Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Khôi An
Lời Giới Thiệu của Khôi An:
Đây là một câu chuyện có thật, đă được nhân vật chính cho phép ghi
lại và phổ biến. Hiện nay, nhân vật chính đang sống ở Mỹ, bên cạnh
các con cháu thành đạt và hết ḷng thương yêu Cô. Ngoài chuyện kể về
con đường phấn đấu đem các con sang Mỹ của một người mẹ, câu chuyện
c̣n ghi lại nhiều chi tiết trung thực trong bối cảnh xă hội miền Nam
Việt Nam ngay sau tháng Tư, 1975, cũng như tấm ḷng của người dân
miền Nam đối với nhau trong gian đoạn vô cùng đen tối đó.
***
Mắt tôi mờ đi, tờ giấy nḥe ra . Hàng chữ run lên, uốn éo như con
rắn độc. Nó phóng tới, mổ vào giữa tim tôi.
“Xử phạt: Trần Văn Bé – Tử h́nh.”
Giọng nói run rẩy của tôi vang lên như âm thanh từ một cơn ác mộng
“Má nhận tin này hồi nào?”
Mẹ chồng tôi c̣n mếu máo th́ cô em chồng nghẹn ngào đỡ lời
“Từ tháng Năm, nhưng Má chưa dám nói với chị…”
Mẹ chồng tôi chùi nước mắt, phân trần
“Má tính đi kiếm cho ra mộ chồng con rồi mới nói cho con biết. Bởi
vậy, hổm rày con đ̣i đi kiếm chồng, Má biểu để Má kiếm cho. Má sợ
con chịu không nổi khi đối mặt với tụi công an… Con ơi, bữa đưa tin
tụi nó làm dữ lắm! Công an phường, công an quận, công an thành phố
kéo lại cả bầy. Tụi nó đưa ra tờ giấy này ra, biểu Má kư nhận. Lúc
đầu Má không chịu kư, v́ Má nghĩ kư nghĩa là chấp nhận rằng thằng
Hai đáng bị xử tử. Tụi nó hăm dọa Má, nhắc tới thằng Ba c̣n đang bị
tù ngoài Bắc. Má sợ tụi nó đem thằng Ba ra bắn luôn nên phải cắn
răng kư tên lănh án tử h́nh của con ḿnh. Má đứt từng khúc ruột, con
ơi…” Mẹ chồng tôi nghẹn lời, bà khóc nức nở.
Thế là hết . Anh Bé đi tù tháng 6 năm 1975, sau đó tôi chỉ nhận được
ba lá thư của anh. Lá cuối cùng đề tháng 2, 1976, gởi từ trại Suối
Máu, Biên Ḥa. Sau đó, anh bặt tin. Tôi chờ đợi ṃn mỏi, lên xuống
trạm công an cả chục lần, hỏi ǵ họ cũng trả lời không biết. Cuối
cùng, tôi nhất quyết làm đơn khiếu nại. Lúc đó, tôi và sáu đứa con –
đứa lớn nhất mười một tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên hai – đang nương
náu trong một mảnh vườn hẻo lánh tại Mỹ Tho. V́ vậy, tôi dùng nhờ
địa chỉ nhà Mẹ chồng ở Sài G̣n. Cả chục lá đơn gởi tới trại tù Suối
Máu đều như biến vào khoảng không, chẳng c̣n một chút tăm hơi.
Trại tù không trả lời th́ tôi hỏi cấp trên; tôi mày ṃ kiếm địa chỉ
của hai “Ṭa Án Nhân Dân” ở Sài G̣n và Hà Nội rồi gởi đơn tới cả hai
nơi đó. Thời miền Nam vừa mất, cây củi cũng mắc, mua một con tem là
thâm vào tiền mua gạo cho các con, nhưng tôi vẫn cắn răng bớt miệng
con để gởi đi mấy chục lá đơn, từ tháng này qua tháng khác.
Cuối cùng, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng phải trả lời. Ngày 10 tháng
Năm, 1977, họ gởi thư về nhà Mẹ chồng tôi. Để xác nhận rằng: họ đă
giết chồng tôi. Cô em chồng đưa tay đỡ vai tôi cho tôi khỏi gục
xuống. Sáu đứa con sợ hăi chạy lại vây quanh, tôi chỉ nói được mấy
tiếng “Ba chết rồi!” rồi khóc ngất. Lũ trẻ thấy vậy cũng khóc ̣a
lên, thằng lớn nhất ôm lấy con em kế, bệu bạo nói “Vậy là Ba không
về nữa!”
Sau vài ngày ở nhà Mẹ chồng, tôi lại phải gượng đứng lên, dắt đám
con về căn cḥi trống huơ, trống hoác, nóc dột, tường xiêu ở Mỹ Tho.
Mẹ chồng tôi sợ tôi chết th́ bà sẽ không nuôi nổi bầy cháu, c̣n cha
mẹ ruột th́ lo tôi sẽ phát điên. Tuy vậy, Mẹ chồng tôi không đủ sức
cưu mang bảy mẹ con tôi và cha mẹ tôi cũng chỉ dám ghé thăm vài ngày
rồi đi về. Thời đó, mỗi tuần người dân đều phải đi họp tổ dân phố để
công an điểm danh, ai đi đâu cũng phải xin phép, v́ thế không người
nào dám đi lâu, sợ công an kiếm cớ làm khó dễ.
Ngày mẹ chồng tôi làm lễ phát tang anh Bé ở Sài G̣n, tôi chỉ đủ tiền
mua ba tấm vé xe cho thằng con trai lớn nhất, đứa con gái út, và
tôi. Họ hàng phần v́ không có tiền đi xa, phần v́ sợ liên lụy với
“tử tù” nên không ai dám tới. Ngoài ba mẹ con tôi, đám tang chỉ có
mẹ chồng và hai cô em ruột của anh. Sau ngày giao bản án tử h́nh,
công an khu vực ḍm ngó nhà chồng tôi như chồn cáo ŕnh chuồng gà;
v́ thế, ngay cả trên bàn thờ của anh chúng tôi cũng không dám chưng
bày nhiều.
Di ảnh của anh đứng sau dĩa trái cây lỏng chỏng, một bát nhang hiu
hắt và hai cây đèn cầy leo lét. Trước bàn thờ, bốn người đàn bà đầu
tóc rũ rượi quỳ bên hai đứa nhỏ xanh xao, ngơ ngác. Chỉ có tiếng nhà
sư đọc kinh nho nhỏ, c̣n chúng tôi phải kềm tiếng khóc trong lồng
ngực, nuốt ngược nỗi đau vào ḷng. Anh Bé sống ở khu xóm đó từ nhỏ,
ai cũng biết và thương mến anh, cho nên bà con lối xóm kéo đến rất
đông, nhưng không ai dám bước vô nhà. Họ giả làm kẻ ṭ ṃ đứng trước
cửa, nhưng suốt buổi lễ họ lén dùng tay áo quẹt nước mắt, và nh́n
chúng tôi bằng những cặp mắt đỏ hoe, ứa tràn thương xót.
Tôi quỳ ở đó, dật dờ nửa mê, nửa tỉnh. Những h́nh ảnh cuối của anh
trở về trong đầu tôi. Chiều 30 tháng 4, 1975, anh lái xe Jeep đến
nhà cha mẹ tôi ở thành phố Mỹ Tho, nơi tôi đem sáu đứa con thơ từ
khu cư xá sĩ quan ở B́nh Dương về nương nhờ trong cơn hỗn loạn. Tóc
anh rối bời, mặt anh bơ phờ, nhưng anh vẫn mặc quân phục trên người.
Anh ôm hôn từng đứa con, rồi nói với Ba tôi
“Ba cho con gởi vợ con của con.”
Ba tôi đă nghẹn ngào hứa
“Con đừng lo, vợ con của con ở đây với Ba Má, rau cháo có nhau. Con
đi đâu cũng vậy, khi con trở về đây, vợ con của con sẽ c̣n đầy đủ.”
