Những bài viết của Bất Khuất

Tập Truyện Thuyền Đời  
13 người cuối cùng về từ Tiền đồn 3&4 Kon-Tum
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

NHÀ THƠ CẦM SÚNG, TRẦN HOÀI THƯ
NHƯ KHÔNG

( Đăng lại bài viết để tưởng nhớ nhà thơ Trần Hoài Thư vừa qua đời ngày 27/5/24 trên đất Mỹ )

Tiểu sử vắn tắt:
Trước 75, giáo sư Toán tại Quảng Tín.
Sĩ quan Thám Kích QLVNCH thuộc Sư đoàn 22 BB
Sau 75 tù 3 năm. Vượt biên đến Mỹ
Học tiếp lấy bằng Cử Nhân IT và Cao Học Toán ứng Dụng
Tiếp tục các hoạt động văn học


Biết và đọc anh từ khá lâu, trước 75. Mấy mươi năm trôi qua khi đầu đă bạc lại được biết thêm về anh qua các bài viết của nhà thơ Lê Mai Lĩnh. Lê Mai Lĩnh sư huynh thuộc loại người thẳng như ruột ngựa, thích và phục ai là nói thẳng mà đă không thích th́ cũng…khó ḷng mà yên thân được với anh. Trong bài viết của ḿnh, Lê huynh không dấu diếm sự ngưỡng mộ với anh Trần Hoài Thư. (" Trần Hoài Thư, tên cowboy hai súng " - Bài viết của nhà thơ Lê Mai Lĩnh) Ngưỡng mộ là phải, 75 tuổi trên đất Mỹ, anh cặm cụi cùng với vợ đến một thư viện cách nhà 5 giờ lái xe để sao chép lại mỗi ngày một cách rất thủ công những đầu sách thực sự giá trị in tại miền nam VN trước 75. Đem về lại h́ hục in ấn rồi đóng thành sách để...tặng không cho những người yêu văn chương miền Nam và những người thực sự có nhu cầu.

" Đối với tôi, những tác giả trong thời chiến là thiệt tḥi nhất. Họ phải ra trận, vừa đánh giặc vừa viết, không có cơ hội để xuất bản. Sau năm 75 không ai đếm xỉa đến văn chương của họ. Tôi muốn lấy lại danh dự cho họ ". Anh bảo thế. Thư Quán Bản Thảo và cơ sở in ấn của anh, Thư Ấn Quán đă ra đời như vậy. Có lần một sĩ quan Dù gửi thư cho anh nhờ t́m tác giả bài thơ Biên Cương Hành ( của Phạm Ngọc Lư ) để cảm ơn v́ trong khi anh sĩ quan này bị thương chờ trực thăng tới bốc, anh đă đọc bài thơ BCH trên báo Văn, rất trùng hợp với những suy nghĩ của anh. Vào năm 2010 lại có người hỏi thăm anh về nhà thơ Lê văn Trung v́ khi bị tù đày trong trại tù CS, anh đọc được những bài thơ của tác giả Lê Văn Trung và c̣n nhớ đến bây giờ. Trần Hoài Thư như đă trở thành một chiếc cầu nối cho những độc giả và những người làm văn nghệ nổi tiếng một thời mà sau 75 họ không c̣n tác phẩm nào được tái bản hoặc xuất bản v́ nhiều lư do, trong đó lớn nhất vẫn là lư do chính trị.

Trần Hoài Thư muốn dành thời gian c̣n lại của anh để bù đắp cho những tác giả miền Nam trong thời chiến nhưng có lẽ anh c̣n quên một điều, với chúng tôi - dĩ nhiên có cả anh trong đó - những người lính đi đánh trận th́ "tiền lính tính liền" Lấy đâu ra tiền để dành dụm mà xuất bản ? Biết ngày mai đi hành quân là "xả láng" mọi thứ, làm sao biết được ḿnh c̣n sống không để mà trở về ?

