May mắn &
Hên xui trong đời lính chiến
Ba, bốn phát
Tập Truyện Thuyền Đời
13 người cuối cùng về
từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Cây số 17 tối 29-4-68: Bốn giờ chiều đường dây từ Huế gọi ra: trở về
gấp. Anh Hạnh kêu chiếc xe đổ thêm xăng, coi lại máy rồi tiễn tôi ra
khỏi La Vang. Người tài xế nói với tôi: anh giữ chắc súng nghe, tôi
phóng đó, hồi này cũng khá rồi. Quốc lộ mở rộng, những ngọn đồi cỏ
thấp phía tây, xa những ngọn núi giấu đỉnh trong mây. Mé biển những
lượn đất cát trắng khô khan, thỉnh thoảng mấy ngọn dương xơ xác… Cây
số 27, Lê Hằng Minh của Trâu Điên đă chết, cột cây số bị bắn nát.
Tới Huế trời đă hơi tối. Người bạn trong bộ tư lệnh nói: xe chở anh
ra cây số 17, họ đợi anh ngoài đó, có lẽ sớm mai, phải ra đó ngay…
Không kịp làm ǵ ngoài việc đổi xe trở lại cây số 17, người tài xế
già lo ngại khi cho xe quay lại thị trấn, tôi trấn an: chết có số.
Khung cảnh trơ trụi, một bồn nước cao giữa những ngọn cây khô, hàng
kẽm gai dày cỏ bị đốt cháy nhem nhuốc. Người tôi trở thành một chiếc
xe vận tải: máy móc, mũ sắt, áo giáp, chiếc áo khoác trở thành chiếc
va ly với đầy đủ những vật dụng, từ viên thuốc đau bụng tới que tăm,
bàn chải và thuốc đánh răng.
Gặp Khải, gặp Đính… Bính nói: ngủ hầm hay ngủ trên, pháo kích ghê lắm.
Bính chỉ ra những bức tường đổ, những hầm hố chung quanh.
Tôi nói: ngủ ở trên, pháo kích chạy.
Yên chí có chỗ nằm, liên lạc để sớm mai nhảy xong ḿnh đi ra ngoài, ṿng qua những hậu cứ, ra quán bên quốc lộ kêu một chai bia. Mấy người lính mua theo những thứ cần thiết. Không thể thiếu đế, trong đó mưa và lạnh lắm. Buổi chiều bỗng nhiên có lúc sáng rực với nắng quái, con đường bụi và mấy chiếc xe chạy hết tốc lực thi đua với thời gian… chợt nhớ nhà… Anh Đính nằm trên chiếc vơng treo vào hai thân cây ổi nhỏ, chiếc máy truyền tin ở bên, anh hút từng hơi thuốc ngắn kể lại cho tôi nghe ngày dẫn tiểu đoàn vào Ngọ Môn… anh nói: mai vào trong chắc đụng lớn. Anh cười.
Khoảng nửa đêm trời đổ mưa, tôi thức dậy nghe tiếng động của im lặng. Người lính đều đă ngủ và những chiếc ba lô đă gọn gàng. Trong rừng núi thâm u của Trường Sơn kia những ai đang thức? …Tà Bạc 30-5-1968. Năm giờ sáng tiếng c̣i réo tập họp. Tôi nhớ tới những sớm tinh mơ trong quân trường ngày nào. Dế kêu, cả lũ thức dậy nhanh nhẹn thu xếp, tập họp… Đă hai năm. Những người lính trở dậy, đeo ba lô lên vai thầm th́ trở ra băi đáp, chỉ có những tiếng ho, những tiếng nói nhỏ, tiếng bùn lép nhép dưới đế giầy, những đốm lửa trên đầu điếu thuốc lập ḷe trong đêm tối. Từng người nối đuôi nhau, những chiếc mũ sắt, áo mưa phủ kín, đoàn người như một ḍng những khối bóng tối di động.
Quân đưa cho tôi chiếc lon nhỏ với chút cà phê bột nóng bỏng: như vậy là hiếm lắm đó, vào trong đó c̣n nhỏ răi ra nữa…
Con đường nhỏ đầy những vũng nước của trận mưa đêm qua. Băng qua những thửa ruộng c̣n chân rạ chúng tôi tới băi đáp là một triền đồi thấp có cỏ.
Quân nói: ḿnh nhảy Tà Bạc, Lương, B́nh ở trong đó từ chiều hôm qua, chuyến này đi e lâu mới về.
Từng đơn vị nhỏ tập họp nơi hai bên
sườn đồi cách xa nhau. Người đứng ngồi lóng ngóng, những bóng người
di động không rơ nét, những người đứng xa nhau hai thước không rơ
mặt. Từng nhóm người tụ lại, từng cơn gió lạnh buốt ẩm nước. 9 giờ
một đoàn trực thăng xuất hiện và thấp dần đổ xuống ở ngọn đồi. Đếm
được 30 cái. Từng tiểu đội nhanh nhẹn lên trực thăng. Thời gian chờ
đợi kéo dài. Mây vẫn chưa tan trên những đỉnh núi phải vượt qua
trước khi vào thung lũng. Những chiếc trực thăng nằm im với những
cánh quạt rũ như những con chuồn chuồn gặp nước. Khi đợt nắng đầu
tiên chiếu xuống những lá cỏ long lanh nước th́ những chiếc cánh
quạt bắt đầu quay nhanh. Trong giây phút cả đoàn trực thăng nhấc
ḿnh lên khỏi mặt đất, tôi bám chặt tay vào chiếc dây nơi ghế ngồi.
Chúng tôi lên cao, lên cao măi. Những ngọn đồi thấp, những ngọn núi
không cây, màu cỏ thay đổi từng vùng. Gió lạnh thốc trong ḷng máy
bay. Trực thăng lên cao măi, có những khoảng mây đục thấp, đoàn trực
thăng nối đuôi nhau theo những khoảng trời xanh, len giữa những đám
mây, len giữa những ngọn núi đồi trùng điệp… Cho tới khi máy bay bắt
đầu xuống thấp, tôi nhận thấy phía trước mặt một thung lũng, hai
chiếc trực thăng vơ trang đang nhả đạn, đường bay nhanh và những
chao lượn ngoạn mục. Thung lũng có một chiều ngang khá rộng, kéo dài
về phía Nam , mấy ngọn đồi thấp trơ vơ mấy ngọn cây khô. Mầu đất
phơi đỏ ở dưới, từng hố bom sâu có h́nh thù của những chiếc lá sen
già đă tàn, những chiếc lá sen khổng lồ, đó là dấu tích của những
trận mưa bom hồi đầu mùa xuân trước khi những trận mưa lớn đổ xuống…
Từng chiếc đáp xuống nhanh nhẹn, từng người lính nhảy vội tóe sang
hai bên, trực thăng bốc lên nhanh…
Tà Bạc, trung tâm của Ashau, phía Bắc là A Lưới giáp ranh với Quảng
Trị, phía cực nam là Ashau thông vào Quảng Nam có con đường vào vùng
công trường 6, tức Khe Tre. Từ Tà Bạc có con đường 547 qua Ba Hi
Vũng Chậu để tới Huế, con đường ṃn ấy trong những năm yên b́nh cũ
đă đưa nhiều người vào trong Tà Bạc trong ư định thiết lập một vùng
định cư mới, nhưng nay đă không có dấu vết ǵ về những cố gắng của
một thời. Trên con đường 547 hiện có một đơn vị Mũ Đỏ hành quân.