Trước mặt Ba Má tôi, anh ngại ngùng không ôm tôi lần cuối. Anh chỉ
xiết tay tôi, dặn ḍ tôi giữ sức khỏe và cố lo cho các con. Tôi quá
bàng hoàng, lo sợ nên chỉ biết nghẹn ngào nhắc anh hết sức giữ ǵn
tánh mạng. Anh lưu luyến thêm một lát rồi quay đi.
Tôi đứng chết lặng ở bậc cửa. Anh leo lên xe, rồ máy. Xe chuyển
bánh. Chạy đi. Xa dần. Rồi mất hút. Tôi cảm thấy một phần thân thể
ḿnh vừa bị chặt ĺa ra…
Sau này tôi mới biết anh đă lái xe về nhà mẹ ruột ở Sài G̣n và trốn
ở đây cho tới ngày đi tŕnh diện “học tập cải tạo”.
Mới hai năm qua mà tôi đă mất anh, con tôi đă mất cha. Người ta giết
anh v́ tội “trốn trại cải tạo nhằm mục đích phản Cách Mạng.” Độc ác
hơn nữa là họ không thông báo ǵ cho thân nhân. Mạng sống của anh,
của những người tù, và nỗi đau của gia đ́nh họ, đối với người cầm
quyền không có ư nghĩa ǵ!
Măi hơn một năm sau từ ngày bắn anh, có lẽ v́ mấy chục tờ đơn t́m
chồng của tôi, họ mới gởi Tờ Trích Lục Án H́nh về nhà. Tờ giấy đánh
máy một cách cẩu thả vào tháng 5, 1977 đă đề sai ngày của phiên toà
xử tử anh là 10 tháng 4, 1977, trễ một năm. Tôi ngước nh́n anh trong
uất nghẹn. Anh cũng đang đau đáu nh́n tôi. Có phải mắt anh long lanh
v́ nỗi đau cắt ruột, hay chỉ là màn lệ chan hoà từ mắt tôi?
Sau khi về lại Mỹ Tho, tôi nằm bẹp trên vơng, không khóc nhưng nước
mắt nóng hổi tuôn ra như vắt hết sức sống của tôi. Ḷng tôi nặng
trĩu niềm đau, nỗi hận. Trong đầu tôi vang vang những lời oán trách
số phận, nguyền rủa bọn giết người. Chồng tôi cả đời thanh liêm, đi
lính Việt Nam Cộng Hoà tới lon Thiếu Tá mà vẫn không mua được cho vợ
con một căn nhà riêng, tại sao anh phải chết tức tưởi như vậy? Làm
vợ lính, tôi đă nhiều lần nghĩ đến việc chồng tử trận, nhưng thà anh
hy sinh trong cuộc chiến để các con c̣n được hănh diện, để tôi c̣n
được an ủi. Bây giờ chiến tranh chấm dứt rồi, chồng tôi đă phải mang
thân tù tội, tại sao người ta c̣n giết anh? Tại sao họ đẩy mẹ con
tôi thành “thân nhân của tử tội”, lớp người cô đơn, khốn cùng nhất
trong cái xă hội đầy móng vuốt này? Ngày tiếp ngày trôi qua trong
cơn đau, mí mắt tôi sưng vù, rát bỏng, tiếng các con réo gọi nghe xa
xôi như vọng lại từ một thế giới khác, tôi nghe nhưng không thể nào
trả lời nổi. Tôi nằm đó, dật dờ giữa hai bờ sống, chết.
Một buổi trưa, không biết là bao lâu sau, tiếng khóc thảm thiết của
hai đứa con nhỏ nhất kéo tôi ra khỏi cơn mê sảng. Tiếng than đói của
hai đứa bé xoáy vào tim tôi, nhắc rằng tôi c̣n bổn phận với sáu đứa
trẻ thơ. Tôi ngồi bật lên, quơ tay t́m con và ôm siết chúng vào
ḷng. Giữa ban ngày mà trước mắt tôi tối đen. Không! Con không thể
mù, con không thể chết! Xin Trời giúp con! Xin cứu con để con của
con được sống! Nhờ Trời thương và chắc anh vẫn theo phù hộ nên tôi
hết bệnh, dù không có thuốc men ǵ. Tôi lết ra vườn, ṃ mẫm trồng
rau, trồng khoai nuôi con.
Năm tháng rơi lặng lẽ như những sợi tóc của tôi rụng tơi bời trong
cơ cực. Tay chân tôi khẳng khiu, trầy trụa, bầm dập, nhưng những vết
thương đó không thấm thía ǵ với cái đau ở trong ḷng. Ở miệt vườn
hẻo lánh, sự ḱm kẹp của chính quyền địa phương khủng khiếp gấp mấy
lần ở những thành phố lớn; công an mà ḍm ngó, trù dập ai th́ người
đó không ngóc đầu lên nổi. Trong đám dân quê mùa, chất phác, gia
đ́nh có thân nhân là sĩ quan “Ngụy” đang ở tù đă là một điều ghê
gớm, nói ǵ tới chuyện là con cái của người tử tội.
Thời đó, nhà trường cứ vài tuần lại bắt học sinh khai lư lịch, v́
thế mỗi niên học các cháu đem về mấy chục tờ lư lịch nhờ tôi viết.
Lúc nào tôi cũng khai là “Cha mất tích”, và các con tôi được dạy đi
dạy lại rằng không bao giờ hé môi với ai về cái chết của cha.
Vậy mà cũng có lần chúng tôi xém bị lộ!
Tết Trung Thu năm 1977, trường học phát quà cho con của gia đ́nh
liệt sĩ. Thằng bé thứ Năm nhà tôi mới vô lớp Một, không biết nghe ai
giải thích “liệt sĩ” là những người đi lính đă chết, thế là nó tính
chạy lên lănh quà. May mà cô giáo của nó quen với tôi, cô thấy nó
nhớm đứng lên, vội đè vai bắt nó ngồi xuống. Hôm đó thằng nhỏ tủi
thân và thèm quà, khóc tức tưởi cả buổi chiều. Tôi xót cho các con
ngây thơ mà phải chịu quá nhiều thiệt tḥi, dồn nén, phải sống trong
hất hủi, phải thèm khát từ miếng ăn tới t́nh thương. Đêm đó, tôi
khóc trắng
1979.
Nước ngập cao. Hút mắt chỉ thấy làn nước đục ngàu, lềnh bềnh rác
rến. Những cây chuối chỉ c̣n lú lên chút ngọn run rẩy bên những cành
mận trụi lủi, khẳng khiu đang vật vă trong gió. Trời vẫn mưa! Mưa
như xối nước. Trên mấy bộ ván chồng lên nhau, tôi và sáu đứa nhỏ
nằm, ngồi lủ khủ bên đống chăn mền, quần áo, bếp ḷ, chén dĩa – tất
cả tài sản c̣n lại của bảy mẹ con. Cơn băo đă kéo dài gần một tháng,
nước sông Tiền dâng ngập hết ruộng vườn, cuốn băng đi công sức mẹ
con tôi vật lộn với mảnh đất này trong gần bốn năm trời kể từ tháng
Tư, 1975. Mưa càng lúc càng nặng hột. Gió xoáy mạnh, rít lên như oán
trách, như thay tôi than tiếc cho công sức của mẹ con tôi đang trôi
theo gịng nước.