…Trần Hoài Thư cũng là một người lính tác chiến. Hơn thế nữa, anh thuộc Đại Đội Thám Kích của Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Một Sư Đoàn chỉ có một đại đội Thám Kích, nhiệm vụ của họ là nhảy trực thăng - c̣n gọi là nhảy Diều Hâu - hay bằng các phương tiện khác vào vùng địch, t́m cách tiếp cận để nắm được quân số,vị trí và các trang bị chiến đấu của họ để báo về Bộ Tư lệnh của sư đoàn. V́ thế từ quan cho đến lính đều là những người ưu tú và cực kỳ gan dạ v́ khi đă vào đất địch bằng các đơn vị nhỏ như vậy th́ chết dễ như bỡn v́ thiếu sự yểm trợ từ chính đơn vị của ḿnh. Dân Thám Kích “ chê “ mấy thằng du kích vớ vẩn. Bọn này chỉ ŕnh ŕnh núp đâu đó, cắc cù một hai phát là ôm súng co gị chạy biến. Thám Kích " làm ăn " lớn hơn nhiều. Phải là cỡ chính quy cấp sư đoàn,” đồ chơi “ toàn thứ dữ như cỡ thượng liên 12.8, vuốt nhẹ c̣ súng một chút như vuốt má con gái là đạn bay hàng tràng, loại súng mà trúng đạn vào tay chân th́ tay chân " rụng " ngay lập tức, trúng vào cổ th́ bay đầu, trúng vào thân th́ cơ thể sẽ bị nâng bổng lên rồi mới đổ vật ra đất, viên đạn để lại trên cơ thể một cái lổ tṛn bằng nắm tay, lục phủ ngũ tạng bay đi đâu mất. Như cối 82 ly, cối 120 oạch đùng vang dội, miểng bay rào rào rát mặt cháy tóc, như DKZ bắn thẳng nổ dữ dội những ngày ra trận. Những ngày chiến trận đó Trần Hoài Thư đă hai lần bị thương, có một lần đạn “ chê “ anh, viên đạn xoi một lỗ bên một ống tay áo, đục thêm một lỗ khác trên ngực áo, cày một đường văng mất một đầu vú rồi lại chui ra ở ống tay áo bên kia. Dân tác chiến là như vậy, có lúc đạn bắn tơi bời hoa lá, kêu chút chít như chuột kêu chung quanh mà chẳng hề hấn ǵ. Có lúc một trái pháo trời ơi đất hỡi bắn hú họa mà lại trúng miễng chết lăng nhách. Những ngày đó tỉnh B́nh Định thuộc Liên Khu 5 của Bắc Quân là căn cứ địa của sư đoàn Sao Vàng Bắc Việt khét tiếng, có thung lũng An Lăo bốn bề núi dựng nằm ở phía Bắc. Nhiều khi ranh giới mong manh giữa hai bên chỉ là 1 ḍng sông nhỏ, chiều ngang chưa bằng nửa tầm đạn bắn. .

Ḍng sông phân tranh hai vùng thù nghịch
Đêm xuống đồi gặp con nước nổi
Súng đưa khỏi đầu
Từng con * một vượt sông
…………………………………
Rồi trước khi trèo ngọn Kỳ Sơn
Anh lạc trên cánh đồng mênh mông
Không biết nơi nào là cơi dữ
( Đêm vượt sông )
Chú thích : * "Con", tiếng lóng nhà binh chỉ người lính

Ngay từ khi nhảy ra khỏi trực thăng có nơi nào không là cơi dữ ? Dân Thám Kích trang bị nhẹ, chỉ mang dao găm, súng M16 với cấp số đạn gấp hai lần, loại súng khi bị "dính" đạn vào người th́ đầu vào chỉ bằng mút đũa mà đầu ra phá một lỗ toang hoác. Và rất nhiều lựu đạn, cả M26 hoặc M67. Họ không xài M72 chống tăng v́ họ gần như chỉ cận chiến nếu gặp địch.

" Nước nguồn đổ xuống ngày binh lửa
Những xác nào đă thúi hôm qua
Ai bạn ai thù sao quá thảm
Trên một ḍng cuồn cuộn oan gia
Con sông chia cắt đôi bờ hận
Cột khói c̣n lưu luyến chiến trường
Có ai chạy loạn bơi xuồng kể
Một thước đi, xác ngập thước đường "
(Trung đội)

Bài thơ gợi nhớ lại chiến trận núi Chu Pao ở rừng núi cao nguyên thuộc Vùng 2 Chiến Thuật với hai câu thơ nổi tiếng:

"Chu Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi tấc khăn tang một tấc đường"

Chiến trận núi Chu Pao ngày đó là đồi núi, đôi khi 2 bên chỉ cách nhau một tầm ném lựu đạn. Bên này ném th́ bên kia chụp trái lựu đạn ném trả, chết... tính sau v́ cứ nằm yên th́ c̣n dễ chết hơn.

