Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Ông Tư bị ung thư và biết chắc không thể sống lâu hơn sáu tháng. Ông b́nh tỉnh chờ cái chết, và vui vẻ sống những ngày ngắn ngủi c̣n lại, mà không bi ai, không sợ hăi. Ông muốn sau khi chết, gia đ́nh làm đám tang theo ư riêng của ông. Bà vợ nghe dặn ḍ cách thức làm đám tang kỳ dị, th́ nói giọng buồn, với đôi mắt cầu khẩn:
- Em nghe nói ngày xưa ở Huế, người
đàn bà đầu tiên đi xe đạp, bị cả thành phố phỉ nhổ, xem như là Me
Tây, như kẽ phá hoại phong hóa nơi đất thần kinh. Cho đến khi chiếc
xe gắn máy hiệu “Velo solex” ra đời, người đàn bà đầu tiên xữ dụng,
cũng bị xem như là thứ côn đồ, cao bồi du đảng, chẵng ai dám giao du
thân mật. Đến như bà Thu, vốn là một công chúa, dù là con của vị phế
đế, là người đàn bà có xe hơi, và lái xe hơi dầu tiên ở Huế, cũng bị
thiên hạ nghi ngờ oan ức đến cái đức hạnh của bà, mà suốt đời không
kiếm được một tấm chồng. Thế mà bây giờ, anh bảo em làm đám tang
khác thiên hạ, không giống ai, th́ chịu sao nỗi lời tiếu đàm của bà
con, họ hàng!
Ông Tư cười, nh́n vợ và nói:
- Cái ǵ cũng phải có khởi đầu, có người làm trước, về sau thiên hạ
thấy hay mà làm theo. Không ai khởi đầu cả, th́ làm sao có tiền lệ
để mà bắt chước? Thời trước nếu không có cô, bà nào dám tiên phong
leo lên xe đạp, th́ bây giờ đàn bà đi bộ cho ră cẳng ra. Ngày nay,
c̣n có ai x́ xầm khi thấy các cô, các bà đi xe đạp, xe gắn máy và
lái xe hơi đâu?
- Sao anh bắt em phải làm cái việc khác đời, cho tội cho nghiệp em.
Em đâu phải là hạng người thừa gan dạ, để có thể phớt lờ dư luận,
khen chê của thế gian ?
Ông Tư trả lời với giọng rất b́nh tỉnh:
- Chỉ là ước mong nhỏ nhoi cuối cuộc đời của anh, mà em cũng không
giúp anh được sao? Ai có nói ǵ, th́ em cứ bảo đó là ư nguyện của
anh trước khi chết. Mà có lẽ, mọi người đều biết anh muốn như vậy,
em khỏi cần giải thích cho ai. Em không làm theo ư nguyện, anh chết
không nhắm mắt, làm sao linh hồn siêu thoát? Như thế, em không sợ
anh về quấy phá em măi sao?
Nghe đến đây, th́ bà Hoa tái mặt. Bà vốn sợ ma, sợ người chết, sợ
bóng tối, sợ sự thiêng liêng. Bây giờ ông chồng c̣n sống, bà có thể
lấn áp, bắt nạt ông được, chứ sau khi ông chết rồi, th́ bà phải chịu
thua, phải sợ ông. Ông Tư biết tính vợ, nên đem ma quỷ ra mà dọa
trước, may ra sau khi ông chết, th́ bà chịu theo lời ước nguyện của
ông.
Nếu có ai biết ông Tư đang cận kề cái chết mà ái ngại cho ông, th́
ông cười vui mà an ủi họ – chứ không phải là họ an ủi ông – rằng,
nếu tin theo đạo Chúa, th́ khi chết được về thiên đàng, ngồi dưới
chân Chúa, sung sướng thế sao mà ai cũng sợ chết? Nếu theo đạo Phật,
th́ khi chết cũng sẽ về Tây Phương Cực Lạc, vĩnh cửu an b́nh, th́
mừng vui chứ sao lại bi ai? Và nếu nói theo đức Đạt Lai Lạt Ma, th́
cái xác thân ở trần gian, có thể ví như bộ áo quần ta mang, khi nó
đă sờn cũ, xấu xí, rách rưới mục nát rồi, th́ nên bỏ đi, mà mang bộ
áo quần khác, đại ư nói đi đầu thai kiếp khác, mang thân xác mới
hơn.