Trời bắt đầu đổ mưa nhỏ hạt, số quân c̣n lại không thể đổ tiếp. Anh
Đính cố gắng bắt liên lạc với một tiểu đoàn ở hướng Nam. Chúng tôi
rẽ cỏ làm đường, những ngọn cỏ lau sắc như dao cao hơn đầu người.
Một người lính đi trước đập tay lên cổ vuốt xuống một con vắt nhỏ
như sợi chỉ, màu xanh, nhảy tanh tách từ những lá cỏ bám vào cổ, vào
tay, những người lính vội tụt tay áo, kéo cao cổ áo… Những thân cỏ
lau ngă xuống, những bước chân đạp lên tạo thành một con đường mới,
con đường đưa chúng tôi lên ngọn đồi lớn nhất nằm trong thung lũng.
Lên tới lưng chừng đồi th́ tôi gặp anh Lương đang đứng bên một chiếc
hầm đang được đào dở. Từ Mậu Thân bây giờ chúng tôi mới gặp lại nhau.
Trực thăng đang thả trọng pháo xuống, những người lính pháo binh vội
vă thiết trí và ngay sau đó đă hướng về phía Nam , hướng lên những
ngọn núi phía Tây nhả đạn. Anh Lương liên lạc với Mẫn ở một ngọn đồi
phía Nam báo tin tôi đă xuống. Niệm đang dẫn đại đôi vào những sườn
núi thăm ḍ. Ngọn đồi đang bị tràn ngập những người lính. Những ngọn
cỏ cao đang được đạp nằm xuống, thật nhanh chóng những chiếc hầm đă
hoàn thành và những ngọn khói xanh đă un lên: những người lính nhặt
củi đốt lửa nấu cơm trong khi chờ đợi… Cho tới giữa trưa, tất cả đơn
vị của Trung đoàn 3 đă xuống hết thung lũng. Tiếng trọng pháo nổ đều
đều…
Ăn một miếng cơm đựng trong chiếc hộp sắt. Người Thượng sĩ già cầm
chiếc bi đông đưa về phía tôi, miệng hơi mỉm cười: uống miếng nước
anh. Tôi nói cám ơn và cầm lấy bi đông đưa lên uống. Tôi suưt bị sặc
v́ ngụm rượu đầy, tôi mỉm cười không nói, rượu đế có mùi vỏ quưt
thơm nồng. Đây đó những người lính chụm lại với nhau ăn cho qua bữa,
có người mở ra những thức ăn mang sẵn, có người nướng cá khô, có
người bẻ lấy mấy tàu bắp cải bỏ ra ăn sống. Theo chân những đơn vị
bộ binh bao giờ tôi cũng thấy hiện ra những gian khổ. Những gian khổ
không phải chỉ trong những bữa ăn, nó hiện ra nơi những bộ quần áo
sứt chỉ, đôi giày vẹt đế, dáng vẻ nhẫn nhục, họ thường có mặt trong
những vùng đất có giới hạn, họ bám giữ lấy đất trong những điều kiện
khó khăn và phương tiện tiếp trợ ít oi, khác hẳn với những người
lính ở đơn vị tổng trừ bị… Họ đi hành quân mang theo gạo, rau, nước
mắm, tàu vị yểu… họ không thích hợp với đồ hộp. Họ cần gạo hơn là
bánh khô…
Tới quá trưa tôi theo một tiểu đội đi về những sườn núi phía Tây,
Niệm báo về khám phá được những hầm của địch. Con đường ṃn nhỏ có
nhiều hố bom, chúng tôi thấy những ổ súng pḥng không của địch bỏ
lại, chúng tôi gặp những mảnh vỡ của xe vận tải bị phá. Lách qua
những quăng đường ṃn, qua những lùm cây, chúng tôi lọt vào trong
một khu rừng rậm, không có chút ánh sáng nào, chừng như lá ở trên
đầu chúng tôi có nhiều lớp khác nhau, thỉnh thoảng một vùng ánh sáng
hiện ra, nơi đó là những hố bom đào sâu dưới đất và những ngọn cây
phía trên đă bị đốt cháy. Qua một con suối nhỏ chúng tôi tới một
sườn núi, ở đây có những ngọn cây cao và gốc lớn, dưới đất không có
cỏ, chỉ có lá khô nhiều lớp và những khoản đất nhẵn, đây là nơi cộng
quân đào nhiều hầm kiên cố bám vào sườn núi. Những căn hầm ngang cỡ
nhau bỏ trống, mỗi chiều khoảng ba thước, ở dưới làm một lớp sàn
bằng cây nhỏ cách đất khoảng ba mươi phân, trên hầm can những thân
cây từng lớp xen với những lớp đất dày đến ba thước và trên cùng lợp
cỏ tranh. Không thấy có hầm nào trúng bom. Chúng tôi dừng lại lâu ở
một cái hầm lớn mà chúng tôi cho là của một người chỉ huy, phía trên,
nơi gần miệng hầm là một khoảng đất bằng phẳng, có một cái bàn nhỏ,
hoàn toàn được làm bằng những cành cây nhỏ, bốn chân đóng xuống đất,
trên là những cành cây được cột lại với nhau bằng mây, những băng
ghế dài bao quanh và tản mát cũng được làm như thế.
Quân nói: chỗ này mà ngồi đánh cờ th́ tuyệt.
Sau đó Quân rủ tôi đi sâu vào trong,
vừa đi Quân vừa ngước nh́n lên những ngọn cây, Quân nói: tôi mới
phát giác ra, ở trong này có lan… Khi tới một ngọn cây cao, Quân
ngừng lại và bỏ giày trèo lên, Quân mang xuống một cụm lan lớn, một
chùm lan trắng muốt rũ dài, Quân nâng niu hài ḷng. Trở lại chỗ đóng
quân, Quân treo cụm lan nơi đầu lều vải.
Buổi chiều xuống thật nhanh, mây đục xuống vây kín thung lũng như
cái vung, những ngọn núi chung quanh khuất kín ngọn trong mây mù.