Như lời đă hứa, sau tháng 4, 1975, Ba Má tôi hết ḷng bao bọc mẹ con
tôi. Nhưng vai gầy không thể chống được cả bầu trời đang đổ sụp, sức
lực của hai cụ già không thể nào đỡ nổi trận hồng thủy của cuộc đổi
đời. Nhà cầm quyền Cộng Sản bắt cha mẹ tôi phải nạp hết ruộng cho
Hợp Tác Xă rồi mỗi tháng chúng phát cho mấy kư gạo vừa đủ cho hai
người già sống cầm hơi. Bảy mẹ con tôi không có tên trong “hộ khẩu”
nên trở thành những người “ngoài pháp luật”, sống lây lất bên lề xă
hội. Mỗi ngày, Ba Má tôi thu mót hoa màu trong vườn, rồi đem bán để
mua gạo chợ đen về nuôi cháu. Sau mấy tháng tôi không thể chịu được
cảnh cha mẹ khổ sở, lo lắng, chạy ăn từng bữa v́ ḿnh nữa. Tôi đành
đem các con về ở tại năm công đất vườn do ông nội của chồng tôi chia
cho anh từ thời anh c̣n trẻ.
Ngày mẹ con tôi dắt díu nhau ra đi, tôi không dám quay đầu nh́n lại,
sợ ba má tôi thêm nát ḷng. Tôi cắm đầu bước, nước mắt ràn rụa. Tôi
gọi tên anh, xin anh giúp sức cho người vợ mỏng manh, yếu ớt, chưa
bao giờ biết cầm cái cuốc, cái cày… Khu vườn thiếu người chăm sóc
chỉ có thưa thớt vài cây mận, bà nội chồng thương nên cho thêm ba
công ruộng ven để tôi kiếm gạo nuôi con.
Tôi nắm một đầu chiếc gầu giai, đầu bên kia thằng Hai và con Ba –
đứa mười một tuổi, đứa tám tuổi mím môi giữ. Trời nắng như đổ lửa,
mặt tôi ướt đẫm mồ hôi; phía bên kia, dưới vành nón lá rách nát, hai
đứa con tôi mặt đỏ bừng như lên cơn sốt. Chúng tôi múc từng gàu nước
từ con rạch cạn, tạt vào những cây lúa đèo đẹt đứng gục đầu trên
mảnh ruộng nứt chân chim.
Mùa đầu tiên trời hạn, sau khi trả tiền mướn trâu, tiền công cấy,
tiền phân bón, tiền thuốc trừ sâu, tiền đóng thuế cho nhà nước,
chúng tôi không c̣n một hột lúa mà ăn, đành đi vay mượn chờ năm tới.
Mùa kế, tôi chỉ dám mượn tiền để trả công cày rồi cố gắng tự làm đủ
thứ việc, hy vọng cuối mùa thu được chút gạo sống qua ngày. Tôi học
cách nhổ cỏ, rải phân, cấy lúa. Ngày ngày tôi bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời. Có lần tôi khiêng b́nh thuốc trừ sâu to hơn một ṿng
ôm đi xịt quanh ruộng. B́nh thuốc lớn che khuất mặt, tôi không thể
thấy thuốc xịt đều hay không nhưng vẫn nghiến răng tha cái b́nh đi
xịt hết một ṿng. Làm xong, tôi run run leo lên bờ ruộng th́ b́nh
thuốc đẩy tôi té ngược ra sau. Tôi nằm ngửa như con nhái bén ôm b́nh
thuốc bự chảng, hên là đất ruộng không quá cứng nên tôi không bị
thương. Lần đó, đám con tôi phải xúm lại kéo cả b́nh và tôi lên bờ
ruộng.
Không hiểu v́ cày không sâu, cấy không đúng, phân không đủ, thuốc
không đều, nước không đẫm, hay v́ vận mạng của chúng tôi lúc đó đang
tối tăm nên đất ruộng cũng không chịu hợp tác với mẹ con tôi. Tôi
thất thu ba năm liên tiếp, nợ sau chồng lên nợ trước, cuối cùng tôi
phải thế ruộng để trừ nợ, mẹ con rút về kiếm ăn trên mấy công vườn
xơ xác. Khai mương, đào đất, trồng cây, tưới bón, tất cả chỉ có tôi
và hai đứa con lớn lăn lộn làm, c̣n mấy đứa nhỏ đành bỏ liều trong
lều.
Có một lần tôi hái mận đem ra chợ bán, đường xa nên măi tối mịt mới
về. Về tới nhà, thấy thiếu thằng Năm, tôi hoảng hồn chạy ra vườn,
nhảy xuống mương t́m. Con mương không sâu lắm, chỉ để lấy nước tưới
cây, nhưng cũng làm tôi lo lắng từ ngày mới về đây. Nước dưới mương
ngập tới gần bắp vế, tôi vừa gọi tên con vừa khom người ṃ. Đụng
thấy một vật tṛn cứng như đầu người, tôi hét lên rồi vật ra chết
giấc. Cũng may là lưng tôi dựa vô bờ mương nên tôi không ngộp nước
và có con bé Ba chạy theo, nó vừa khóc vừa kéo tôi lên. Và may hơn
nữa là cái vật tṛn tṛn đó chỉ là một cái gáo dừa ch́m dưới mương,
c̣n thằng Năm vẫn trùm mền nằm ngủ sau đống quần áo trong lều. Chắc
nó đói quá nên lả đi, không lên tiếng khi tôi gọi. Trăm ngàn khổ cực
vậy mới thu được vài mùa mận, mà bây giờ cơn lụt lại phá tan hoang
mảnh vườn, nguồn sống duy nhất của chúng tôi…
Cuối cùng nước lụt cũng rút để lại khu vườn đầy rác rến với những
luống khoai bị nước san bằng và những gốc cây trụi lá, găy cành. Chỉ
c̣n vài cây chuối non, tôi chặt về bào mỏng bóp với muối cho các con
ăn qua bữa. Đói th́ đầu gối phải ḅ, tôi lại bỏ liều các con ở nhà,
qua Bến Tre đi buôn. Xứ dừa Bến Tre bạt ngàn cây trái nên dân bên đó
khá giả, có ḷ nấu đường, làm xà bông. Tôi mua hàng đem về Mỹ Tho
bán để kiếm chút lời.
Thời 1979-1980, trạm thu thuế mọc lên ở khắp nơi, như bầy rệp đói
hút máu dân nghèo. Công an ŕnh ở khắp các ngả đường, khám xét càng
ngày càng gắt gao. Tiền lời chỉ đủ để đóng thuế nên người đi buôn
phải trốn, nếu thoát th́ kiếm được chút đỉnh, không may bị bắt là bị
tịch thu hết hàng, đứt vốn. Một ḿnh tôi kiếm không đủ tiền rau cháo
nên tôi phải dắt hai đứa con trai theo. Tôi cưỡi một chiếc xe đạp,
hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp khác, làm bộ như hai anh em chở
nhau đi học nhưng trong cặp chúng nhét đầy đường và xà bông.
Thằng Hai c̣n biết xoay xở chút ít, c̣n thằng Tư ngây thơ, tính t́nh
lại nhút nhát nên nó rất sợ. Mỗi khi qua trạm gác, mắt nó nh́n thẳng
phía trước, làm bộ b́nh tĩnh, nhưng ngón chân nó bấm xuống dép, cổ
nó căng lên như sợi dây đàn. Tôi ngó mà đau như bị đâm vào tim.
Chuyến phà Bến Tre – Mỹ Tho chiều hôm đó đông nghẹt. Mặt trời đă xế
nhưng vẫn tỏa sức nóng hừng hực làm cho những gói đường quấn quanh
bắp chân, quanh bụng tôi thêm trĩu nặng. Tôi ́ ạch dắt xe, nón lá
che sùm sụp xuống mặt nhưng vẫn liếc mắt ngó chừng hai đứa đi phía
sau. Chỉ c̣n một khúc nữa là vô trạm gác, ba mẹ con càng tách xa
nhau như người xa lạ để nếu có bị bắt th́ không bị dính cả chùm.
Tôi thoát qua trạm gác, đứng lại, làm bộ gỡ nón quạt để ngó lại t́m
con. Thằng Hai vừa dắt xe đi ra, thằng Tư đang tiến vào trạm… Bỗng
nhiên cái cặp ở tay thằng Tư rớt xuống, những gói đường và xà bông
văng tung tóe. Mắt thằng nhỏ mở lớn, hăi hùng, miệng há ra nhưng
không dám khóc lên thành tiếng. Một tên công an bước tới, nắm lấy cổ
áo nó. Mắt tôi hoa lên, ngực tôi nhói đau, tôi ngồi sụp xuống để
khỏi té vật ra. Phà đă tới, đám đông ùn ùn xô nhau tràn tới, tôi đội
xụp nón lên đầu rồi đành bước chân đi.