Ông Tư nói với bạn rằng, thân xác ông bây giờ như cái quần đă mục
mông, rách đáy, không c̣n che được cái muốn che, th́ phải bỏ đi,
không xài nữa là hơn. Bởi vậy, ông b́nh tỉnh đón chờ cái chết cận
kề. Khi biết ông bị ung thư sắp chết, th́ phút đầu tiên, ông lặng
người đi. Nhưng rất mau sau đó, ông nghĩ ra rằng bây giờ chỉ c̣n hai
con đường để lựa chọn.
Một là rầu rĩ bi ai, than thân trách phận, oán thán trời đất, làm
cho những ngày ngắn ngủi c̣n lại trở thành u ám, khổ sở, muộn phiền.
Hai là b́nh tỉnh chấp nhận điều không thể tránh được với thái độ
tích cực, lạc quan, vui vẻ. Làm cho những ngày c̣n lại thành tươi
vui, tốt đẹp và ư nghĩa hơn. Khi ra đi sẽ không có chút tiếc thương
vướng bận.
Ông chọn con đường sau, nên không buồn bả, không hoang mang, không
bi ai. Ông thấy cuộc đời bỗng đáng yêu hơn, đẹp hơn. Ông mở ḷng vui
vẻ đón nhận từng thời khắc, từng ngày c̣n lại. Mỗi sáng dậy, ông ca
hát nhạc vui, và nói chuyện khôi hài cùng vợ con. Ông cố làm đẹp
ḷng mọi người, v́ ông nghĩ rằng, sau khi nhắm mắt nằm xuống, th́ dù
có muốn tử tế với những người thân thương, cũng không c̣n làm được
nữa.
Ban đầu, vợ con, gia đ́nh, ai cũng ái ngại, nên cư xử tế nhị, dè
dặt, gượng nhẹ với ông. Về sau, thấy thái độ b́nh tỉnh của ông, mọi
người quên đi chuyện ông sắp xa ĺa cơi đời nầy, mà cư xử với ông
không khác ǵ người b́nh thường. Đôi khi bị vợ gắt gỏng, bị con giận
hờn, bị bạn bè to tiếng, ông không buồn giận, mà cảm thấy tức cười,
và thấy thương họ hơn.
Ông Tư dặn thêm vợ rằng đừng đăng báo, không đăng cáo phó ǵ cả.
Đừng làm rộn, bận trí bà con gần xa, buộc họ phải thăm viếng. Không
nên để phiền ai phúng điếu chia buồn. Ông đưa tờ báo cho bà, và nói:
- Em nh́n vào mấy cái cáo phó nầy đây, đọc thấy buồn cười : “Chúng
tôi đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc: Ông Nguyễn Văn Mỗ đă
được Chúa gọi về vào ngày , tháng, năm, hưởng thọ 82 tuổi…” Được
Chúa gọi th́ phải vui mừng, sung sướng, chứ sao lại đau đớn báo tin
? Về với Chúa là khổ lắm sao? Có đi tù cải tạo đâu mà đau buồn? Đáng
ra phải cáo phó bằng câu : “Chúng tôi hoan hỉ báo tin cùng thân bằng
quyến thuộc rằng, Ông Nguyễn văn Mỗ đă được Chúa gọi về vào ngày,
tháng, năm,..”. Và đây, một cáo phó khác, cũng “khóc báo” với thân
bằng quyến thuộc là thân nhân chúng tôi đă về cơi Phật. Về cơi ma
vương quỷ sứ mới khóc báo, chứ về cơi Phật, sướng quá, mà khóc cái
nỗi ǵ?”
Bà Hoa nhăn mặt nói:
- Anh đừng chi li bắt bẻ từng câu từng chữ . Đó là một lối nói thôi.
V́ có ai biết chắc đi về đâu mà dám vui, buồn. Nhưng cứ cho là về
thiên đàng, cực lạc, về với Chúa Phật, cho người sống an ḷng. Không
lẽ báo tin ông nội tôi được quỷ sứ rước đi rồi. Dù sống có gian ác
đến đâu, khi chết cũng có quyền hy vọng về nơi lạc phúc, b́nh an.
Ông Tư lắc đầu nói tiếp:
- Em có thấy ông cụ Trương nằm liệt giường hai năm, không cử động
được, như bị hành h́nh, cả nhà lao đao lận đận chăm sóc. Hai vợ
chồng bác Thu con cụ, v́ khổ nhọc quá, gây gỗ nhau, gia đ́nh suưt
tan vỡ.