Cơn mưa lớn đổ xuống khi trời bắt đầu tối, nước đổ như thác, lều
chúng tôi ở sườn đồi, nước đục ngàu từ trên chảy ào ào. chúng tôi
cuốn ḿnh trong những áo mưa ngồi tựa lưng vào nhau, nước ngập vào
những chiếc hầm, chảy dưới lớp cỏ c̣n tươi. Chúng tôi tằn tiện với
những mẩu thuốc được đốt lên. Mưa đổ xuống khoảng hơn một giờ th́
tạnh, Quân cố gắng gây chút lửa đun nước trong chiếc ống bơ, chiếc
bếp bằng đèn cầy là một sáng kiến lạ mắt đối với tôi. Nước sôi, Quân
mở những gói cà phê bột thả vào chiếc lon.
Tôi hỏi: kiếm đâu ra vậy.
Quân cười hắc hắc: bọn nó mới xuống dưới kia kiếm được một mớ, đồ thả dù từ hồi trước bị mắc trên cây.
Trong mưa lạnh chúng tôi chuyền nhau
lon cà phê chua và chát xen vào những gói thuốc… Mưa kéo dài suốt
đêm, chúng tôi ngồi bó gối dựa lưng vào nhau.
Tà Bạc ngày 2-5-68. Những cánh quân đi sâu xuống phía Nam, những
đụng độ nhỏ, nhiều hầm vũ khí…
Tà Bạc đêm 4-5-68. Những ngày ngắn và những đêm mưa dài, mặt trận
vẫn yên tĩnh. Quân có thêm mấy cụm lan. Ḿnh nhớ nhà. Không có hy
vọng một trận lớn. Trong lúc sửa soạn đi ngủ, Quân kêu lên: xong rồi.
Tôi ngạc nhiên, Quân vẫn ôm lấy chiếc máy thu thanh nhỏ úp lên tai,
chiếc máy gần hết pin nghe nhỏ. Lúc sau Quân hơi phác một nụ cười:
xong rồi, tin cho biết Mỹ và Bắc Việt hẹn gặp nhau ở Ba Lê vào ngày
10-5. Xong rồi, xong rồi… Một anh lính ngồi bên: liệu có ḥa b́nh
không?
Tôi thấy phải trở về gấp.
Huế 5-5-68. Trực thăng đă đưa tôi trở lại cây số 17. Bùi ngùi chia
tay những người bạn. Huế kinh hoàng những cuộc pháo kích. Đêm qua
nhiều hỏa tiễn 120 rơi xuống Mang Cá, khu An Ḥa… Tin tức dồn dập từ
Sàig̣n. Lưu Kim Cương đă chết. Tướng Loan bị thương nặng. Đàm Quang
Quư chết. Các chuyến bay bị hủy. Làm sao về. Ở Sàig̣n giới nghiêm 7
giờ tối.
Huế 7-5-68. Sáng vào sư đoàn gặp tướng Trưởng. Một người có nét mặt
khắc khổ, rất thận trọng. Ông hỏi t́nh h́nh. Tôi nói: lính cần gạo,
ăn đồ hộp Mỹ lính đi kiết chịu không được. Ông là người ở trên trời
gần hết thời gian của một ngày. Chỗ nào ông cũng có mặt. Một người
lính kể: tôi lái xe ra Quảng Trị, lúc bấy giờ quốc lộ c̣n nhiều ḿn,
xe đang chạy tôi bỗng nghe nổ lớn phía sau xe, ngừng xe lại coi tôi
biết một trái ḿn đă nổ sau khi xe tôi vượt qua. Sao lại có sự may
mắn đó. Tôi nghĩ măi mới nhớ, buổi sáng trước khi lên đường chúng
tôi đă thấy tướng Trưởng cười. Câu chuyện này tôi đă nghe nói tới
nhiều lần, thực giả không rơ nhưng có điều chừng như biểu lộ một cá
tính của tướng Trưởng qua cái nh́n của người lính. Tướng Trưởng
không vắng mặt trong mọi trận đánh, buổi sáng vừa thức dậy tôi đă
thấy ông ở La Vang. Buổi trưa sau cuộc hành quân khai diễn được ba
tiếng ông đáp xuống ngay bộ chỉ huy nhẹ ở Gia Đẳng, Trung đoàn 3
xuống Tà Bạc không đầy ba tiếng ông đă đứng trên đồi cao… ông xuất
thân từ nhảy dù, con rể một nhà văn tiền chiến: Thạch Lam… 17 giờ,
chuyến trực thăng độc nhất có được ở Huế đưa tôi vào Đà Nẵng.
Sàig̣n ngày 8-5-68. Chuyến bay quân sự hiếm hoi đưa tôi trở lại Sài
G̣n. Đà Nẵng trong đêm bị pháo kích. Máy bay trở lại lượn trên
Sàig̣n với những ṿng lửa và khói ở gần sân bay. Đợt tổng tấn công
mới đă khởi đầu…
Sàig̣n ngày 11-6-68. 6 giờ sáng hàng loạt hỏa tiễn rơi xuống Sàig̣n.
Nhiều nhà cửa bị sập ở khu Gia Long. Nhiều người chết… Mai đi Cà Mâu…
Chuyến đi không mấy yên tâm…
Cà Mâu 12-6-58. Chiếc phi cơ nhỏ đáp xuống một sân bay hẹp nằm giữa
đồng lúa xanh. Con đường nhỏ vào thị trấn, những dấu tích tàn phá
trong Tết vẫn c̣n nguyên vẹn. Không nơi nào thiếu vắng những dấu
tích của cuộc chiến… Con đường ven sông, tôm khô phơi đầy một màu đỏ
óng. Miền Nam của cá và tôm… Gặp Nhân hẹn mai đi Ḥa Thành.
Cà Mâu 1306-68. Nhân dẫn đi ăn sáng, hẹn chiều về ăn canh chua lươn
của bà Sáu Mập. Ai tới Cà Mâu phải biết tới điều đó. Xuống thuyền đi
Ḥa Thành. Ḍng sông nước đục. Chiếc ghe máy chạy nhanh. Một người
đứng bên bờ sông tay trái vẫy. Thằng nhỏ hỏi: ghé được không thầy
hai. Nhân nói được, nhưng mé bên này th́ không. Tôi hỏi sao vậy.
Nhân nói: bên này mấy bố du kích ra hoài. Gần trưa chúng tôi tới Ḥa
Thành. Một ấp lớn…
Suốt từ ngoài đầu ấp suốt dọc con đường tôi không nh́n thấy một điều
nào cho thấy rằng ở đây – trên một khoảnh đất nhỏ của quê hương – có
chiến tranh, nhưng sự thật cũng không lâu những anh em du kích vẫn
lẻn về phá rối đời sống dân chúng. Nhưng không v́ thế mà họ khiến
cho dân chúng không sống được. Dân chúng vẫn cầm súng và cầm cày.