Phà qua tới Mỹ Tho, thằng Hai mới dám chạy lại bên tôi, mếu máo, “Má
ơi, thằng Tư bị bắt rồi!” Tôi ôm con, vuốt lên mái tóc cháy nắng
khét lẹt rồi nói cứng
“Chắc họ không nhốt con nít đâu. Con đem đồ về nhà trước để tụi nhỏ
khỏi trông, Má ở đây chờ em.”
Trời đă nhá nhem tối, tôi đang nghĩ cách quay lại kiếm con th́ thằng
Tư thất thểu bước ra khỏi phà. Lưng nó khom xuống, mặt nó thất thần.
Vừa thấy tôi, nó phóng tới ôm riết rồi khóc nức nở, người nó run bần
bật trong những cơn nấc nghẹn ngào. Nước mắt tôi cũng rớt như mưa.
Tôi hận ḿnh bất tài, hận số phận ḿnh khốn khổ để tuổi thơ của các
con quá bi thảm và tủi nhục. Tôi lại ngửa mặt gọi anh. Anh ơi, hăy
giúp em cứu các con ra khỏi cảnh khổ hận này.
Từ bữa đó, tôi không dám bắt các con đi buôn lậu nữa. Tôi đi tới
từng vườn trái cây mua rồi chở đi bỏ cho những bạn hàng ở Sài G̣n.
Mỗi ngày tôi dậy từ 3 giờ sáng, cột mấy giỏ trái cây lên xe đạp rồi
chở ra bến, đón xe đem về Sài G̣n. Tiền xe hai chuyến đi về mắc mỏ
mà tôi th́ sức yếu, vốn nhỏ nên lời rất ít. Thấy dân nghèo tứ xứ bày
bán đủ mọi loại hàng trên lề đường trước cửa chợ, tôi quyết định
không bán sỉ nữa mà bán lẻ để kiếm lời khá hơn.
Tôi trải đại một tấm nylon xuống lề đường, bày một ít trái cây làm
mẫu, phần c̣n lại để trong giỏ gởi mấy cửa tiệm ở mặt đường, có tiệm
thương t́nh cho gởi, có tiệm bắt trả tiền. Tôi lê la từ chợ Cầu Ông
Lănh tới chợ Tân B́nh, chợ An Đông, đôi khi gặp bạn bè cũ, tôi cúi
gầm mặt dưới vành nón, không dám ngước lên. “Ủy Ban Trật Tự Thành
Phố” nói rằng bán hàng trên lề đường gây hỗn loạn nên ra lệnh cấm,
nhưng người dân đói quá cứ làm liều.
Từ cụ già tám mươi tuổi đến đứa bé sáu, bảy tuổi, từ người lành lặn
tới anh thương phế binh, người trải tấm nylon, kẻ đẩy cái xe tự đóng
bằng ván mục, người bưng cái rổ, kẻ đội cái mâm, chúng tôi đứng ngồi
la liệt trên khắp các ngả đường để kiếm sống. Ngày nào bán được khá,
ngoài mấy lít gạo tôi c̣n mua về cho con vài ổ bánh ḿ. Trời sụp tối
tôi mới về đến nhà, nh́n chúng chia nhau nhai ngấu nghiến một cách
hết sức thèm thuồng, tôi có thêm sức mạnh để tiếp tục lăn lộn trên
vỉa hè.
Tuy nhiên, những ngày vui thường ít hơn những ngày buồn. Rất nhiều
khi đang ngồi bán th́ người ở đầu đường la, “Công an!” và mọi người
vùng lên chạy. Những người bán mặt hàng gọn, nhẹ th́ túm tấm trải
lại, ôm vào người rồi biến vào trong những ngơ hẻm. Tôi quảy đống
trái cây nặng hơn nên thường lẹt đẹt phía sau và bị công an hốt.
Công an đem tôi về “Trụ Sở Ban Quản Lư Chợ”, bắt kư tên vào biên bản
rồi tịch thu hết hàng.
Tôi nhớ tới lời Mẹ chồng tôi thường an ủi tôi rằng “trời sanh voi,
sanh cỏ” mà muốn gào lên sao các người ác vậy, đă giết chồng tôi mà
c̣n không chừa cho mẹ con tôi một cọng cỏ để ăn! Những ngày bị mất
hàng, tôi trở về nhà với hai tay không, thê thảm như người vừa bị
cướp. Mấy mẹ con phải ra vườn mót những củ khoai đẹt và hái rau dại
về ăn. Ngồi nh́n đám con chia nhau dĩa rau luộc chấm nước muối, ḷng
tôi đau nhói. Mới ngày nào tôi là cô dâu hai mươi tuổi, ngây thơ,
lăng mạn cùng chồng mơ về một căn nhà ấm cúng với đàn con ngoan
ngoăn, cười giỡn rộn ràng. Bây giờ, đàn con tôi gầy ốm, buồn rầu c̣n
tôi th́ da đen sạm, tay chân chai sần, tóc tai xác xơ như ḷng tôi
tan nát.
Sau nhiều lần bị công an bắt, vốn liếng sắp cạn th́ tôi may mắn gặp
được quư nhân. Chị là vợ của Trung Tá Kh. ở cùng Sư Đoàn 5 với chồng
tôi, và hai gia đ́nh đă ở gần nhau trong Cư Xá Sĩ Quan Ngô Quyền tại
B́nh Dương trước năm 1975. Không ngờ sau cuộc đổi đời, chị cũng dắt
con về ở ngay bên cạnh xă tôi. Con út của chị học chung một lớp với
con tôi, có lẽ cùng thuộc diện con “tù cải tạo” nên chúng thân và
tâm sự với nhau. Kể qua kể lại, té ra là hàng xóm hồi xưa, con tôi
vui mừng về báo cho tôi và tôi đă t́m thăm chị.
Hầu hết các con của chị Kh. đă lớn nên kiếm được việc làm lặt vặt để
sống qua ngày. Thời đó, phong trào đan mây tre và làm nón để xuất
khẩu ra nước ngoài lên mạnh, chị giới thiệu cho tôi lănh nón về thêu
ăn công. Đêm nào tôi và con gái lớn cũng ngồi thêu bên cây đèn mù
mờ, nước mắt sống chảy ṛng ṛng v́ dùng mắt quá độ, nhưng số tiền
công rẻ mạt chỉ giúp chúng tôi kiếm thêm chút cháo. Chị Kh. có người
thân ở Huế nên chị cũng làm đại lư cung cấp nón lá Huế cho các sạp
bán lẻ, thấy vậy chị lại thương t́nh cho tôi lấy nón về bán, bán
xong mới đưa lại tiền vốn cho chị.
Thời đó, chợ huyện Tân Hiệp họp từ một, hai giờ đêm để người ta kịp
mua hàng đem lên Sài G̣n bán lúc sáng sớm. Khoảng mười một giờ đêm
là tôi ṃ mẫm dắt xe đạp ra khỏi nhà, trên yên sau là gói hàng lặt
vặt như tiêu, tỏi, xà bông, bột ngọt, phía trên là chồng nón. Chiếc
xe đạp cũ nát run rẩy ḅ trên con đường đất gồ ghề, hai bên là
ruộng, côn trùng ếch nhái kêu nỉ non, đom đóm bay lập ḷe như mắt
quỷ.
Hồi c̣n con gái, tôi rất sợ ma, nhưng lúc đó tôi chỉ c̣n sợ… người.