... Khi Thư nhảy vào vùng địch, những thây người chết trong chiến trận của cả hai bên bị bỏ lại đă śnh thúi trong thung lũng An Lăo bốn bề gió hú. Họ nằm đó, lặng lẽ nh́n trời hay úp mặt xuống đất, xác thân tan nát v́ bom đạn, v́ hỏa lực T.O.T ( times on target ) đang lặng lẽ phân hủy. Mùi xác chết xộc vào mũi Thư và các người lính của anh theo tiếng gió réo đang thổi lồng lộng lật tung chiếc mũ vải đi rừng đang đội :

“ Địch cho Trung Đội qua eo chết
Hai bên sườn đại liên đan nhau
Nổ. Nổ ḍn
Đất đá kêu đau
Sủi bọt
Khói bốc lên
Bốn bề dội vào vách xám
………………………….
Một hai ba…Lộn. Nằm co quắp
C̣n lại vẫn ào lên ào lên
Đừng ḅ ! Đừng ḅ !
Trung đội phó hét cuồng điên
Cỏ tranh bắt mồi cháy mạnh
Gió tạt khói mù
Bốn bề khói rợp
Khói cay cay cặp mắt nổ tṛng
Khắp bốn bề gào thét xung phong
…………………………………
Cao điểm chiếm rồi
Vui mừng quá độ
Mà sao người lính Truyền Tin rơi lệ
Báo cáo trong tiếng mất tiếng c̣n
Về những thằng bị kiến cắn * ngủ yên
( Eo chết )
-Chú thích : * Bị "kiến cắn" : Tử trận

Bài thơ hào hùng đúng mùi chiến trận. Người viết bài này cũng từng ở trong những t́nh huống tương tự: Không được ḅ. Dỏng lưng lên lăn xả vào họng súng bên kia th́ c̣n có cơ may sống sót. Xạ thủ đại liên M.60 cũng xách cây súng nặng chịch vừa chạy vừa tưới đạn về phía trước. Trong kinh hoàng khói lửa, những tiếng nổ của lựu đạn và những loại súng khác nhau từ cả hai phía làm hai tai điếc đặc, khói súng mù mịt trên chiến trường và tiếng thét xung phong dồn dập làm cho người lính trận như say, chỉ có một hướng lao về phía trước không c̣n nghĩ ǵ tới chết sống. Nhưng khi chiến trận tàn rồi, tiếng nổ đă im, rừng bỗng trở nên yên ắng kỳ lạ và lúc đó mới biết ai c̣n ai mất. Và rớt nước mắt thương đồng đội của ḿnh, mới sáng nay c̣n chia đôi điếu thuốc giờ đă vĩnh viễn nằm xuống không kịp trối trăn một lời. Và cũng là khi thấy thấy máu của ḿnh chảy ra từ đâu đó mới biết ḿnh cũng bị thương:

"Chỉ giữ lại trên thân ta, này vết sẹo
Để khi buồn, sờ lại nhớ thời xưa
Dấu vết hôm qua khói lửa mịt mù
Và kinh hăi
Trời ơi
Ta vẫn c̣n sống sót"
( Tạ Từ )

Chỉ có những người trực tiếp cầm súng bắn nhau mới biết anh nói đúng. Nghĩ lại mà rợn người, chẳng biết làm sao mà ḿnh c̣n sống được. Đạn tránh người chứ người làm sao tránh được đạn? Vậy mà khi bị thương ra khỏi Quân Y Viện, vết thương vừa lên da non lại nhớ đồng đội, nhớ chiến trường. Nhớ mùi cỏ cây hăng hắc nồng nàn mỗi sáng đi mở đường trong rừng già, nhớ mùi những thân cây bị bom cháy đen vươn những cánh tay khẳng khiu trên trời những chiều đóng quân, nhớ những cánh rừng im lặng rợn người không một tiếng chim kêu v́ muông thú đă bỏ đi hết do bom đạn. Và chân lại muốn đi, đi về phía có ánh lửa chớp sáng trên đầu họng súng, nơi có những đồng đội chia nhau từng ca nước uống sặc sụa mùi bùn đỏ múc lên từ những vết xích xe tăng mà cơn mưa đêm qua c̣n để lại. Suối có khi rất gần nhưng không thể xuống được. Lọ mọ kéo nhau xuống lấy nước lũ "mất dạy" (chữ dùng của nhà văn Phan Nhật Nam) phục sẵn trong rừng bắn cho nát gáo. Nhớ những đêm nằm rừng, quần áo thấm nước mưa và mồ hôi vào ban ngày đă khô quắt lại, nằm trên vơng treo bên dưới chiếc Poncho, cây súng dựng sẵn một bên. Nhớ những cánh rừng cỏ tranh cao lút đầu người, những ngày lội trong rừng cỏ tranh sắc như dao cứa đứt thịt da. Nhớ những con suối mùa khô xâm xấp nước, lá cây rừng rụng xuống hàng hàng lớp lớp, khi mang giày trận lội qua là chắc chắn những kẽ ngón chân sẽ lở loét, nhớ cả những vết muỗi rừng chích xuyên qua lớp poncho và bộ đồ trận đă dày cui v́ mồ hôi và nhựa cây rừng. Và cứ thế, như có một sức hút kỳ lạ không giải thích được, người lính chiến miền Nam lại tiếp tục bước chân về phía chiến trường nơi rừng già, nơi tăm tối đến nổi không có lấy một chút ánh sáng hỏa châu màu đỏ quạch để soi sáng cho họ những cái chết đang ŕnh rập trong bóng đêm mù mịt.