Măi cho tới khi tới cuối ấp Tân Phong tôi mới nhận thấy những hàng
rào kẽm gai và những chướng ngại vật chung quanh ngôi giáo đường,
lúc bấy giờ những học sinh của ấp đang tập hát theo với mấy cô giáo,
gác chuông làm bằng cây, phía trên lợp tôn mới trông như một vọng
gác, trên đó cũng gắn những máy phóng thanh… Tôi đặc biệt chú ư tới
ṿng đất bao quanh một khẩu súng, mới nh́n tôi nghĩ là súng cối 82
ly, nhưng nh́n lại tôi thấy nó hết sức đơn sơ. Chừng như đoán được ư
tôi, Nhân bước vào trong ṿng đất, nhắc cái nắp đậy miệng súng ra
nói:
– Đây là một khẩu súng cối nội hóa.
– Người ḿnh làm lấy được?
– Của một ông thợ rèn, súng ḿnh làm nhưng bắn bằng đạn Mỹ.
– Bắn được?
– Sao lại không, bắn nhiều rồi là khác…
Tôi cũng bước vào trong, tôi nhận thấy ống sắt được ráp lại bằng
nhiều đoạn ngắn, vết hàn c̣n hằn rơ, súng không có máy nhắm, nhưng
cũng có trục quay sang ngang, và lên cao xuống thấp được, bàn là một
miếng sắt rộng mỗi chiều khoảng 20 phân, ṇng súng được chống xuống
đấy bằng ba cẳng sắt, bên cạnh đó c̣n có một cái bùi nhùi dùng thông
ṇng súng, lúc mở miệng ra xem tôi thấy ṇng súng đă rỉ sét, tôi nói:
– Lâu nay không bắn nữa sao?
Một anh dân vệ đứng bên nói:
– Lâu rồi không dùng đến, nhất nữa người bắn chuyên môn hôm nay cũng
không c̣n ở trong ấp…
– Thế c̣n ông thợ rèn?
– Ông ấy chết lâu rồi…
– Không có máy nhắm thế này rồi làm sao?
Nhân cười, những người đứng chung quanh tôi lúc đó cũng cười:
– Không có máy nhắm, vô phúc bắn nó nổ ngay khi ra khỏi ṇng th́ làm
sao? hoặc tới chỗ không phải là mục tiêu… Nguy hiểm quá.
– Có người đă bắn rồi, bắn nhiều rồi, bắn theo kinh nghiệm, vậy mà
hay lắm đó. Nếu không bắn được th́ để đây làm ǵ… Ở đây có hai khẩu
chứ không phải một.
Tôi theo người dân vệ đi ra đằng sau, ở đó cũng có một khẩu như vậy
nữa.
– Vậy cái người làm cũng tài lắm đâu phải vừa ǵ, vậy ông ta c̣n làm
được những khẩu nào khác không?
– Nghe nói có một khẩu để đâu đó trên quận, và ông ta c̣n làm thử
một khẩu 105 ly nữa nhưng khi bắn thử th́ đạn nổ trong ṇng, chính
lần thử này khiến ông ta thiệt mạng.
– Vậy ông ta là người thế nào?
– Bọn tôi ở đây không ai biết rơ về ông hết, những người già th́
biết, ông ta chết đă lâu chỉ nghe nói lại. Sau này chỉ có một người
bắn được hai khẩu này, rồi về sau chưa ai dám thử bắn hết, nhưng
cũng không có dịp để dùng đến nữa… Bọn tôi định hôm nào lau chùi rồi
bắn thử xem sao…
Tôi nghĩ tới một người thợ rèn vô danh, một người nào đó có lẽ chúng
ta đă gặp, người ấy đă cặm cụi với những khẩu súng bằng chính những
sáng kiến của ḿnh… Rồi một hôm chết đi mang theo những điều ḿnh đă
có, không để lại dấu vết nào… Tôi nghĩ khẩu súng trong cánh đồng lầy
này tự nó biểu trưng cho một sắc thái, tự nó nói lên một sức sống và
niềm bí ẩn nào đó. Sức sống và niềm bí ẩn vẫn thường có mặt trong
khắp xứ sở này…
Đức Ḥa 28-6-1968. Vị sĩ quan giới thiệu qua về trái hỏa tiễn 120 ly
vừa bắt được. Nó được đưa từ vùng mật khu Ba Thu tới đây để bắn vào
Sàig̣n, đây là những trái hỏa tiễn đầu tiên tịch thu được. Tôi nghĩ
tới hành tŕnh của nó từ Liên Sô…
Nha Trang 6-7-1968. Chuyến bay đi Pleiku ngừng lại ở đây. Biển xanh
ơi, nhớ năm học cũ. Những người bạn thân thiết. Đi lại những con
đường xưa…
Pleiku 13-8-1968. Chuyến bay đưa tôi tới Cao Nguyên lần thứ nhất.
Đường lầy bùn, những cơn mưa lạnh. Thị trấn dơ bẩn với sinh hoạt
thời chiến. Tôi nhớ tới ông tướng đă thành lập nơi giải trí cho lính:
Trung tâm khang lạc, một thứ nhà điếm công khai dành cho lính. Bây
giờ nó không c̣n, nhưng bây giờ nó có h́nh thức mới: con đường Hoàng
Diệu và lính Mỹ. Những con lốc lầy bùn đỏ, lính Mỹ với súng đeo vai
xuất hiện từ 11 giờ tới 4 giờ chiều…
Tuấn cho một chiếc áo khoác. Hoàng cho chiếc áo giáp c̣n mới. Tôi
nói đùa: mong cho mau không phải dùng tới những thứ này. Những ly đế
trong buổi chiều nơi quán nhậu. Tuấn cười khật khưỡng. Thuyên b́nh
lặng. Hoàng huyên thuyên. Chúng tôi nói tới ngày ḥa b́nh. Chợt tôi
nói: ngày ḥa b́nh nào.
Pleiku 14-8-1968. Buổi sáng sớm Nho đến, xe đợi ngoài đường, chúng
tôi dời thị trấn lên quốc lộ 14, nơi buổi chiều vừa qua có cuộc giao
tranh.