Khi cụ mất, cả nhà thở phào sung sướng cho cụ, và cho mọi người
trong gia đ́nh. Thế mà khi cáo phó, cũng đau đớn báo tin. Bà con bạn
bè đăng báo chia buồn, cũng là vô cùng thương tiếc, vô cùng đau đớn.
Tang gia mừng, mà bà con lại chia buồn. Bà con muốn cụ nằm đó măi,
để khổ thân cụ, khổ con cháu cụ lâu dài hơn nữa hay sao? Hay là họ
không phải khổ cực chăm sóc cụ, không phải đau ḷng khi thấy cụ nằm
liệt ra đó, nên cụ chết họ buồn đau? Bỡi thế, khi anh chết, anh
không muốn cáo phó, không muốn ai phân ưu chia buồn. Chết cũng là
một tiến tŕnh của tự nhiên của trời đất, th́ có chi mà phân ưu,
chia buồn. Có ai sống măi được?
Bà Hoa không đồng ư, nói lớn:
- Mất mát nào mà không đau buồn? Dù biết chắc rằng, ông cụ Trương
chết là thoát được khổ đau đang hành hạ. Nhưng khi cụ mất, cả nhà
cũng buồn v́ mất cụ, mà vui v́ cất đi được gánh nặng, bớt được mối
thương tâm khi thấy người thân yêu của ḿnh khổ cực nằm đó.
- Thế th́ khi cụ mất, chắc chắn cả nhà vui nhiều hơn buồn, mừng
nhiều hơn tiếc. Không ai dám nói mừng khi thấy thân nhân ḿnh chết,
v́ sợ thiên hạ hiểu lầm, tiếu đàm. Thế th́ đừng giả dối, nói là đau
đớn, tiếc thương, mất mát. Mất cái ǵ mới ngại, chứ mất cái khổ đau
hành hạ, th́ cầu cho mất sớm, mất đi càng nhiều càng mau, càng tốt.
Anh nghe nói người Lào có quan niệm rất hay về lẽ sống sự chết. Khi
trong gia đ́nh có người chết, họ không bao giờ khóc lóc rầu rĩ, mà
b́nh tỉnh an nhiên, chắc rằng họ đă thấm nhuần cái lẽ thâm sâu của
Phật giáo, biết chết là giải thoát, rũ sạch nợ đời.
Bà Hoa hỏi:
- Hay là đời sống dân họ đau khổ lầm than quá, nên chết đi là khỏe
chăng? Chết là hết lo cơm áo, khỏi đói khát bệnh tật?
Bà Hoa nghĩ là ông Tư không thương bà đủ nhiều, nên cứ thản nhiên
trước cái chết cận kề. Bà không biết làm sao chịu nỗi cảnh cô đơn
khi sống thiếu ông trên đời.
Ông Tư thường nói với bạn bè rằng, rồi ai cũng phải chết. Không chết
sớm th́ chết muộn. Không chết lúc ba bốn mươi, th́ bảy tám chín chục
tuổi cũng phải chết. Cuộc đời, có thể ví như một đêm, không đi ngủ
lúc chín mười giờ, th́ mười hai giờ, một giờ sáng cũng phải đi ngủ.
Nếu đêm không vui, th́ tội ǵ không đi ngủ sớm cho khỏe, mà phải
thức để nỗi buồn gặm nhấm. Nếu đêm nay đau răng th́ cố thức làm ǵ,
ngủ sớm đi mà quên đau.
Nhiều người sống với thái độ như sẽ không bao giờ chết, cho nên tích
tụ của cải, bao nhiêu cũng không vừa, làm nhiều điều không đúng,
không phải. Bỡi vậy , khi biết ḿnh sắp chết, th́ hốt hoảng khóc
lóc, bi ai, mà vẫn không tránh được. Nhiều vị vua chúa đời xưa cũng
muốn sống đời, nên uồng thuốc trường sinh, mà ngộ độc chết sớm. C̣n
gia đ́nh, th́ thời gian đầu thấy thiếu vắng, mất mát, nhưng rồi sau
cũng quen dần, v́ phải lo lắng nhiều công việc khác trong một cuộc
sống b́nh thường, không c̣n có th́ giờ mà tiếc thương, mà bi ai.