Trời tối đen, chỉ nh́n thấy một khúc đường ngắn lờ mờ trước mặt, tôi
vừa đạp xe vừa cầu xin anh phù hộ cho tôi không bị cướp. Ra tới chợ,
có những đêm vừa bày hàng xong th́ trời đổ mưa, tôi lấy hết nylon
che cho hàng hóa rồi ngồi chịu trận trong cái áo mưa đầy lỗ lủng,
nghe từng giọt nước lạnh như kim chích trên lưng, nghe gió quất từng
cơn trên gương mặt ướt đẫm nước mưa ḥa nước mắt.
Sau những đêm ế ẩm, sáng ra tôi phải đạp xe tới từng nhà quanh chợ,
mời người ta mua nón dùm. Các bà không ai biết chuyện chồng tôi bị
xử tử, nhưng họ biết tôi là vợ tù nên rất thương tôi. Họ cũng chẳng
dư dả ǵ nhưng người mua dùm cái nón, người cho củ khoai, ly nước,
người dúi cho tôi chút trái cây để đem về cho các con. Những ngày
tôi bán ế, không đủ tiền trả vốn số nón đă lấy của chị Kh., chị chỉ
la giỡn, “Thôi, không đủ tiền th́ thím để bữa sau bán tiếp rồi trả,
chớ không lẽ bây giờ tui bắt xác thím được ha…”
Bữa đói bữa no, bịnh không có thuốc nhưng nhờ Trời thương, đám con
tôi vẫn lớn như cây dại mọc ở bờ rào. Các cháu biết thân phận ḿnh
nên rất ngoan và chăm học. Ngoài giờ học, chúng đi câu, đi chạ, đi
lưới để kiếm thêm thức ăn. Tuy vậy, chúng càng lớn th́ tiền học,
tiền sách vở càng tốn kém, rất nhiều lần các cháu bị thầy cô rầy la
v́ xài chung chỉ một cuốn tập cho mọi môn học, nhưng các cháu không
hề than van.
Những ngày tôi đi buôn bán về trễ, ḷng tôi ấm lại trước cảnh các
con quây quanh ngọn đèn dầu leo lét, mấy đứa nhỏ tập đọc ồn ào,
nhưng mấy đứa lớn vẫn ráng chăm chú giải toán, học bài.
Dù không có tiền đi học thêm, dù sự giảng dạy ở vùng quê trồi sụt
bất thường, ba đứa con lớn của tôi đă đạt được điểm cao trong kỳ thi
tốt nghiệp trung học. Tuy vậy, các cháu nhưng chỉ được trúng tuyển
vào những trường dạy nghề như Trung Học Lâm Nghiệp ở Sông Bé, Trung
Học Sư Phạm ở Tiền Giang, và Trung Học Xây Dựng ở Vĩnh Long. Dù sao,
đây là một điều rất quan trọng cho cuộc đời của hai cháu trai bởi v́
nếu không được đi học tiếp, các cháu sẽ phải đi “nghĩa vụ quân sự”,
bị gởi đi đánh nhau ở vùng biên giới Tàu hay Campuchia.
Tôi đă thề cùng vong linh của anh rằng tôi sẽ làm mọi cách để các
con chúng tôi không bị đi bộ đội. Chỉ tưởng tượng các cháu phải mặc
cùng bộ quân phục, đứng cùng hàng ngũ, và đem thân đi chết v́ chính
kiến của những người đă giết cha các cháu, tôi rùng ḿnh. Nếu bị kêu
đi “nghĩa vụ”, các cháu chỉ c̣n nước bỏ làng xóm, đi sống lang
thang, dật dờ như rất nhiều thanh niên thời đó. Dù trúng tuyển vào
trường, nhưng sau khi tốt nghiệp, cả ba cháu không có tiền chạy
chọt, không quen biết ai, nên bị gởi đi làm việc ở những nơi xa xôi,
hẻo lánh. Các cháu chán nản quay về nhà, làm ăn lặt vặt qua ngày.
Cuộc sống tuy đỡ đói khổ hơn thời các cháu c̣n nhỏ, nhưng đầy bế
tắc, không có tương lai.
Từ đầu thập niên 1980 đă có lác đác sĩ quan đi tù được thả về. Mỗi
lần nghe tin người quen được về với vợ con, tôi mừng cho họ nhưng
nghe ḷng càng thêm cô đơn, cay đắng. Chồng tôi sẽ không bao giờ trở
về, mà thân xác anh cũng vẫn c̣n lạc lơng ở tận phương nào. Mẹ chồng
tôi đă già yếu, không c̣n tiếp tục đi t́m mộ anh được nữa, c̣n tôi
th́ lăn lộn kiếm gạo cho bầy con nên không thể hết ḷng t́m kiếm. V́
thế, ngoài nỗi khổ đói nghèo, nỗi hận mất chồng, nỗi sợ hăi xă hội
nhiễu nhương, và nỗi buồn đơn chiếc, tôi c̣n mang cảm giác nặng trĩu
tội lỗi của người vợ vô t́nh.
Tôi không thể ngờ rằng năm 1984, tám năm sau khi anh mất, anh đă t́m
về với mẹ con tôi.
Hôm đó, tôi đang lúi húi ngoài vườn th́ chị Hai tôi bước vô cổng.
Vừa tháo nón lá quạt lia lịa, chị vừa kêu
“D́ Ba! D́ Ba ơi! Có tin dượng Ba!”
Tôi quăng cuốc chạy ra, chị chụp tay tôi, hổn hển vừa thở vừa nói
“Mèn ơi, thiệt không ngờ! Em nhớ cô giáo H. dạy trong trường chị chớ
. Chị với cổ thân nhau, lúc người này có chuyện th́ người kia dạy
dùm. Mới cách đây mấy bữa, chị coi lớp dùm cổ để cổ đi hốt cốt người
em trai tên Thịnh, chết trong tù cải tạo. Cổ đi về kể chuyện cho chị
nghe, cuối cùng cổ nói thêm ‘Kế sát bên mộ em tui có ngôi mộ của một
ông chết cùng ngày. Tội nghiệp, chắc gia đ́nh ổng đi vượt biên hết
nên không ai chăm sóc, cỏ mọc tùm lum!’ Trước giờ chị ít để ư chuyện
của ai, nhưng bữa đó như có ǵ xui khiến nên chị hỏi tới, ‘Vậy chứ
bà có nhớ tên người đó không?’ Cổ nói ‘Tên là Trần Văn Bé, sinh ở
Long An.’ ”
Giữa trưa nắng mà tôi sống lưng tôi lạnh toát.
Tôi đă nghe các bạn tù của anh kể lại rằng sau khi bọn cai tù bắt
được anh và đem trở về trại Suối Máu, bọn chúng c̣n chuyển về một
người đă vượt trại ở Hóc Môn tên là Thịnh. Cả hai bị nhốt vào connex
và bị bắn trong cùng một ngày, chồng tôi vào buổi sáng, anh kia vào
buổi chiều. Như vậy là những người bạn tù đă chôn hai anh kế bên
nhau, và đă thương xót lập bia để chỉ đường cho thân nhân các anh
mai sau đi kiếm. Trong gần bốn triệu người dân Sài G̣n, cơ may hiếm
có hay hồn thiêng của hai anh đă đem chị tôi và chị của anh Thịnh
đến với nhau, để cho họ thân thiết và tin cậy nói cho nhau nghe
những nỗi đau sâu kín của gia đ́nh những người lính Cộng Ḥa găy
súng. Có lẽ hồn thiêng của chồng tôi níu chân chị H. nên chị đă để ư
tới nấm mộ hoang khuất trong cỏ rậm, và đọc được cả những chi tiết
viết bằng tay mờ nhạt trên miếng gỗ đă tám năm trời phơi mưa nắng.