Nho móc trong túi ra cho tôi coi chiếc huy chương, trên một miếng
đồng tṛn có khắc hai chữ Cách Mạng, đó là một trong những chiếc gắn
trên những xác chết nơi quốc lộ 14 nối liền Pleiku với Kontum. Nho
kể lại trận đánh vào buổi chiều Chủ Nhật cho tôi nghe, khi một đoàn
xe tiếp tế dời Pleiku đi Kontum khi tới gần ngả ba Dakdoa, cách
Pleiku 13 cây số th́ bộ đội Cộng sản từ hai bên tấn công, trước nhất
là những trái đạn 75, 60 rồi từng đoàn người dời khỏi sườn núi và
rừng cây xông ra. Ngay khi nghe thấy tiếng súng nổ, đơn vị thiết vận
xa bảo vệ quốc lộ từ hai đầu kéo xuống vừa đủ thuận lợi để chống
những bộ đội cảm tử từ trong b́a rừng vượt ra tới khoảng đấy trống
cách đường nhựa khoảng một trăm thước, cuộc giao tranh diễn ra không
đầy nửa tiếng, đoàn xe và những thiết vận xa hoàn toàn vô sự, địch
bỏ lại trên 30 xác chết. Trong những xác chết đó có kẻ ra đă được
gắn huy chương cách mạng. Bầu trời buổi sáng ngày thứ Hai có một lúc
không mưa, trời quang, dù vậy vẫn c̣n nguyên bầu không khí rét mướt
của rừng. Tôi lên xe theo Nho tới thăm nơi xẩy ra cuộc chiến ngày
hôm trước. Trên đường chúng tôi ghé thăm căn cứ của đoàn thiết vận
xa có nhiệm vụ bảo vệ quốc lộ. Thiếu tá D. cho chúng tôi thấy những
vũ khí đă tịch thu được vào buổi chiều hôm trước. Trên một khẩu B40
máu c̣n đọng lại trên thân gỗ… Thiếu tá D. cho tôi biết tinh thần
của những bộ đội miền Bắc, nhiều cuộc tấn công đă diễn ra trên quốc
lộ 14 khiến con đường này có lúc rất nguy hiểm, ở xa tới người ta e
ngại khi phải vượt qua, nhất là khoảng ngả ba Dakdoa, cũng như
khoảng đường 19 gần nơi Suối Đôi, hai địa điểm này dù ở trên hai
quốc lộ khác nhau nhưng chung một khoảng rừng mà trong nhiều năm
Cộng quân vẫn trú ẩn. Cộng quân khống chế một thời gian dài trên
quốc lộ 14 nhưng nay th́ điều đó đă không c̣n nữa. Quốc lộ đă được
mở rộng và trải nhựa như một xa lộ dù công tác chưa hoàn thành hết.
Thiếu tá D. nói với tôi: bộ đội miền Bắc tấn công trên quốc lộ mục
tiêu chính được nhắm tới là cướp lương thực, điều ấy đă được kiểm
chứng bởi những cuộc tấn công nhắm vào các đoàn xe tiếp tế. Vị chỉ
huy thiết vận xa có một vẻ cởi mở và đầy tin tưởng, ông c̣n cho tôi
được thấy một sáng kiến của anh em thiết vận xa chống lại B40, một
vơ khí lợi hại đối với xe bọc sắt.
Quốc lộ 14 mở ra trước mặt, những con dốc dựng đứng, lớp bùn đỏ dày
trên mặt nhựa khiến cho những bánh xe gần như vượt ra ngoài ư muốn
của người cầm lái, đoàn xe nối đuôi nhau nhẹ nhàng, chậm chạp di
chuyển.
Bây giờ th́ chúng tôi đang ở trên một con đường hai bên không một
bóng nhà: khoảng đất trống những cây thấp, rồi rừng cây rậm kéo măi
cho tới chân núi phía xa, trong đó những con mắt thù hận chờ đợi.
Quốc lộ thực sự chưa được hoàn tất, nhựa chỉ mới được trải một nửa
trên đường, bên kia c̣n lại đất và đá. Những đường ṿng nguy hiểm,
những chiếc xe nhà binh Mỹ phóng hết tốc lực… Một xác chết, hai, ba,
bốn… những xác chết nằm ngay nơi mép đường nhựa. Chúng tôi ngừng lại
giữa đường, những xác chết nằm rải rác cô quạnh, một vài chiếc xe
ngang qua chạy chậm lại, có những chiếc máy ảnh được đưa ra, bên
những xác đă trương, mặt tái nhợt, quần áo rách tôi thấy rải rác
những vỏ đạn. Chiều hôm qua cuộc giao tranh đă diễn ra ở đó. Bây giờ
th́ c̣n lại những xác chết, những vỏ đạn, những vết bánh sắt chằng
chịt trong khoảng đất trống… Với một địa thế thật trống trải, với
khoảng cách khá xa từ lề đường tới ven b́a rừng, tôi thấy quả những
người Cộng sản đă liều lĩnh để vượt ra phơi ḿnh trên khoảng cách đó…
Ngă ba Dakdoa, anh bạn nói có thể đi thẳng Kontum. Nhưng chúng tôi
đă không tiếp tục đi, chúng tôi quay trở lại. Bây giờ tôi mới nhận
thấy trong b́a rừng cách từng khoảng xa những thiết vận xa đă bố trí
ở đó… Tôi hiểu v́ sao những mưu toan cướp lương thực đă không thực
hiện được.
Cơn mưa nặng hạt lại đổ xuống cùng với gió lộng, vào tới ranh thị
trấn chúng tôi ngừng. Anh bạn chỉ cho thấy bên kia đường, mé tay
trái, những người đàn bà và trẻ con co ro trong những chiếc áo mưa
đứng hoặc ngồi lóng ngóng. Có người tay không, có người xách theo
những chiếc giỏ. Người bạn nói: những người chờ đứng bán những lon
bia, bán thân và chờ rửa xe cho Mỹ… Vào những buổi sớm nhiều chuyến
xe phải ngừng lại đó chờ mở đường, những anh lính Mỹ phải chờ đợi và
đó là thời gian làm ăn cho nhiều người. Tôi biết có một người trở
thành giàu rất mau, anh ta không ở Pleiku mà ở Kontum, anh ta có một
cái xe gắn máy nhắm chở những cô gái chơi tới quốc lộ, chỉ cần chở
ra theo với những toán công voa, bỏ họ đấy, mỗi cô một ngàn, mà đâu
phải chỉ có một cô, những cô này mang theo một tấm vải nhựa, thế là
xong, buổi chiều anh chàng kia lại t́m nhặt những cô đó trên quốc lộ
đưa trở về – Người bạn nói với tôi và cười – Nói ra nghe mà thảm,
chiến tranh đưa dân ḿnh tới những hoàn cảnh kỳ cục không thể tưởng
được. Anh cứ ngó những người đứng lóng ngóng kia th́ đủ rơ, ở đây có
một đơn vị lớn của bộ binh Mỹ, họ nhiều khi ở trong rừng cả tháng
mới trở ra, như vậy anh đủ hiểu… Có một số người ḿnh th́ có một
quan niệm rất rơ ràng: bằng bất cứ cách nào kiếm được nhiều tiền, ăn