" Những lần chuyển quân dù chẳng biết về đâu
Nhưng chúng tôi đều biết những ǵ đang chờ đợi sẵn
Như thể những viên đạn đồng trong ḷng cơ bẩm
Xẹt ra khỏi ṇng rồi kiến cắn tê mê
……………………………………..
Hăy mừng dùm anh dù bầm dập tả tơi
Anh vẫn được tăng phái xuống đồi
Tiếp tục những lần chuyển quân
Về những nơi ḿnh không biết"
( Người lính trở về với chiến trường )

Mà ngọn đồi nơi người lính Thám Kích Trần Hoài Thư “ được “ tăng phái th́ có yên b́nh một chút nào đâu ! Vẫn là nơi chết chóc vang động tiếng pháo của Bắc quân đe dọa sự yên b́nh trên mảnh đất miền Nam nơi anh sinh ra, nơi có Mẹ Cha, có bầy em đang tung tăng đến trường mỗi sáng, nơi có những gia đ́nh đoàn tụ mỗi ngày bên mâm cơm tối đạm bạc dưới ánh đèn.Và anh lại khoác áo trận để trở lại chiến trường cùng với đồng đội của ḿnh dù biết rơ cái chết vẫn đang chờ anh qua cái họng đen ng̣m của chiếc ṇng súng, của chiếc lưỡi lê 3 khía nhọn hoắt trên ṇng cây AK 47 sản xuất tại Liên Sô hay của Trung Cộng đang nhắm vào yết hầu của dân miền Nam.

"Tôi qua đồi xám mây mờ núi
Thương về đâu một lũ sáo rừng
Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn pháo đào sâu băi chiến trường
………………………………………
Có ai như thể người lính Thượng
Ngồi khom trên bờ đá thổi khèn
Hôm qua có những hồn ma lẻ
Lạc t́m về buôn bản cao nguyên
Có ai dưới lớp mồ hoang dă
Nằm xuôi chân mắt mở trợn trừng
Chiều nay sao mọc về phương Bắc
Sao ruột ḷng vắt đỏ phương Nam
Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc
Pḥng tuyến buồn hiu nhuốm nắng chiều
Trận đánh cũng đi vào quên lăng
Sao c̣n rờn rợn những hồn xiêu"
( Đồi xưa )

Ra vậy! Người lính Thám Kích Trần Hoài Thư, với tâm hồn của một người làm thơ đă nh́n thấy những con sáo bay về rừng trong chiều chuyển quân. Tâm hồn nhạy cảm dễ rung động trước cái đẹp của anh ghi nhận được những điều nhỏ nhoi tinh tế nhất và cả những h́nh ảnh dữ dội của cái chết khi nh́n thấy những người lính từ phương Bắc xa xôi nằm chết banh ruột trên đất miền Nam. Trên đất cao nguyên ngày đó có người lính làm thơ Trần Hoài Thư với những thị xă nhỏ bé "đi dăm bước đă về chốn cũ" như lời thơ trong một bài thơ của Vũ Hữu Định. Vùng đất đỏ quạch bụi bay mù trời dưới những ṿng bánh xe GMC những chiều chuyển quân và ngập ngụa bùn đỏ vào những ngày mưa mù mịt của cao nguyên làm anh da diết nhớ nhà :