Phần người chết, buông tay là xong tất cả, b́nh yên vĩnh viễn. Không
c̣n phải lo công việc làm ăn, lo cơm áo gạo tiền, không c̣n lo làm
giàu, lo tích trữ của cải, không c̣n ghen tuông, giận hờn, không c̣n
phải thức khuya học hành, hoặc viết văn làm thơ mệt nhọc, không c̣n
theo đuổi mộng lớn mộng bé, không ưu tư dằn vặt v́ thời thế, v́ đất
nước, quê hương… Bỏ hết. Tất cả cũng chỉ là tro bụi. Thiên hạ c̣n
ngưỡng mộ, c̣n khen ngợi những anh hùng liệt sĩ trong lịch sử, nhưng
chính các người nầy có c̣n biết ǵ nữa đâu? Cũng là một mớ xương khô
mục nát, đâu có nghe, có cảm xúc, hân hoan, vui thú ǵ. Có ca ngợi,
nhắc nhở th́ để các thế hệ con cháu về sau noi gương người đi trước
mà d́n giữ quê hương, mà sống cho đàng hoàng, cho nên người, đừng
làm việc xấu xa đê tiện.
Ông Tư dặn vợ làm một đám tang đơn giản, không mở nắp ḥm cho bạn bè
thăm viếng nh́n mặt. Hát nhạc vui trong tang lễ, không khóc lóc, mà
vui cười tự nhiên. Sau khi thiêu xong th́ gởi tro xương về quê nhà,
đừng xây mộ, đừng đắp bia.
Bà Hoa th́ chỉ muốn làm giống như tất cả mọi người. Ai làm sao ḿnh
làm vậy trong khả năng tài chánh của gia đ́nh. Bà không muốn làm
khác ai, để họ có thể nghị dị, bàn ra nói vào, thêm thắt thêu dệt.
Nhưng bà cũng không nỡ từ chối ước nguyện cuối cùng của ông. Hai
người con của ông bà, đứa con gái đầu th́ tán thành, muốn làm theo ư
kiến cũa bố, đứa con trai phản đối, v́ sợ thiên hạ chê cười. Ông nói
với con : “ Con nên v́ bố, không nên v́ thiên hạ.”
Ông Tư xin nghỉ việc, đi thăm bà con họ hàng, đến đâu ông cũng nói
chuyện khôi hài, vui vẻ, nồng nàn với bạn bè bà con, thức đêm, uống
rượu, hát ḥ, ngâm thơ, ăn uống không kiêng cữ. Theo ông, th́ kiêng
cũng chết, mà không kiêng cũng chết, chết sớm hơn vài tháng, vài
tuần, cũng chẵng nghĩa lư ǵ. C̣n chẵng bao lâu nữa, kiêng cử làm
chi cho khổ thân, cho đời mất đi một phần ư vị. Ông cho rằng, đă
sống đến trên năm mươi tuổi là quá lời, quá đủ, không có ǵ để nuối
tiếc. Thấy ông tươi vui, người biết ông có bệnh sắp chết, cũng quên
mất là ông đang bệnh, người không biết bệnh trạng của ông, th́ ông
cũng không muốn nói ra làm ǵ. Ông đưa bà và hai con đi chơi một
chuyến trên du thuyền. Ông tham gia các cuộc chơi tập thể trên du
thuyền như hát ḥ, nhảy múa ca hát, tham gia các buổi ḥa nhạc, uống
rượu, cho đến khi măn cuộc. Ông vui vẻ, b́nh tĩnh đến nỗi nhiều khi
bà quên mất là vợ chồng không c̣n bên nhau bao lâu nữa.
Ông Tư chuẩn bị tinh thần cho vợ, cho con, để chấp nhận một sự thực
không tránh được. Chấp nhận với sự b́nh tỉnh, sáng suốt, không vui
vẻ nhưng không bi ai. Có người nói cho ông Tư nghe về kinh nghiệm
của những kẽ đă chết thật rồi, mà sống lại nhờ sự mầu nhiệm nào đó.
Rằng khi chết, th́ thấy ḿnh đi vào một vùng ánh sáng lạ, rất hân
hoan sung sướng, khoái cảm tràn trề. Bỡi vậy, nên người đă trăi qua
cận tử, th́ không cón sợ chết nữa, mà đón nhận như là một ân huệ của
trời đất. Ông Tư không tin chuyện cận tử, v́ ông vốn con người thực
tế và lư trí, cái ǵ chưa kiểm nghiệm được th́ chưa tin. Nhưng cho
rằng, nếu được như vậy th́ càng tốt. Nếu không được vậy, th́ cũng
thôi.