cắp được nhiều, họ dùng mọi phương tiện. Ăn cắp ở đây không phải là
ăn cắp nữa. Tôi đă vào nhà một người, bà ta làm lao công trong một
sở Mỹ, trong nhà có nhiều thứ lắm, từ cái gạt tàn thuốc, những bộ
tách uống nước, thôi th́ đủ thứ… không phải bà ta mua đâu, bà ta ăn
cắp dần dần mỗi lần một cái cốc, một cái dĩa, bà ta c̣n lấy được
mùng màn, áo mưa, giấy lau… đủ thứ hết. Quả thật tôi không thể tưởng
tượng được rằng làm cách nào mà bà ta mang được những cái rất cồng
kềnh ra khỏi sự khám xét ngặt nghèo của những cơ sở Mỹ. Nhưng rồi
tôi cũng được giải thích một phần nào, một phần thôi khi tôi tới cửa
một cơ sở Mỹ vào lúc tan sở, những toán người ở trong đi ra đều bị
khám xét bởi những anh lính Mỹ to lớn. Chừng như anh ta đă được huấn
luyện một cách kỹ càng về những mánh lới của những người nhắm ăn cắp,
anh ta lôi từ bụng chửa một người đàn bà ra một cái khăn tắm lớn,
lôi từ trong quần một người đàn ông ra một cuộn giấy đi cầu, lôi từ
trong búi tóc một bà già ra một cai ly… lôi từ trong đế giày ra một
số dao cạo… Vậy đó, như vậy th́ làm sao được. Nhưng người ta đâu
chịu bó tay, một cô gái vừa tiến tới với anh Mỹ đă cười ngặt ngẽo,
cô ta sát vào, ôm lấy eo, nhanh nhẹn hôn lên má anh ta một cái, thế
là xong, anh lính Mỹ cười giơ tay vỗ vào mông cô gái một cái như
tống đi thế là cô gái không bị khám ǵ hết, và anh hiểu rằng trong
người cô ta, cùng cái xách chắc chắn sẽ có ǵ trong đó, một chai
rượu là đủ rồi… Nhưng trông cảnh một bà già Tàu từ trong ra cũng ôm
lấy anh lính Mỹ mà hôn th́ tôi chịu không nổi tức cười… Để cho hôn,
cho sờ, nhưng lấy được đồ là nhất rồi…
Cơn mưa đă ngớt hơn, người bạn cho xe leo dần lên dốc với tất cả
thận trọng, mặt đường bùn đỏ trơn như mỡ… Bao nhiêu điều tôi đă thấy,
đă nghe, những điều đó liên kết với nhau tôi có thể nh́n thấy một sự
thật, nỗi cay đắng. Trở lại câu lạc bộ, đứng từ trong cửa sổ nh́n ra
những ngọn đồi nối tiếp nhau, những núi, những con đường, màn mưa
mỏng tôi thấy ḿnh như lạnh đi…
Kontum 19-8-1968. Vượt qua quốc lộ 14, hơn bốn mươi cây số. Rừng
xanh. Thiếu tá Báu ngần ngại khi nghe tôi nói muốn tới Dakseang, nơi
đang diễn ra trận đánh. Ông ngại ngần v́ hơn một tháng nay trực
thăng không đáp xuống được… Một người bạn nói cho tôi biết t́nh
trạng ở trong đó. Những người lính biên pḥng có khi cả năm không ra
khỏi đồn. Nơi đó chứa lương ăn, đạn và quan tài bọc kẽm. Một ông bố
tới trại đưa xác con, đường bay bị cắt, ông bố ngồi đánh bạc hơn một
tháng lúc ra được ông mang theo gần một triệu bạc về cùng với xác
đứa con trai… Không có trực thăng. Tôi lang thang trong thị trấn với
những giáo đường cổ kính, những con đường có cây cao xanh…
Phan Rang 15-10-1968. Tôi muốn thực hiện một chuyến đi dài. Khởi
hành từ Sàig̣n, qua Phan Thiết, ngừng lại Phan Rang. Mưa băo ập
xuống. Bó người trong nhà.
Nha Trang 21-10-1968. Tôi đă tới Nha Trang được ba ngày, mưa băo
tiếp tục đổ xuống vùng duyên hải, không thể tiếp tục đi Qui Nhơn như
dự định… Mai trở lại Sàig̣n…
Anh Q. Lần trở lại này tôi đă không được gặp anh, không được cùng
nhau lặng lẽ bên những ly rượu, và sau đó phá lên cười… anh đang ở
Sước Rũ, Khe Tre, Công trường 6, A Shau…c̣n nhớ không những câu thơ
của Quang Dũng chúng ta đă đọc cho nhau nghe, nhớ không: Đêm đêm mơ
chuyện làm khăn gói, để sớm mai rồi lại quẩn quanh…chính là thế,
chúng ta đă quanh quẩn với những mộng tưởng, những phân vân giữa suy
tưởng và hành động, chúng ta đă khôn quá, bịn rịn quá. Chúng ta đang
đi, cũng khăn gói đó nhưng thực sự chúng ta không đi, không đi như
điều chúng ta nghĩ phải làm. Chắc Q. c̣n nhớ hôm nào, một người đă
chỉ vào mặt chúng ta: bọn chui vào vỏ ốc. Chúng ta chỉ biết cười
chua xót. Chúng ta không chối được sự thực đó, chúng ta chỉ c̣n mỗi
một cách thế, tự chúng ta trong những cố gắng cá nhân, chúng ta chỉ
c̣n tư thế khiêm tốn trên điều mà tôi nói với anh: phục hưng lại một
phẩm cách người…Phải giết đi bao nhiêu kẻ phải phá hủy đi bao nhiêu…
những dơ dáy ngập lên tận mũi chíng ta phải chịu đựng, bao nhiêu
nhược điểm chúng ta nh́n thấy. Chúng ta chỉ có thể làm trong hai
điều, một là không làm ǵ hết, hai là xóa sạch đi rồi bắt đầu lại từ
không có ǵ đó. Chỉ có thể, không thể làm khác… Thôi hăy uống đi,
uống nhưng không được say. Nhớ anh vô cùng, những tan hoang c̣n đó…
B. Hôm nay anh ở đây nhưng anh nghĩ tới em những ngày đầu tiên sống
trong quân trường, anh muốn có mặt ở Sàig̣n để xuống thăm em trong
những ngày đầu tiên sống với đời quân ngũ và để nhắc lại điều anh
vẫn nói với em: bạn bè anh và bạn bè em đă có những người chết, hai
anh em cách nhau mười năm của đời sống nhưng rồi chúng ta cùng ở
trong một cuộc, chúng ta phải cùng nhau gánh chịu một thực tại chúng
ta không mong ước, chúng ta đều không có tuổi thơ, không được sống
trong thái b́nh yên vui, không được biết ǵ là hạnh phúc gia đ́nh…
Chúng ta chỉ c̣n lại một đời sống nhỏ bé… Chúng ta sống trong sự bất
công, cùng mọi người chúng ta gánh chịu những bất công đó một cách
đồng đều, trong bất công đó chúng ta hăy cố gắng làm cho bất công
giảm đi, em nhớ không, như anh D. đă nói trước khi lên đường: ḿnh