"Anh ở trên rừng với Kinh với Thượng
Với những đại ngàn mặt trời mất tích
Những người chung quanh màu da đen nám
Nên cuộc đời anh cũng phải nám đen
Anh ở trên rừng mưa ngày mưa đêm
Không cần cùm chân mà chân khó bước
Bước một bước lên bùn già chân trước
Bước hai bước lên bùn non chân sau
……………………………………..
Anh ở trên rừng thương em nhớ con
Không biết làm sao để về dưới nớ
Ăn trái ớt rừng cay nhung cay nhớ
Cay cả cuộc đời lính thú cao nguyên"
(Anh ở trên rừng)
" Ăn trái ớt rừng cay nhung cay nhớ " Ôi cha! Câu thơ tuyệt vời !
Một ngày anh có khách đến thăm giữa núi rừng hiu quạnh, nơi chỉ có hầm hố súng đạn và những người lính trận dạn dày sương gió:
"Em lên thăm anh mang mùi thiếu nữ
Nhà anh đây những hố hầm pḥng ngự
Không có ǵ ngoài ít bài thơ
Không có ǵ ngoài những hoa mười giờ
Đỏ thắm cả một triền đồi heo hút
Em lên thăm anh áo màu hoa cúc
Mà hầm anh lâu quá không sửa sang
Em xem ḱa, lựu đạn với dao găm
Không có cả một tấm h́nh để thêm tươi mát
Không có bức tranh dù là tĩnh vật
Để ấm cuộc đời trong tuổi thanh niên"
( Em lên thăm anh )

Và cứ vậy, hết cao nguyên lại xuống đồng bằng. Trên bốn vùng chiến thuật, những người lính trận miền Nam VN trải qua tuổi thanh xuân của ḿnh trong lửa đạn. Họ tiếp tục có mặt nơi những tuyến đầu, nơi có những tṛ chơi chết người của súng đạn đang chờ đợi họ, không ngại ngần, không dè dặt để giữ vững sự b́nh yên cho đất nước.

"Diều hâu đă về như một lũ âm binh
Kẻ trước kẻ sau lao vào địa ngục
Đêm không thấy đường giữ dây khỏi lạc
Chúng tôi băng đồng nước ngập
Giải cứu quê em"
( Đêm tiếp cứu chợ Huyện )

Nhưng khi anh và các đồng đội, những “ diều hâu “ lao tới nơi địch về th́ có khi đă không c̣n kịp nữa: Ngôi trường nghèo nàn tả tơi ở một vùng quê xa xôi trong cơn binh lửa đă cướp mất mạng sống của cô giáo trẻ, để lại một bầy học tṛ cũng nghèo nàn không kém đang sợ hăi nháo nhác bên xác cô giáo như bầy gà con mất mẹ :\

"Lũ bé quỳ bên xác cô trẻ
Đặt chùm hoa mếu máo gọi cô về
Cô không về, cô bỏ dạy, cô đi
Cô bỏ chúng con cô về xứ khác
Ta cắn bầm môi…em ơi, ta khóc
Em không về em cũng bỏ thanh xuân
…………………………………
Em bé quê ơi cho ta nhành bông
Một nhành bông quỳ vàng như màu áo
Ta đặt lên em. Trống trường ảo năo
Như những hồi mặc niệm em tôi.
………………………………….
Ta đă về, và đă trễ, em ơi…"

Tôi tin chắc là anh khóc. V́ chính tôi, khi đọc những câu thơ này cũng đang cay cay trong ḷng muốn rơi nước mắt. Sự b́nh yên cho quê hương, cho những ngôi trường nghèo nàn ở những nơi xa xôi đă làm đổ biết bao nhiêu máu. Nhưng những người lính miền Nam đă bị phản bội. Máu xương của các người lính miền Nam, của đồng bào miền Nam đă bị phản bội vào cái ngày mà Richard Nixon, Tổng thống Mỹ bắt tay với Mao Trạch Đông, tươi cười cụng ly rượu mời nhau ở Bắc Kinh vào năm 1972. Trên bàn cờ chính trị quốc tế, do ảnh hưởng của "thầy dùi" Henry Kissinger là Ngoại trưởng Mỹ gốc Do Thái thời đó - một con ma đi đêm theo kiểu Đại Sứ Henry Cabot Lodge thời Đệ Nhất Cộng Ḥa - và những áp lực khác nhau từ nhiều hướng, người Mỹ bỏ bán đảo Đông Dương để hướng về Trung Đông, nơi mà đồng minh Israel thân cận của họ cũng đang lao đao trong ṿng vây thù địch của những quốc gia Ả Rập thuộc khối Hồi Giáo. Rồi Hoàng Sa bị Tàu Cộng chiếm. Người lính trận miền Nam vẫn tiếp tục dũng cảm chiến đấu trong vô vọng.