Mẹ chồng tôi lập tức lo việc xin giấy phép đi đường, giấy phép cải
táng và kiếm nhà quàn lo dịch vụ. Ngày đi bốc mộ, tôi và Mẹ ruột tôi
từ Mỹ Tho về Sài G̣n cùng đi với Mẹ chồng, cậu ruột của chồng, và
một cô em chồng. Nhờ chị của anh Thịnh đă chỉ đường rất kỹ nên chúng
tôi tới mộ khi mặt trời chưa đứng bóng. Cỏ dại đă được phạt đi nên
chúng tôi thấy ngay ngôi mộ có tấm bia bạc phếch đứng chơ vơ trong
nắng. Có lẽ đây là khúc cây tốt nhất mà các bạn tù của anh đă lựa,
có lẽ họ đă khắc tên anh bằng cả tấm ḷng, có lẽ v́ mộ nằm ở khu đất
cao và khô ráo, và có lẽ hồn anh c̣n quanh quẩn nên tấm bia vẫn c̣n
đứng vững và những gịng chữ vẫn chưa phai sau tám năm hoang lạnh.
Người ta bắt đầu đào, tiếng b́nh bịch của cuốc bằm xuống đất dội vào
óc tôi làm tôi choáng váng, phải ra ngồi dựa vào một gốc cây. Nấm mộ
không sâu nên chỉ một lát là chạm đến cái ḥm thô sơ, bể tan sau vài
nhát cuốc. Tôi vẫn ngồi dưới gốc cây, hai mắt mở trừng trừng. Tôi
thấy như hồn tôi tách khỏi thân xác, bay là là trên cao nh́n mọi
người đang khóc và tôi đang ngồi sững sờ như hóa đá. Từng khúc xương
được bốc lên, mẹ chồng tôi nh́n bộ răng và nói rằng đúng là anh với
hàm răng thiếu một chiếc ở góc trong. Khi mẹ kêu tôi tới nhận diện
chồng, tôi mới lảo đảo đi tới gần mộ. Bên cạnh cái hộp sọ đă bể, tôi
thấy chiếc áo sơ mi sọc do chính tôi sắm cho anh ngày xưa nằm cạnh
sợi dây nịt của lính. Có lẽ anh em bạn tù đă thu nhặt túi đồ của anh
và chôn theo anh. Tới lúc đó nước mắt tôi mới có thể trào ra. Cuối
cùng th́ em cũng đă t́m được anh rồi!
Sau khi thiêu cốt, Mẹ chồng tôi đề nghị đem gởi vào chùa ở Phú Lâm.
Tôi đồng ư v́ ở Sài G̣n dù sao cũng an toàn hơn là ở Mỹ Tho trong
ngôi nhà xiêu vẹo, chông chênh của mẹ con tôi.
“Mẹ có nhà không con?”
Đang loay hoay đếm nón để khuya đem đi bán, tôi chạy vội ra cửa v́
giọng nói đầy vẻ háo hức của cô bạn thân, học chung từ nhỏ.
Vừa thấy tôi, H. níu tay kéo ngồi xuống bậc cửa, móc trong túi áo ra
một tờ báo được xếp gọn. Với vẻ mặt hết sức trang trọng, H. giở báo,
chỉ vào một bản tin nhỏ với tựa đề : Thông Cáo Về Việc Làm Hồ Sơ
Xuất Cảnh Cho Những Người Từng Đi Học Tập Cải Tạo. Hai chúng tôi
chúi đầu vào đọc. “Những người từng đi học tập cải tạo trên ba năm
sẽ được làm hồ sơ đi Mỹ, ngay cả vợ con của những người đă chết
trong trại cũng được đi.”
Run run, tôi hỏi H
“Bà nghĩ tin này thiệt không?”
“Thiệt mà! Ở trên Sài G̣n người ta xác định rồi, mấy người bạn ông
xă tui đang làm đơn rần rần ḱa!”
Thế là chiều hôm đó tôi mở cái hộp sắt, lấy ra tờ Trích Lục Án H́nh
vừa coi lai vừa van vái chồng tôi.
Năm đó là 1988, như vậy chồng tôi bị giết đă mười hai năm. Nước mắt
rơi lă chă, tôi lại kêu anh. Anh ơi! Anh giúp em cứu các con ra khỏi
nơi này.
Mẹ chồng tôi nghe tôi kể chuyện làm đơn xin đi Mỹ, bà chép miệng
lLàm đơn th́ phải khai ra cái chuyện chồng con bị tử h́nh. Tụi công
an xă mà biết th́ giống như khui ổ rắn. Má sợ các con mà đi không
được, sau này sẽ khổ hơn…”
Tuy nhiên ḷng tôi đă quyết, đây là cơ hội duy nhất để cứu con tôi,
điều mà tôi ước mơ từ mười mấy năm nay. Với sự giúp đỡ của vợ chồng
bạn, tôi xin mẫu đơn, điền chi tiết, đính kèm bản sao của bản án tử
h́nh rồi đem nộp ở Ty Ngoại Vụ Tỉnh Tiền Giang. Gia đ́nh H. và chúng
tôi đều được xếp vào danh sách H.O. 7. Nhưng chỉ mấy tuần sau tôi
nhận được thư từ Sở Ngoại Vụ ở Sài G̣n từ chối đơn của tôi với lư
do: chồng tôi bị tử h́nh năm 1976, do đó anh không hội đủ điều kiện
bị tù ba năm. Tôi nghiến răng rủa bọn Cộng ngu xuẩn, chồng tôi bị tử
h́nh nghĩa là đi tù không bao giờ về, cớ ǵ mà không đủ điều kiện ba
năm. Tôi viết thư khiếu nại nhưng Sở Ngoại Vụ từ chối, họ nói bắt
buộc phải có ba năm ở tù. Đối với họ chết là hết, là không c̣n giá
trị ǵ nữa.
Lúc đó, gia đ́nh của những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà đă hồi
sinh như ruộng hạn gặp mưa rào. Họ tụm năm, tụm ba, th́ thào về
chuyện làm đơn, chuyện nhận được giấy tờ chấp thuận cho đi. Họ len
lén mua sắm, chuẩn bị cho ngày lên đường. Mọi người chạy qua chạy
lại, bàn bạc, chia sẻ với nhau những tin tức góp nhặt được về đời
sống bên Mỹ, về ước mơ tương lai. Lác đác tiếng cười đă trở lại
trong những căn nhà lụp xụp, buồn hiu. Tôi đứng bên ngoài hạnh phúc
đó, nh́n cảnh tượng đó bằng cảm giác của đứa con nít bị bỏ rơi. Các
bạn của tôi cứ nghĩ là tôi không có hy vọng, nên họ tránh bàn chuyện
đi Mỹ trước mặt tôi. Có nhiều khi họ đang nói mà thấy tôi đến là im
bặt. Tôi ráng cười nói cho họ yên tâm dù ḷng đau như cắt.
Giữa năm 1991, H. lên đường đi Mỹ theo diện H.O. 7. Đêm trước khi
đi, hai đứa nói chuyện thật lâu. H. hứa sau khi sang Mỹ sẽ hết ḷng
giúp mẹ con tôi. Tôi bỏ bản sao của tờ đơn xin đi diện H.O., bản sao
của tờ Trích Lục Án H́nh, và lá đơn khiếu nại của tôi vào một cái
phong b́ lớn. Tôi thêm vào đó bản sao tấm h́nh thờ của anh, mong có
phép lạ để một trong những người Mỹ từng làm việc với anh ở Pḥng
Nh́ tiểu khu Định Tường, Mỹ Tho ngày trước nhận ra anh mà cứu mẹ con
tôi. Tôi van vái, “Anh ơi! Anh phù hộ cho H. đưa được đơn đến tay
người tốt, cho họ mở ḷng thương mà cứu vớt gia đ́nh ḿnh.”
Ngày chia tay, tôi hết gượng nổi, tôi khóc như mưa. H. lên xe, đem
theo hy vọng của chúng tôi. Xe chuyển bánh rồi từ từ xa dần. Tôi
đứng dưới ánh nắng gay gắt, nước mắt chứa chan, nh́n dơi theo chiếc
xe mờ dần trong bụi khói rồi biến mất sau khúc quẹo.