ra mặt trận, phải ra v́ sợ sau này khi ḥa b́nh trở lại chỉ c̣n một
ḿnh sống sót, sự sống sót vô ích và buồn bă. Mong em vui với những
bầu bạn mới, những người cùng chung cảnh ngộ như chúng ta, hăy nhớ
một điều: ai sao ta vậy, việc người khác làm được th́ chúng ta làm
được, chỉ khác một điều: chúng ta chọn điều nào mà chúng ta cho là
phải th́ chúng ta làm. Khi trở về anh sẽ xuống thăm em…
Anh C. Tôi thông cảm những phân vân của anh, đời sống những người
thân yêu, sự minh bạch ngay thẳng, trách nhiệm. Chắc anh c̣n nhớ một
lá thư nào của T.: ta không biết làm chi hết, to be or not to be th́
cũng ẩu như nhau. Nói vỡ nợ trước cuộc sống này, chính trị bẩn thỉu,
nghệ thuật phù phiếm, yên ổn th́ tồi tàn, chiến tranh th́ phi lư hơn…
Cho nên ta không biết xoay sở thế nào cả. Nghệ thuật có là một giải
thoát không? Nghệ thuật chỉ cho ta và cho người yêu ta thôi… Sáng
tác vẫn chưa chắc đă yên ổn trong tâm hồn khi nghĩ đến cái chết của
bạn bè, của những thằng em và của những thằng học tṛ ngoài băi
chiến. Có lẽ ta chỉ c̣n cái chết để dâng hiến cho đời thôi, cho cả
cái đám quần chúng vô ơn mà ta và cậu vẫn ghét cay ghét đắng. Những
ngày rảnh rỗi đi chơi với những bạn bè để rồi mỗi chiều trở về nh́n
nhau cười ngao ngán… Tôi nhắc lại về người đă vắng mặt, hay đă chết
đó. Có điều tôi không đồng ư với một lựa chọn nào đó, nhưng như tôi
đă nói với anh : tôi kính trọng thái độ đó, con người đó… Nỗi cay
đắng khốn khổ của chung chúng ta…
Anh T. Tôi đă được thư của anh, thành thật xin lỗi anh chị, xin hứa
sẽ ghé lại thăm, như anh đă biết công việc và những dời đổi không
ngừng khiến tôi đă không ghé lại dự sinh nhật của cháu bé, đứa con
nuôi của tôi, tôi cũng đă không có quà cho nó, nhưng tôi nhớ nó…
Điều anh hỏi khiến tôi chẳng biết nói sao, có điều những ǵ xưa kia
tôi đă nói với anh nay tôi vẫn tiếp tục, tôi không thể từ bỏ được.
Buồn là nhiều lúc nh́n lại thấy những cố gắng của ḿnh cũng trở
thành vô ích, nhưng không phải v́ sự vô ích hay hơn nữa v́ vô vọng
mà chúng ta không làm điều chúng ta nghĩ phải làm. Tôi chép lại đây
điều mà Arthur Koestler đă viết: nhà văn có bổn phận xă hội, một
công việc rơ ràng phải làm. Mỗi khi hắn viết một tác phẩm hắn như
một người thuyền trưởng thực hiện một hành tŕnh với những mệnh lệnh
được niêm phong cất trong túi áo, khi hắn mở phong b́ ra ở giữa biển
cả, hắn nhận thấy những mệnh lệnh đều được viết bằng một thứ mực
trông không thấy được. Không thể đọc được những mệnh lệnh đó, tuy
nhiên hắn vẫn luôn luôn ư thức một bổn phận phải hoàn tất – bởi v́
hắn đương chỉ huy một chiến thuyền chứ không phải một thuyền du lịch.
Những mênh lệnh trong túi áo hắn có thể không đọc được nhưng vẫn có
tính cách sai truyền cấp bách đem đến một ư thức trách nhiệm của hắn.
Trong sứ mạng nhà văn ở đó sự lớn lao và cũng ở đó chướng ngại…
Anh K. Có thể anh đă không bằng ḷng tôi, dù anh không nói ra, có
điều về phần tôi th́ tôi đă nói hết cùng anh: tôi dứt khoát với sự
chọn lựa của tôi, tôi cố gắng sống như tôi mong ước. Tôi không có
một ảo tưởng, một mặc cảm nào. Nào phải cho riêng ai. Tôi chịu ơn
những người đă chết đi, hiện đang cố gắng để cho tôi c̣n được sống,
và như thế tôi phải làm điều tôi nghĩ, tôi muốn được chia sẻ, tôi
mong anh sống trọn được như điều anh nghĩ, không lừa dối ḿnh và
người khác…
Ng… dù ở đâu anh cũng chỉ nh́n thấy một cuộc sống gian nguy phải
chấp nhận, chịu đựng, những cay đắng buồn phiền… chúng ta, nào đâu
phải riêng chúng ta, cả dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường này, đă buộc
chặt vào một định mệnh khắt khe… Trên quê hương ấy, trong cuộc sống
ấy chúng ta gắn bó với nhau t́nh cờ… Anh đă đi trên những con đường
chia cách, gian nan, hiểm nguy… những con đường đưa chúng ta đến
những gặp gỡ bàng hoàng… Anh vẫn tự hỏi, con đường vô h́nh nào đă
đưa anh đến bên em. Xưa kia mẹ anh dặn anh: con trai không được khóc,
và em th́ nói với anh một câu thơ: em sẽ không bao giờ để anh nh́n
thấy em khóc đâu… chúng ta cùng giấu nhau những ngậm ngùi cảm thông…
Có bao nhiêu điều anh không nói với em nhưng anh nghĩ em nghe thấy
những tiếng nói đó…
Anh M. Tôi đă nhận được thư báo tin mừng của anh, tôi không biết có
lời nào hơn là gửi lời chúc anh chị những ngày tới sống ở xứ người
như sống trên quê hương thân yêu những ngày thơ ấu. Không, tôi nghĩ
anh không phân trần một điều nào với bất cứ ai… Riêng phần tôi, tôi
không thể làm điều ǵ khác, tôi tự gắn đời sống ḿnh với quê hương
với những người thân yêu, ở đó những bất hạnh và những vui tươi đằm
thắm, những cay đắng ngọt ngào cùng với niềm kiêu hănh chất ngất…
Quê hương này là đất hứa, chúng tôi tự cắm thập tự trên đó cho chính
ḿnh… Sau này, tôi mong ước thế, thời gian địa ngục đă qua, anh sẽ
trở về, nhưng tôi hỏi anh chắc lúc đó anh sẽ thấy sao ḿnh không
được sống như mọi người, những khổ đau làm thành hạnh phúc cho kẻ
sống sót…
Sàig̣n ngày 25-5-1968. Tờ sự vụ lệnh trong túi đợi chuyến bay đi Đà
Nẵng và Huế… Lương đă mất một chân ở Đức Dục năm trước. B́nh về Thủ
Đức. Đính, Mẫn bị bắt ở Tân Lâm và Khe Gió. Quân đi Ban Mê Thuột.