Năm 1973 hiệp định Paris được kư kết. Quân đội Mỹ b́nh an rút về nước. Cũng từ đó, các viện trợ quân sự cho miền Nam chỉ c̣n nhỏ giọt. Máy bay, xe tăng nằm ụ v́ thiếu nhiên liệu hoặc phụ tùng thay thế. Pháo yểm trợ cho các trận đánh chỉ bắn cầm chừng v́ không c̣n đạn dự trữ trong khi Bắc quân rải pháo như mưa xuống các vùng hành quân bị cô lập v́ không c̣n ǵ để tiếp tế cho họ, cho những người lính cắn răng chiến đấu trong sự thiếu thốn đến tận cùng. Khí tài,súng đạn vào những ngày tháng 4/75 chỉ c̣n đủ dùng trong một tháng, trong khi các nước đồng minh thuộc khối Cộng Sản tiếp tục tăng viện với số lượng không giới hạn các phương tiện chiến tranh cho Bắc quân. Vào những ngày cuối tháng 4/ 75, do thông tin liên lạc hoàn toàn bị cắt đứt từ trước đó nên đă có một đơn vị thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù không hề biết tin tức ǵ về chiến sự. Họ đang hành quân trong rừng già nhưng hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Chỉ Huy của ḿnh. Khi ḷ ṃ ra khỏi rừng về đến Tân Uyên thượng nguồn sông Đồng Nai họ đă bị bắt sống và cả 18 người lính đều bị xử tử, xác bỏ trôi sông. Và cuối cùng, điều không thể nào tránh khỏi đă xảy ra : Dương Văn Minh kêu gọi quân đội buông súng đầu hàng vào cuối tháng 4/75.
 

.. Lịch sử sẽ ghi lại những vị tướng VNCH, những quân nhân các cấp thuộc mọi binh chủng đă tự sát vào ngày miền Nam bị bức tử. Lịch sử đă chọn các anh để giao cho phần đen tối nhất, thê thảm nhất. Những người lính phải buông súng khi không hề thất trận và các anh đă không thể có được sự lựa chọn nào khác cho ḿnh. Thế hệ của các anh, rủi thay, rơi đúng vào thời điểm thê lương nhất trong lịch sử VN.

"Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra ṭa chung thẩm
Treo án tử h́nh ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai,tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm không biết về đâu
……………………………………..
Thế hệ chúng tôi già như quả đất
Râu tóc mỗi ngày mọc những hoang mang
( Thế hệ chiến tranh )

Người lính làm thơ Trần Hoài Thư, vào thời gian này là một phóng viên chiến trường nên chỉ bị tù ba năm nhưng những sĩ quan khác th́ triền miên đói khổ trong tù chẳng biết ngày về. Lại một giai đoạn bi hùng khác của quân đội VNCH, rất nhiều người đă bị giết, gián tiếp hay trực tiếp khi trong tay không c̣n tấc sắt. Nhà cửa họ bị tịch thu. Vợ con họ sống lây lất trong các khu Kinh Tế Mới heo hút trong những vùng xa xôi rừng thiêng nước độc, đầy dẫy bom ḿn c̣n sót lại. Chiến tranh đă đi qua nhưng những kư ức đau đớn vẫn c̣n nguyên vẹn trong ḷng Trần Hoài Thư :

“ Da ông bạn màu đen
Tóc ông bạn màu trắng
Da của tôi màu vàng
Tóc của tôi màu trắng
Màu trắng của Daksuk
Màu trắng của Mang Giang *
Màu trắng của mù sương
Màu trắng của mây bạc
Thời chúng ta đánh giặc
Nhuộm măi đến bây giờ
( Trắng )
* Chú thích: Các địa danh của Cao nguyên Trung phần

Những ngày sống trên đất Mỹ nh́n đất trời cô tịch – như rất nhiều những nhà thơ VN khác – ḷng anh bùi ngùi nhớ quê hương.

