chơi. Nhưng tập tành đến nơi đến chốn chơi được nhạc cổ
điển hay bán cổ điển th́ có rất ít người. Người anh em chơi Tây ban
cầm của chúng tôi đă có trên 10 năm cầm đàn. Anh bữa ấy độc tấu một
bản bán cổ điển. Một cây đàn Tây ban cầm mà như một dàn nhạc. Có lúc
réo rắt như violon, lúc nhảy nhót như mandoline, khi rộn ră như
piano, khi trầm hùng như một đoàn quân nhạc đón đoàn chiến binh
chiến thắng trở về . Tôi nghĩ đám đông khán giả kia chưa chắc đă
hiểu hết ư nghĩa của bài vừa diễn tấu nhưng nh́n bàn tay buông bắt
đầy kỹ xảo, nghe âm thanh tiết tấu phong phú, họ hiểu rằng chơi đàn
như vậy là một kỳ công. Kỳ công ấy là văn hóa.
Bây giờ bắt đầu tiết mục cuối cùng, tiết mục chủ yếu chấm dứt đêm
văn nghệ, kịch Lửa Kinh Thành, trung tâm đầu tư công sức của chúng
tôi. Tôi nh́n suốt một lượt. Sân khấu đă trang trí chỉnh tề. Diễn
viên đă sẵn sàng, đạo cụ đầy đủ. Th. già nh́n tôi. Tôi giơ tay ra
dấu sẵn sàng. Trưởng ban đạo cụ kiêm trang trí sân khấu, họa sĩ Tr.
đưa cho Th. một thanh gỗ. Rất trịnh trọng Th., nhà đạo diễn giơ cao
thanh gỗ nện 3 lần xuống sàn sân khấu. 3 tiếng gơ truyền thống của
sân khấu kịch bắt đầu. Màn từ từ mở. Tư dinh quan Đề Lĩnh với hoành
phi, câu đối, lộ bộ, cờ hiệu trên án thư, kiếm treo trên tường đă
phút chốc đưa người xem về không khí trang trọng và sương kính của
thế kỷ 18. Một tràng pháo muộn của đêm mồng 4 Tết từ đâu vẳng lại.
Đinh Đề Lĩnh, vơ phục uy nghiêm, lưng mang đoản kiếm tiến lại gần án
thư, cúi mặt thở dài. Chợt lính hầu khép nép hiện ra chắp tay thưa:
- Bẩm quan, người vừa đi chầu về.
- Có chầu chực ǵ được đâu. Hoàng thượng c̣n bận sang hầu Tôn Tổng
đốc… Ở nhà có chuyện ǵ không ?
- Bẩm quan, có ông cụ Triệu mấy lần sang kêu về cỏ ngựa. (Có tiếng i
ới bên ngoài vang lên: Quan lớn về chưa ?) Đấy lại có tiếng ông cụ…
- Ra mời ông cụ Triệu vào đây.
(Ông cụ Triệu, ông già chăn ngựa, tập tễnh v́ thọt chân, lảo đảo v́
say rượu, chầm chậm bước vào).
- Xin kính chào quan lớn.
- À cụ Triệu (giọng độ lượng), Thế nào ? Cụ đă làm lễ tạ ông vải
chưa?
- Bẩm quan, các cụ nhà tôi có về đâu mà tiễn. Con cháu c̣n không đủ
ăn lấy ǵ mà thỉnh các cụ. Bẩm quan, từ ngày Hoàng thượng hồi loan
đến giờ, nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước này đói xanh xao cả người ra
đấy quan lớn ạ.
Vừa nghe đến đó, cả khối B h́nh sự như chạm phải một luồng điện,
vùng lên vừa vỗ tay vừa cười la ầm ĩ. Qua nửa chương tŕnh, tôi
nghiệm ra khán giả khu B thưởng thức văn nghệ rất nhạy bén. Không
thích là ồ, là suỵt, là thở dài ào ào, mà thích là vỗ tay là cười la
thoải mái. Ở đây kịch vừa mới bắt đầu, động tác chưa “chuyển”, tại
sao anh em lại hoan nghênh như vậy? Sau hỏi ra mới biết là chưa có ở
đâu dám động đến cái đói thâm căn cố đế của miền Bắc như vậy. Cả
nước đói “xanh xao” mà vẫn phải luôn miệng “ơn đảng ơn người”. Đến
những cảnh sau, khi động đến sự thối nát của đương triều, sự bạo
ngược của đoàn quân họ Tôn là anh em h́nh sự lại vỗ tay rôm rả. “Cái
quân họ Tôn này là nó vừa trí trá vừa ngông cuồng” (vỗ tay). “Tại
sao nhà Lê lại có một ông vua ươn hèn như vậy, cơng rắn cắn gà nhà
(vỗ tay rất lâu).