Hạnh đă dời khỏi Quảng Trị… Bây giờ những ai c̣n ai mất. Tôi nói với
một người bạn: tôi chịu ơn quân đội, nói thế chỉ để nói: tôi chịu ơn
những bạn hữu suốt trong 5 năm trong quân ngũ đă giúp tôi có được
hoàn cảnh để di chuyển không ngừng. Tôi nhớ đời những người bạn và
những ân t́nh…
Dương Nghiễm Mậu
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Thiệp Giáng Sinh của QLVNCH trước năm 1975
Bài thánh ca buồn
Múa xuân trên
đỉnh Torkham
Những trận đánh cuối cùng của QLVNCH
Những chân dung muộn của Phan Thúy Hà
Người c̣n nhớ
hay đă quên
Chuyện t́nh buồn
T́nh nghĩa anh em một đời Mũ Đỏ
Thương nhớ quá! Việt Nam Cộng Ḥa
Chiến Đoàn B/TQLCVN hành quân An Lăo 1967
|“Văn hóa không tên” tạo nên linh hồn của Sài G̣n
Đại Hội quân nhân người Mỹ gốc Việt Năm 2024
Trung Cộng răn đe CSVN phải thần phục tuyệt
đối
Lính nhà giàu, lính nhà nghèo
Yêu lính
Israel không kích Iran
Xin được
chối từ
Khép lại núi rừng
Đồi 383 và hỏa
tập TOT cuối cùng của PB/ND
Bạn xưa 50
năm cũ
Những vùng đất và ngày tháng rời...
Bắc Vàm Cống
Anh
hùng KQ Nguyễn Tài Cơ
Người
con gái Duy Xuyên
Bóng ma
biên giới
Ông Bảy Lắc
Gương chiến đấu dũng cảm của QLVNCH
Đồi 383 &̀ hỏa tập TOT cuối cùng của Pháo Binh Dù
Đêm
trên bờ Thạch Hản
Cây
cầu biên giới
Chị tôi
Thân phận người cầm bút
Đứa con dị chủng
Vùng kinh tế mới
Chiến tranh t́nh báo và điện tử : Hezbollah và Israel
Thằng cu của mẹ
Tiến
tŕnh bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ
Tết với người
lính thời xưa cũ
Người xhuyên chở văn học miền Nam qua vũng lầy...
Chuyện văn: Nhớ, Quên &
iPhone
Tháng Giêng cỏ non
Tết cuối bên quê nhà
Say đi em
Gà quư phái _ Poulet de Bresse
Quán cháo lú
Mùa Thu mây ngàn
6 sai lầm khi uống sữa
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng người lính
HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn tuẫn tiết vào giờ thứ 25.
Anh Triệu Huỳnh Vơ
Bốn tháng trên đảo Hoàng Sa
Nửa thế kỷ nh́n lại đời ‘Boat People’
Cựu TT Trump thăm cộng đồng Việt Nam ở Virginia
Người cựu chiến binh già
Mưa Sài G̣n có
buồn không em?
Tại
sao thích ăn phở?
Hy sinh
thầm lặng
Giải phóng
Sài G̣n hay vào ăn cướp Miền Nam?
Anh
tôi
VC chưa được huy chương nào nhưng "Việt kiều" th́ đă
Sống ở Mỹ sướng hay ở Việt Nam sướng?
Phó Đề Đốc Hải Quân Tuấn Nguyễn
Người lính lái
xe ôm trên thành phố Sài G̣n
Người Phi Công
liều mạng
Nguyễn Ánh 9 - Cô đơn, lạc
loài...
Chuyện t́nh
lỡ
T́nh người tại Mặt Trận
Những người quyết chiến
Đường vào Nông Sơn
Phát Súng “Ân Huệ”
Nếu c̣n một kiếp sau!
Ve sầu
40 năm
sau đọc lại tác phẩm của ḿnh
TT Trump cộng bố PTT
TT Trump bị bắn
Thăm bảo tàng viện Quốc Gia cựu chiến binh VN
Áo trắng t́nh hồng
Thơ Nguyên Sa trước và sau
1975
Con người & cái chết của Tướng Lê Văn Hưng
Đơn xin
thăm nuôi cách đây đúng 40 năm (1984 - 2024)
TPB/VNCH “Hoạ Vô Đơn Chí” V́ VC!
Một
quăng đời đă qua
Họa sĩ Bé Kư trong
tôi
Gặp người TPB-VNCH ở khu phố Tàu Bangkok
Gerald Emil Kosh
- Hải chiến
Hoang Sa
Eyewitness and victim of Vietnamese communist
crimes during the 1968 Tet Offensive
Người
Hạ Sĩ Nhứt
Ba và tôi
Không quên ngượi chiến sĩ QLVNCH
Minh oan và vinh danh QLVNCH
Người Việt và July 4 Hoa Kỳ
QLVNCH, những chiến thắng bị lăng quên
T́nh trạng chiếm đóng Trường Sa
Trần Hoài Thư và Ngọc Yến ...
Nhà thơ
cầm súng, Trần Hoài Thư
Huynh Trưởng Nguyễn Mâu
Trên chuyến tàu cuối năm
Đức tính ân cần của người miền Nam trước đây
Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024
Chuyến ra khơi bi hùng
Chuyến bay định mệnh
Cái
chết cả một dân tộc
Vụ đánh ch́m tàu 645 của CSBV
Trực thăng rơi.. Tổng thống Iran chết !
Những điều cần làm khi đi nước ngoài
Chuyện một thời để
nhớ
Có công mài sắt có ngày nên kim
Người xưa đâu?
Tùy bút của
Dương Công Quan
Trả súng
đạn này
Quên sao được ngày 30 tháng 4 năm 1975
QLVNCH vẫn chiến đấu ở giờ thứ 25
Cá ăn kiến hay
kiến ăn cá
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối
giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42
năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong
cuộc chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất
Cảm
nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024
Tôi đă khóc
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử
địa
Sài G̣n tháng Tư -
1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của
một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh
Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc
Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027
Trong lửa đỏ...
Đại đội
C Viễn Thám của tôi
Múa hè đỏ
lửa 1972
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công
Thành phố
Sài G̣n
Chiến
sự đầu xuân 75
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện
t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao
tử
Cuộc chiến
không muốn thắng
Có những mùa Xuân…
Nhật kư An Lộc
Qua cơn mê
T́nh lính
Cổ
thành QT & Đại Lộ kinh hoàng
Cho người năm xuống trên quê hương
Chai rượu vĩnh biệt
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc
Đại lộ Kinh Hoàng
Trận đánh tại Thường Đức
Xuân ở nơi
nào?
Năm Th́n nói chuyện Rồng
CSVN lại mồi chài Kiều bào
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n"
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH
Người lính chết sau cùng
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước
1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc
Riêng một
góc trời-Ngô Thụy Miên
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
HĐ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng
nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi xTông
nhà
Hai ông bố nuôi