"Ở đâu cũng vẫn đất trời
Cũng rừng cô tịch cũng đồi tà dương
Cũng ngày nắng cũng đêm sương
Cũng qua cũng lại phố phường người dưng
Cũng trên trời một vầng trăng
Cũng sông vẫn chảy hai ḍng ngược xuôi
Nhưng sao ḷng lại không nguôi
Nghe như b́m bịp gọi chiều nước lên"
( Xa xứ )

A ! lại con chim b́m bịp! Loài chim có nhiều nơi sông nước miền Tây có tiếng kêu rất buồn, rất đơn điệu kêu theo những con nước ṛng lên xuống.Tiếng kêu mênh mang trên những ḍng sông trôi lặng lẽ ra biển, chẳng ai nh́n thấy con chim đâu nhưng tiếng kêu cứ vang vang trên ḍng nước chảy, thấp xuống dần rồi tắt hẳn trong những băi bờ xanh ngắt ven sông. Anh làm sao mà nguôi ngoai được những ngày binh lửa c̣n váng vất trong trí nhớ. Ḷng anh giờ cũng buồn thảm như tiếng b́m bịp kêu một ḿnh trên những ḍng sông đỏ màu phù sa của một quê hương bây giờ xa thẳm ngàn trùng.

Bảy mươi lăm tuổi. Đời người không c̣n mấy nổi. Anh vẫn cặm cụi và tỉ mỉ làm cái công việc của riêng ḿnh hàng ngày, vẫn chăm chút những tác phẩm văn học của miền Nam nhưng sẵn sàng tặng không cho những người c̣n quan tâm đến văn chương miền Nam một thời ch́m trong lửa đạn.
Riêng với tôi, anh vẫn cứ là người lính Thám Kích của gần 50 năm trước. Anh vẫn là người đi đầu, chấp nhận gian khổ và hy sinh như ngày xưa nhưng trên một mặt trận hoàn toàn khác: Mặt trận Văn Học.
Văn Học miền Nam.

Viết để quư tặng anh Trần Hoài Thư
Nhukhong
2018

Bài viết của anh Trần Hoài Thư gửi tác giả Như Không:

... Bạn viết hay quá. Hay v́ bạn cũng là dân đánh đấm. Bạn tả cái cảnh này, đọc mà muốn khóc:

" Nhớ mùi cỏ cây hăng hắc nồng nàn mỗi sáng đi mở đường trong rừng già, nhớ mùi những thân cây bị bom cháy đen vươn những cánh tay khẳng khiu trên trời những chiều đóng quân,nhớ những cánh rừng im lặng rợn người không một tiếng chim kêu v́ muông thú đă bỏ đi hết do bom đạn Và chân lại muốn đi, đi về phía có ánh lửa chớp sáng trên đầu họng súng, nơi có những đồng đội chia nhau từng ca nước uống sặc sụa mùi bùn đỏ múc lên từ những vết xích xe tăng mà cơn mưa đêm qua c̣n để lại. Suối có khi rất gần nhưng không thể xuống được. Lọ mọ kéo nhau xuống lấy nước lũ “"mất dạy" phục sẵn trong rừng bắn cho nát gáo. Nhớ những đêm nằm rừng, quần áo thấm nước mưa và mồ hôi vào ban ngày đă khô quắt lại, nằm trên vơng treo bên dưới chiếc Poncho, cây súng dựng sẵn một bên. Nhớ những cánh rừng cỏ tranh cao lút đầu người, những ngày lội trong rừng cỏ tranh sắc như dao cứa đứt thịt da. Nhớ những con suối mùa khô xâm xấp nước, lá cây rừng rụng xuống hàng hàng lớp lớp, khi mang giày trận lội qua là chắc chắn những kẽ ngón chân sẽ lở loét, nhớ cả những vết muỗi rừng chích xuyên qua lớp poncho và bộ đồ trận đă dày cui v́ mồ hôi và nhựa cây rừng. Và cứ thế, như có một sức hút kỳ lạ không giải thích được, người lính chiến miền Nam lại tiếp tục bước chân về phía chiến trường nơi rừng già, nơi tăm tối đến nổi không có lấy một chút ánh sáng hỏa châu màu đỏ quạch để soi sáng cho họ những cái chết đang ŕnh rập trong bóng đêm mù mịt. "

Tôi không có facebook để phổ biến. C̣n Thư Quán Bản Thảo th́ đăng không tiện ( báo của ḿnh, đăng bài ca ngợi ḿnh, người ta sẽ đàm tiếu ). Bạn cho phép tôi đi trên Blog của tôi?
Tôi mong bài này sẽ được phổ biến rộng răi để nói lên tiếng nói của dân đánh giặc bọn ḿnh!