Người miền Bắc sống dưới một chế độ chuyên chính lâu ngày, đă trở
thành một vương quốc nói dối. Không ai dám công khai nói thực ư kiến
của ḿnh. Có nói là phải nói gần nói xa, nói cạnh nói khóe. Đói phải
nói là no, khổ phải nói là sướng. Đang trong t́nh trạng ấm ức như
thế, ơn đảng ơn người như thế mà bây giờ có người dám nói thẳng ra
giữa chốn trù nhân quảng tọa “là từ ngày Hoàng thượng hồi loan đên
giờ nhờ ơn Hoàng thượng mà cả nước đói xanh xao cả người ” th́ dân
h́nh sự nghe nó sướng quá, nó thỏa măn quá. Nói đến quân họ Tôn th́
họ không nghĩ đến Tôn Sĩ Nghị mà nghĩ đến Tôn Đức Thắng”. Ông vua
nhà Lê ươn hèn thối nát họ không nghĩ đến vua Lê Chiêu Thống mà lại
nghĩ đến ông “vua” Lê Duẩn đương thời.
Thực t́nh khi tŕnh diễn chúng tôí không hề có hậu ư đó. Chỉ cốt t́m
một kịch lịch sử để cho anh em có chỗ diễn mà thôi, những sự kiện
trên hoàn toàn là sự trùng hợp t́nh cờ. Nhưng anh em h́nh sự lại
nghĩ chúng tôi cố ư nên khi vở kịch kết thúc là anh em h́nh sự đứng
dậy vỗ tay như pháo nổ, nồi niêu xoong chảo gơ loạn lên, hoan hô
kịch liệt. Đội trưởng đội văn nghệ khu B, Quách H. chạy lại nói với
Th. và tôi: “Các đàn anh chơi kịch đâu ra đấy”. Mấy chú h́nh sự
“đồng nghiệp văn nghệ” th́ chạy lại cơng Đinh Đề Lĩnh, La Sơn Phu Tử
mà quay ṃng ṃng.
Điều làm trại phó Đặng U., cán bộ giáo dục Nguyễn Hồng L. và cán bộ
an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khó chịu hơn hết là họ muốn qua văn
nghệ khu B dạy cho chúng tôi một bài học về văn hóa th́ bây giờ
chính anh em h́nh sự sau buổi tŕnh diễn lại càng gần gũi thân thiết
với chúng tôi hơn.
Cái vui của đêm văn nghệ không kéo dài được bao lâu. Ngay mồng 2
Tết, c̣n đang ngày nghỉ, Th. và tôi cùng mấy anh em bên ca nhạc có
lệnh đi họp với cán bộ giáo dục, đă nhận được một tin choáng váng
“buổi diễn hôm mồng 4 Têt ngoài huyện Phù Yên được hủy bỏ. Đội văn
nghệ nghiệp dư giải tán ngay sau kỳ nghỉ Têt”. Chúng tôi phải về làm
kiểm điểm về “những sai phạm trong công tác văn nghệ”. Ngày mồng 4
Tết trước khi nộp kiểm điểm, Th. và tôi được thiếu úy Q. phụ tá giáo
dục, gọi ra nói khẽ: “Trước sau như một, phải cam kết là diễn y như
kịch bản, không thay đổi một chữ”. Không hiểu bạn tôi Th, làm kiểm
điểm ra sao, riêng tôi cứ y thế thi hành.
Có lẽ thiếu úy Q., người đi sát chúng tôi khi tập dượt, phần nào
thông cảm chúng tôi sau hơn một tháng trời sát cánh nên chút thiên
lương c̣n lại đă khiến y chỉ cho chúng tôi cái cạm bẫy mà chúng tôi
cần tránh. Nếu chúng tôi, trong khả năng thường thấy của đạo diễn,
có sửa đổi kịch bản cho nó thêm phần sống động, là chúng tôi có thể
bị ghép vào tôi “bôi xấu chế độ có hệ thống” một trọng tội thuộc
hàng quan điểm. Thực ra chúng tôi chỉ linh động phần trang trí mà
không hề đổi thay kịch bản một chữ nào. Đương sự, phó trại trưởng
Đặng U. đă chính thức lên trại trưởng khi Tết ra, cán bộ giáo dục
Nguyễn Hồng L., cán bộ an ninh kiêm chấp pháp Trần M. khi đọc lại
nguyên văn kịch bản của Trúc Đường chắc cũng nhận ra điều đó. Nhưng
người CS vốn luôn luôn cảnh giác, cảnh giác nhiều quá thành đa nghi
nên mới “có tật giật ḿnh” như thế.