**
H. đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi từng ngày. Nhiều gia đ́nh cựu sĩ quan
ở trong vùng đă ra đi làm tôi càng thấy bơ vơ, khó kiếm người tâm
sự. Khó hơn nữa là khi nghe tôi nói rằng tôi muốn khiếu nại với
người Mỹ, hầu hết bạn bè đều chớp mắt ái ngại, rồi làm thinh. Tôi
hiểu rằng họ nghĩ người Mỹ sẽ không quan tâm đến một gia đ́nh ở cách
nửa ṿng trái đất mà mối liên hệ với Mỹ đă bị tử h́nh từ mười sáu
năm trước. Vài người bi quan c̣n không dám tin là H. sẽ giữ lời hứa
với tôi. Họ lắc đầu nói, “Trước khi đi ai cũng hứa hẹn nhưng qua đó
nhiều thứ phải lo quá nên người ta quên hết…”
Nhưng H. đă không quên mẹ con tôi. H. có người anh chồng từng học
Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một sĩ quan VNCH. Năm 1975, anh giữ
chức trưởng pḥng kinh tế của Quân đoàn 4, anh cũng bị đi tù nhiều
năm, sau đó anh vượt biển và định cư ở Mỹ. Lá thư đầu tiên H. gởi về
kể rằng anh ấy đă dịch lá đơn cùng với lá thư khiếu nại của tôi ra
tiếng Anh rồi gởi cho cơ quan di trú Mỹ.
Từ đó, sáng nào tôi cũng thắp nhang trên bàn thờ chồng rồi ngóng chờ
thư. Khoảng hai tháng sau, thư của H. đến. Tôi dụi mắt, coi đi coi
lại gịng chữ viết tay của H. để biết chắc là ḿnh không lầm. “Văn
pḥng ODP bên đây chấp thuận hồ sơ của gia đ́nh bà rồi! Họ sẽ liên
lạc với Việt Nam để hoàn tất thủ tục.” Hai tuần trôi qua với lo
lắng, chờ đợi. Rồi tôi nhận được một lá thư của Sở Ngoại Vụ tại Sài
G̣n yêu cầu tôi bổ sung giấy tờ về cái chết của chồng tôi. Tôi đọc
lá thư mà điếng hồn.
Như vậy là tờ Trích Lục Án H́nh mà tôi đă nộp là không đủ. Chồng tôi
bị xử theo luật rừng vào năm 1976, trong một phiên toà rừng tại trại
tù, biết có biên bản hay không? Nếu có, biết họ có c̣n giữ lại sau
mười sáu năm hay không? Tôi lại mở cái hộp sắt và lấy tờ Trích Lục
Án H́nh ra soi xét. Góc trái của tờ giấy có hàng chữ “Ṭa Án Quân Sự
Quân Khu 7”. Tôi sẽ đi t́m từ đầu mối đó.
Ngày đó, ở Mỹ Tho điện nước c̣n không có đủ, nói ǵ tới máy tính
hoặc mạng internet. Thêm nữa, những hồ sơ về tù chính trị không bao
giờ lộ ra ngoài nên tôi không thể tra cứu, t́m kiếm được ở bất cứ
nơi nào. Cách duy nhất là tới thẳng Ṭa Án Quân Sự Quân Khu 7 mà tôi
không biết ở đâu. Tôi phải nhờ chị ruột và anh rể tôi đang ở Sài G̣n
đi hỏi thăm dùm.
Một buổi trưa nắng gắt, có một người đi bộ từng bước xiêu vẹo trên
con đường trơ trụi từ bến xe vô nhà tôi. Đó là chị Hai tôi! Vừa tới
nhà tôi, chị lột cái nón quạt lia lịa rồi vừa thở vừa nói, “T́m thấy
địa chỉ của Ṭa Án Quân Khu 7 rồi! Đâu dè nó ở ngay tại Sài G̣n! Bây
giờ, cái khó là em có dám vô đó hỏi họ về bản án không?”
Hai bàn tay tôi bỗng ướt nhẹp mồ hôi. Mười sáu năm qua tôi đă viết
hàng trăm tờ lư lịch khai là chồng tôi mất tích, bây giờ tôi phải
đối mặt với công an để nói rằng anh đă chết và tôi muốn kiếm bản án
tử h́nh. Họ có túm đầu cả gia đ́nh tôi về tội khai gian không? Nhưng
giấc mơ đi Mỹ của cả gia đ́nh đă gần kề, cánh tay cứu vớt của người
Mỹ đă đưa ra rất gần rồi, tôi nhất định phải nắm lấy. Tôi phải vượt
qua mọi gian nan v́ tương lai của các con. Tôi gom góp cây trái
trong vườn đem bán, kiếm đủ tiền mua cái vé xe lên Sài G̣n rồi ghé ở
nhờ nhà anh chị. Chị tôi trao cho tôi tấm giấy ghi rơ địa chỉ nơi
tôi cần đến, cho tôi mượn bồ đồ tươm tất nhất để mặc, nhưng chị cũng
lo ăn từng bữa nên chỉ giúp tôi được tới đó. Tôi cầu cứu cậu em út
lúc đó mới tốt nghiệp Sư Phạm, có vợ vừa sinh con nhỏ. Hai vợ chồng
vét tất cả gia tài pḥng thân đưa cho tôi mượn hai trăm ngàn, lúc đó
mua được gần một chỉ vàng.
Buổi sáng ngày tốt mà tôi đă chọn, cậu em chở tôi bằng xe Honda tới
trước Ṭa Án Quân Khu 7. Trời c̣n sớm, con đường c̣n vắng vẻ, cậu
Sáu ngừng xe rồi quay lại nh́n tôi, lặng lẽ. Ánh mắt cậu nửa như
khuyến khích, nửa như lo lắng, thương cảm khiến tôi mủi ḷng muốn
khóc. Nhưng tôi gom hết can đảm, lấy giọng b́nh tĩnh
“Sáu đậu ngay đây, rồ máy sẵn nghe. Có chuyện ǵ chị phóng lên xe,
ḿnh chạy liền nghe.”
Cậu em gật đầu
“Em biết rồi, chị cứ vô đi. Ráng cẩn thận!”
Tôi xuống xe, tḥ tay soát lại cuộn tiền dấu trong túi nhỏ ở lưng
quần, rồi mím môi bước tới.
Khúc sân xi măng dẫn tới căn nhà nhỏ có tấm bảng đề “Trạm Tiếp Dân”
chỉ có mấy thước ngang mà tôi thấy quá dài. Chân tôi ríu lại, tim
tôi đập dồn dập, tôi không ngừng van vái, “Anh ơi, phù hộ cho em!”
Tôi là người khách đầu tiên trong ngày, cả căn pḥng c̣n trống
không, chỉ có một người công an c̣n rất trẻ ngồi ở cái bàn nhỏ ngay
gần cửa vào. Thấy tôi, hắn hất hàm
“Cần ǵ?”
Tôi đưa bản sao tờ Trích Lục Án H́nh ra rồi lấy giọng nhỏ nhẹ nhất
“Chào chú, tôi muốn xin bản sao của toàn bộ bản án này.”
“Xin để bổ túc giấy tờ đi H.O, phải không?”
“Dạ… Dạ phải. Chú làm ơn giúp dùm!”
Tên công an săm soi ngày tháng trên tờ giấy rồi nói
“Vụ này từ năm 1976, giấy tờ đem ra Hà Nội hết rồi.”
Tôi liếc nh́n quanh, rồi rút nhanh cuộn giấy bạc nhét vào tay hắn và
nài nỉ
“Chú làm ơn hỏi dùm tôi…”
Tên công an đút lẹ tiền vào túi, suy nghĩ một chút rồi nói
“Được rồi, để tôi cố t́m. Hai tuần sau chị trở lại.”