Chúc lành
THT

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Eyewitness and victim of Vietnamese communist   
crimes during the 1968 Tet Offensive
 
Người Hạ Sĩ Nhứt  
Ba và tôi  
Không quên ngượi chiến sĩ QLVNCH  
Minh oan và vinh danh QLVNCH
Người Việt và July 4 Hoa Kỳ  
QLVNCH, những chiến thắng bị lăng quên  
T́nh trạng chiếm đóng Trường Sa 
Trần Hoài Thư và Ngọc Yến ...
Nhà thơ cầm súng, Trần Hoài Thư  
Huynh Trưởng Nguyễn Mâu 
Trên chuyến tàu cuối năm 
Đức tính ân cần của người miền Nam trước đây 
Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024 
Chuyến ra khơi bi hùng 
Chuyến bay định mệnh 
Cái chết cả một dân tộc 
Vụ đánh ch́m tàu 645 của CSBV  
Trực thăng rơi.. Tổng thống Iran chết !  
Những điều cần làm khi đi nước ngoài
Chuyện một thời để nhớ  
Có công mài sắt có ngày nên kim  
Người xưa đâu?  
Tùy bút của Dương Công Quan  
Trả súng đạn này  
Quên sao được ngày 30 tháng 4 năm 1975  
QLVNCH vẫn chiến đấu ở giờ thứ 25  
Cá ăn kiến hay kiến ăn cá
Tháng Tư buồn ... hiu!
Những tên nối giáo cho giặc
Nh́n lại ḿnh sau 42 năm tỵ nạn, từ tháng 4-1975
Đời Y Sĩ trong cuộc chiến ...
30 tháng 4 — Đi t́m thời gian đánh mất  
Cảm nghĩ về ngày Quốc Hận 30/4/2024  
Tôi đă khóc  
Mỹ tính kế tháo chạy…
Tháng Tư
Giầy Saut trong tử địa
Sài G̣n tháng Tư - 1975
Mặt trận Khánh Dương
Nhớ về Trường Sơn
Những chuyện kể năm xưa: 1975
Ngày 30/4/1975
Sự c̣n mất của một người em
Chiếc Balo để lại
Tôi gọi họ là Anh Hùng!
Nhảy vào Triệu Phong
Câu chuyện chiếc Mũ Xanh
Lư Tống
Những người lính Dù bị lăng quên  
TQ chuẩn bị chiếm ĐL năm 2027 
Trong lửa đỏ...  
Đại đội C Viễn Thám của tôi  
Múa hè đỏ lửa 1972  
Mừng sinh nhật 102 tuổi của ông Trần V. Công  
Thành phố Sài G̣n  
Chiến sự đầu xuân 75  
Tướng Trần Quang Khôi - Một đời Kỵ Binh  
Chiến trường Kampong Trạch
Biểu t́nh chống phái đoàn CS Việt Nam
Phù du
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên & những bản t́nh ca
Chiuyện t́nh đẹp của nhà thơ Nguyên Sa
Dịch Norovirus - Cúm bao tử
Cuộc chiến không muốn thắng
Có những mùa Xuân…  
Nhật kư An Lộc 
Qua cơn mê  
T́nh lính  
Cổ thành QT & Đại Lộ kinh hoàng  
Cho người năm xuống trên quê hương  
Chai rượu vĩnh biệt  
Bốn mươi năm ngày nhập cuộc  
Đại lộ Kinh Hoàng  
Trận đánh tại Thường Đức  
Xuân ở nơi nào?  
Năm Th́n nói chuyện Rồng 
CSVN lại mồi chài Kiều bào 
Người Việt ở Mỹ đón Tết 2024  
Hội chợ Tết "Nhớ về Sài G̣n" 
Thiệp chúc tết xưa của QLVNCH  
Người lính chết sau cùng  
Sự kiện quan trọng trong tháng Giêng 2024
Hồi kư 1 con gái đất Bắc tại Sàig̣n trước 1975
Xuất xứ những bài nhạc Việt vang bóng...
Vài kỷ niệm với ca sĩ Duy Trác 
Chợ hoa Tết rực rỡ ở Little Saigon  
Can thiệp nước ngoài vào cộng đồng Úc 
Riêng một góc trời-Ngô Thụy Miên  
Hiệp định Paris tháng 1/1973
Nhiều đường vẫn chưa ngọt  
Một cái Tết khó quên
Ḍng sông cũ
TQ suưt bị KQ VNCH bắn ch́m sau Hải chiến HS
Tưởng nhớ các anh hùng tử sĩ hài chiến Hoàng Sa
50 năm hải chiến Hoàng Sa...
Elvis Presley - Ông hoàng nhạc Rock and Roll
Hà Nội muốn phát huy nguồn lực người Việt ở...  
Mô thức kinh tế Hoa Kỳ...
Chọn tuổi x
Tông nhà
Hai ông bố nuôi