Sau một tuần lễ kiểm điểm đi kiểm điểm lại, người chịu tội thay cho
toàn thể ban văn nghệ khu A là bạn trẻ Đỗ H. bên phần nhạc. Thật ra
khi sáng tác ra bản nhạc vui kiểu AVT, nhiều anh em xúm lại cùng
làm, trong đó có tôi. Nhưng khi bị cán bộ giáo dục quy tội “bôi bác
chế độ” trong câu “cái ǵ nhúc nhích là ta chén liền” Đỗ H. một ḿnh
nhận hết cho anh em. Trong 3 người ca hát AVT, Đỗ H. cũng là người
hát duyên dáng nhất, nên bị cán bộ gà mái Nguyễn Hồng L. cho rằng
“nhảy dậm giựt phát huy văn hóa đồi trụy”. Tôi thường ngày rất gần
gũi Đỗ H., bởi v́ H. ngoài việc tính t́nh khẳng khái, hát giỏi, thơ
hay, anh c̣n là một người “biết sống”. Nửa đùa nửa thật nhiều lúc
anh gọi tôi là “ông thầy”. Có miếng khoai củ sắn anh thường chiếu cố
đền tôi.
Một hôm trời mưa không đi ra ngoài làm được anh cũng “bồi dưỡng” tôi
miếng sắn. Tôi thấy rơ ràng sắn khẩu phần của trại đâu phải sắn cải
thiện bên ngoài. Cho nên dù luôn luôn đói, tôi không nhận củ sắn H.
cho. “Anh cứ ăn đi mà” – “Chú mày coi tao ra làm sao mà lại đi ăn
sắn khẩu phần của chú mày cho được”. Đỗ H. đủng đỉnh “Nóỉ thật với
anh, H. chỉ ăn môt nửa số sắn trại phát là đủ rồi. Tập cho cái bao
tử nó quen đi. Chế độ này nó chỉ giỏi nắm cái bao tử của ḿnh. Ḿnh
tập cho bao tử nó teo lại th́ dù có bị nắm, nó cũng không ảnh hưởng
bao nhiêu. Em thấy ngoài hiện trường anh cuốc hăng quá. Cuốc chút
chút thôi chớ”. Nghe xong tôi mới tỉnh ra mà nói: “Thôi chú mày đừng
có gọi tao là ông thầy nữa, chú mày mới đúng là ông thầy của tụi
tao”.
Người anh em của tôi, Đỗ H. bị lên làm việc trên pḥng an ninh chấp
pháp liên miên. Đỗ H. có nhắn một người bạn Nguyễn T. La Sơn Phu Tử
nói với tôi là bất cứ ở đâu, trong trại ngoài hiện trường đừng gặp
Đỗ H., coi như không quen biết. Một buổi sớm mai, Đỗ H. được đi làm
trở lại. Đỗ H. gầy rộc, mặt mũi vêu vao, thâm tím. Sau này tôi mới
biết, đối với tù chính trị, cán bộ khi cần không có đánh công khai.
Gọi lên “làm việc”, đánh kín trong pḥng chấp pháp.
*
Từ ngày trại phó Đặng U. lên làm trại trưởng, lũ tù cải tạo chúng
tôi gieo neo vất vả hơn nhiều. Khẩu phần ít đi, làm việc nhiều hơn.
Làm quần quật ban ngày, đêm c̣n “ngồi đồng” b́nh bầu, tự phê, tự
kiểm.. . Trời đă sang tháng 3, hoa gạođă bắt đầu nở đỏ, chim “bắt cô
trói cột” mà cán bộ bắt chúng tôi gọi là chim “khó khăn khắc phục”
đă ra rả ở đầu rừng. Từ khi trại phó Đặng U. lên, tôi được thăng
chức làm “phân cục trưởng” chuyên môn đi gánh c… Mỗi buổi sáng, gánh
từ trại ra đội rau 3 chuyến là xong. Chuyến cuố́ cùng, tắm rửa xong
ra về anh em chúng tôi bất ngờ gặp ông cụ Việt, nguyên trại trưởng
đang ngồi trên chiếc xe đạp gần nhà kho của trại. “Thưa cụ, cụ từ
trên huyện về thăm trại”. – “Vâng, các ông đi làm; tôi về lĩnh chút
tem, phiếu”. Ngày ấy chế độ bao cấp c̣n thịnh hành, người ta sống
bằng phiếu gạo, phiếu đường, phiếu sữa, phiếu bột ngọt, phiếu thuốc
lá, thuốc lào, v.v… ông cụ Việt chắc chưa chuyển hộ khẩu về huyện
Phù Yên nên hàng tháng vẫn phải lên trại lĩnh chút nhu yếu phẩm. Tôi
nghĩ vậy.