Tôi vừa cám ơn hắn vừa lùi ra cửa. Mười bốn đêm tôi trằn trọc v́ lo
lắng. Lỡ mà tên công an đó trốn luôn, lỡ mà bản án không c̣n, lỡ mà
công an đ̣i thêm tiền… Hàng chục cái “lỡ” hiện ra trong đầu làm cho
tóc tôi thêm bạc, mặt tôi thêm hốc hác.
Đúng hai tuần, tôi trở lại ngay lúc Toà Án vừa mở cửa. Tim tôi nhảy
b́nh bịch khi thấy tên công an trẻ hôm trước, hắn lôi ra trong ngăn
kéo ra một phong b́, đưa cho tôi với một nụ cười thoáng trong ánh
mắt nhưng chỉ nói cụt ngủn, “Đây.”
Tôi chụp lấy, miệng líu ríu cám ơn hắn, chân vọt nhanh ra cửa. Mới
thấy mặt cậu em, tôi run run lôi ra ba tờ giấy từ trong bao thư ra
và nói líu lưỡi, “Có rồi, có rồi, Sáu ơi!”
Tờ đầu là lư lịch của chồng tôi, tờ thứ hai ghi lại diễn tiến trốn
trại của anh, và tờ cuối kết thúc bằng gịng chữ:
XỬ PHẠT: TRẦN VĂN BÉ TỬ H̀NH
Nước mắt tôi lúc đó mới tuôn ra và ḷng tôi lại đau như cắt trước
cái trớ trêu của đời tôi: bản án tử h́nh với những lời chửi chồng
tôi là “ác ôn, phản động” cũng là tờ giấy để cứu mẹ con tôi.
Tôi sao lại bản án để gởi lên Sở Ngoại Vụ, c̣n bản chính tôi cất vào
chiếc hộp sắt chung với tờ giấy Trích Lục Án H́nh tôi đă nhận năm
xưa. Những đêm mất ngủ tôi lại lấy bản án ra đọc, và tôi đă thuộc
từng câu trong đoạn diễn tả những điều xảy ra khi anh vượt trại.
“… Hồi 11 giờ 30 ngày 5 tháng 3, 1976, Bé đă chui rào trốn ra tới
Quốc Lộ 1 và thuê xe lam chạy đến khu vực ấp Bắc Hải. Đến đây nghe
thấy tiếng súng nổ ở phía sau, Bé liền xuống xe chạy vào nghĩa địa
lẩn trốn. Lúc 18 giờ ngày 5 tháng 3, 1976 Bé chạy tới xă Tân Hiệp –
Biên Ḥa trà trộn trong nhân dân… Đă có sự bố trí từ trước, nhân dân
và chính quyền địa phương đă bắt Bé.”
Như vậy là anh đă lẩn trốn hơn sáu tiếng đồng hồ, từ trưa tới chiều
ngày 5 tháng 3, 1976. Ḷng tôi đau như cắt khi nghĩ đến lúc anh bơ
vơ ở Biên Ḥa, vùng đất miền Nam quê hương, nơi rất thân quen nhưng
lúc đó đă trở thành xa lạ, đầy cạm bẫy trong móng vuốt kẻ thù. Trời
ơi! Chúng đă bao vây anh ở Tân Hiệp ra sao? Anh có hoảng hốt, tuyệt
vọng không? Anh có bị đánh đập nhiều không? Rồi trong hơn một tháng
từ ngày 5 tháng 3 cho tới 10 tháng 4, 1976, anh đă bị hành hạ tới
mức nào? Những ngày nóng như lửa nằm trong connex, anh đă đau đớn,
đói khát tới bao nhiêu? Những đêm dài khủng khiếp anh đă nghĩ ǵ?
Anh có nhớ vợ con nhiều không? Anh có lời ǵ muốn nói với với chúng
tôi không?
Óc tôi bưng bưng với hàng trăm câu hỏi, ruột tôi đau như xát muối
khi nghĩ tới những khổ h́nh anh phải chịu lúc cuối đời. Trong đêm
lặng lẽ, nước mắt tôi tuôn ra, chảy ngược xuống ván, ướt đẫm hai bên
tóc mai. Và tôi thường thiếp đi với bản án tử h́nh úp trên ngực…
Sau khi tôi nộp bản án tử h́nh lên Sở Ngoại Vụ, hồ sơ được Mỹ chấp
thuận nhanh chóng và gia đ́nh tôi được vào danh sách H.O. 14. Nhưng
nhà cầm quyền Cộng Sản đâu có để chúng tôi ra đi một cách dễ dàng!
Ngày tôi đi lănh hộ chiếu, một nhân viên Sở Ngoại Vụ cau có nói
“Nhà nước Xă Hội Chủ Nghĩa đă bỏ tiền ra đào tạo nuôi dạy các con
của chị, nay các con chị lại ra đi, không phục vụ cho Đảng và nhà
nước. Chị phải đền lại tất cả số tiền mà nhà nước đă bỏ ra. Chị đi
về đi, khi nào trả tiền xong cho nhà trường, cầm biên lai lên đây
th́ sẽ được lănh hộ chiếu.”
Tôi lại ra về với nỗi lo thắt thẻo ruột gan. Trong tay tôi không có
tới vài chục ngàn mà họ đ̣i bồi thường tiền triệu! Chạy xuôi chạy
ngược hết mọi nơi, suy nghĩ nát đầu óc, cuối cùng tôi lại phải về
cầu cứu mẹ ruột của tôi. Bà suy nghĩ trắng một đêm rồi quyết định
cắt một phần đất vườn nhà đưa cho tôi, coi như chia gia tài, mặc dù
mẹ tôi c̣n sống. Tôi rớt nước mắt v́ thương mẹ và tủi thân ḿnh. Từ
nhỏ cha mẹ nuôi tôi ăn học, lớn lên làm cô giáo lương bổng ít oi,
lấy chồng quân nhân, “tiền lính, tính liền” nên tôi chưa bao giờ có
cơ hội báo hiếu cha mẹ. Rồi cuộc đổi đời làm tôi góa bụa, một nách
sáu con thơ, sống được tới giờ cũng nhờ cha mẹ nhịn ăn mà bao bọc.
Nay ba tôi đă khuất, các con tôi đă lớn, vậy mà lúc ngặt nghèo cũng
lại là mẹ già phải hy sinh. Tôi vừa khóc vừa rao bán phần đất mẹ
cho. Người ta biết tôi cần tiền nên ép giá, chỉ trả hơn một cây
vàng. Tôi đem đền trường học gần hết, phần c̣n lại không đủ để đi xe
lên xuống Sài G̣n phỏng vấn và khám sức khỏe nên tôi lại phải mượn
em trai tôi.
Rồi cái ngày mong đợi cũng tới. Ngày 20 tháng Mười Một, 1992, chúng
tôi ra phi trường với một cái va li duy nhất chứa hành lư của cả gia
đ́nh sáu người. Mỗi đứa con tôi chỉ có một bộ quần áo trên người và
một bộ đem theo, chỉ có tôi là được sắm một cái áo lạnh c̣n lại th́
đành tới đâu hay tới đó. Tôi ôm trên tay tài sản quư nhất, đó là cái
bao thư lớn đựng di ảnh của chồng tôi, một vài tấm h́nh thời chúng
tôi yêu nhau, và bản án tử h́nh.
Máy bay cất cánh, tôi nh́n qua cửa sổ thấy Sài G̣n thu nhỏ dần mà
nghẹn ngào. Cuối cùng, các con tôi đă thoát ra khỏi cái ngục tù bao
la của nhà cầm quyền Việt Nam. Lần đầu tiên từ sau tháng Tư, 1975,
tôi cảm thấy b́nh an.
Anh ơi, em đă lo được cho các con như lời anh dặn ḍ lần cuối. Cái
chết đau đớn của anh và nước mắt, mồ hôi của em đă mở đường cho các
con đi đến một tương lai tươi sáng. Anh đang mỉm cười, phải không
anh?
KHÔI AN
(GHI LẠI THEO LỜI KỂ CỦA CHỊ TRẦN VĂN BÉ)
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”