Nhưng buổi chiều đi làm tôi vẫn gặp ông cụ ngồi trên chiếc xe đạp cũ
bên cạnh cửa kho. Chưa ai phát nhu yếu phẩm cho ông cụ, mà cũng
không ai mời ông cụ vào nghỉ chân qua lúc ban trưa. Tôi tự nghĩ tại
sao cùng là cán bộ với nhau, người ta lại phũ phàng với ông già như
vậy? Tôi chợt nhớ đến câu nói của người tù h́nh sự khi mới về đây
“Đang phát động chiến dịch đánh tư sản mại bản nếu bố tôi có bị đi
cải tạo tôi cũng phải quên bố tôi luôn, nếu tôi muốn có bát cơm mà
ăn “. Sự nghỉ hưu bất ngờ và vội vă của ông cụ Việt có liên hệ ǵ
đến việc ông cụ đối xử tử tế với tù nhân, đến việc ông gọi chúng tôi
là “các ông”. Câu hỏi này cứ làm tôi băn khoăn thắc mắc măi. Bất
giác, một người tù khổ sai biệt xứ là tôi lại thấy cảm thương một
người cai tù già “cùng một lứa bên trời lận đận “.
Bạn T. “La Sơn Phu Tử” cái thư của bạn làm tôi bồi hồi nao nức về
chuyện văn nghệ trong tù 19 năm xưa. Bạn nói là có lúc nào chúng ta
gặp lại nhau “chơi” lại cái màn kịch “Lửa Kinh Thành” không nhỉ? Khó
lắm bạn ơi. Làm sao người ở lục địa này, người lục địa kia hội họp
bên nhau cho được. Lại c̣n chuyện người c̣n kẻ mất. “Tướng nhà
Thanh”, người bạn Lê Văn Hóa của chúng ta đă đi rồi. Anh mất ở trại
Thanh Phong rừng sâu Hạ Lào. Anh cứ phù lên xẹp xuống như “thủy
triều”. Hôm cáng anh lên tuyến trên rồi nghe tin anh mất ở đó, nằm
trên cáng mà anh vẫn hát “̣ e con ma đánh đu, thằng Tây nhảy dù,
Zoro bắn súng”. Người đâu mà lạ. Cười ngoài đời, cười trong tù, cười
luôn khi sắp chết.
Bạn nói trong thư “ước ǵ chúng ta…”. Bạn ơi nếu tôi có một điều
ước, tôi ước mong cho ngày nào trời đất phong quang, chúng ta được
trở về đất nước Việt Nam yêu dấu, muốn đi đâu th́ đi. Tôi sẽ đi tới
những trại tù năm cũ, thăm lại người xưa, thăm lại các bạn tù chúng
ta c̣n nằm lại. Tôi sẽ tới trại Yên Hạ, tới quận Phù Yên hỏi xem ông
cụ Việt trại trưởng năm xưa c̣n sống hay không? Nếu gặp được ông cụ
tôi sẽ nầm lấy tay mà nói “Tôi là là cựu tù nhân Yên Hạ đây, cụ c̣n
nhớ tôi không, thưa cụ?”
Phan Lạc Phúc.
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối
giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42
năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong cuộc
chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất
Cảm
nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024
Tôi đă khóc
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử
địa
Sài G̣n tháng Tư -
1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của
một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh
Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc
Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027
Trong lửa đỏ...
Đại đội
C Viễn Thám của tôi
Múa hè đỏ
lửa 1972
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công
Thành phố
Sài G̣n
Chiến
sự đầu xuân 75
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện
t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao
tử
Cuộc chiến
không muốn thắng
Có những mùa Xuân…
Nhật kư An Lộc
Qua cơn mê
T́nh lính
Cổ
thành QT & Đại Lộ kinh hoàng
Cho người năm xuống trên quê hương
Chai rượu vĩnh biệt
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc
Đại lộ Kinh Hoàng
Trận đánh tại Thường Đức
Xuân ở nơi
nào?
Năm Th́n nói chuyện Rồng
CSVN lại mồi chài Kiều bào
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n"
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH
Người lính chết sau cùng
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước
1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc
Riêng một
góc trời-Ngô Thụy Miên
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
HĐ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng
nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi xTông
nhà
Hai ông bố nuôi