Cuộc đời ông Tư đă trăi qua nhiều giai đoạn sướng khổ. Chưa xong đại
học th́ bị kêu đi lính, tham dự những trận chiến kinh hoàng, ngày
đêm trấn đóng nơi ma thiêng nước độc, đă từng bị bắt làm tù binh, đă
vượt ngục. Khi miền Nam thua trận, phải đi tù nhiều năm. Đă sống
trong chế độ hà khắc ḱm khớp, bữa đói bữa no. Đă đi qua biển t́m tự
do. Và ước nguyện rằng, được sống thêm một ngày trong xứ tự do, th́
có chết cũng không có ǵ tiếc nuối. Thế mà ông đă sống thêm được
nhiều năm trong một xă hội có tự do, dân chủ. Con người được pháp
luật bảo vệ, tôn trọng. Ông biết ơn trời đất đă cho ông cái phần
thưởng vô cùng quư giá đó trong nhiều năm qua.
Ông Tư chỉ là một người b́nh thường, có đủ cả tốt xấu. Có chút rượu
chè, nhưng không ghiền và say sưa. Khi vui bạn vui bè, th́ ai đến
đâu, ông đến đó. Ông ḥa đồng cùng đám đông. Thỉnh thoảng ăn nhậu
cùng bạn bè, nói chuyện trời đất, vui chơi. Cờ bạc ông cũng có chút
chút, từ x́ phé, bài cào, cờ tướng, cờ vua, đi ṣng bài. Nhiều khi
ông xoa mạt chược cùng bạn bè, một mạch từ sáng thứ bảy cho đến
chiều chủ nhật mới thôi, ai về nhà nấy để chuẩn bị cho ngày đi làm
vào thứ hai.
Ông không mê, không lậm, biết dừng lại đúng lúc, không phải khi thua
cờ bạc th́ nóng mặt cố gỡ, và gỡ cho đến bán nhà. Trai gái ông cũng
có, nhưng không làm hại đến ai, biết giới hạn của cuộc chơi. Không
làm khổ vợ con, không gây khổ đau cho người khác phái. Thuốc lá, cà
phê hàng ngày, ông không ghiền, nhưng cũng không bỏ hút thuốc. Ông
Tư c̣n có chút máu nghệ sĩ . Ông thổi kèn hắc tiêu rất đạt, nên lâu
lâu theo người bạn Mỹ gốc Phi Châu đến các hộp đêm thổi kèn chơi,
không lấy thù lao. Ông có chân trong một ban nhạc tài tử, lâu lâu đi
tŕnh diễn ở các nơi công cọng. Ông Tư có sáng tác vài bản nhạc,
nhưng không ai hát, và hát không ai nghe, không ai khen, nên ông
không sáng tác nữa. Ông Tư cũng thích đọc truyện, đọc thơ. Ông cũng
có làm thơ, nhưng bà Hoa là vợ ông, khuyên đừng để cho ai biết những
bài thơ đó do ông viết, v́ người sợ người ta cười lây cả bà. Ông
nghe vợ chê, năn ḷng, không muốn làm thơ nữa. Tuy nhiên, có nhiều
khi cao hứng, không cầm được cảm xúc, ông cũng làm thơ chơi, và dấu
kín, v́ sợ vợ đọc được chê bai.
Một người bạn của ông Tư cũng thích thơ phú, thường cùng ông ngâm
vịnh khi nhàn tản, một hôm nghe ông nói về quan niệm cuộc đời, lẽ
sống và cái chết. Ông nầy ngồi nghe mà đờ ra, và nói:
- Bác chờ chút, tôi lục t́m bài thơ của một ông bạn tôi, sao mà ư
tưởng của bác với ông kia trùng nhau, như cùng học một sách. Kỳ lạ
ghê. Lần đầu đọc bài thơ nầy, tôi khoái quá, phải xin ông bạn cho
tôi mượn, chạy ra phố, chụp lấy một bản, c̣n cất giữ đây.
Ông Tư cầm lấy bài thơ dài, vừa đọc vừa gật gù, đọc xong ông vỗ đùi
sung sướng, nói:
- Tuyệt. Hoàn toàn giống hệt suy nghĩ của tôi. Bác đem tôi đến giới
thiệu tác giả bài thơ nầy đi. Bác xem đấy, đâu phải một ḿnh tôi suy
nghĩ khác đời đâu. Có nhiều người cùng một ư nghĩ, nhưng không dám
nói ra, không dám thi hành. Đúng như cụ Nguyễn Công Trứ có viết là
chỗ ta ngồi hiện tại, người xưa đă ngồi rồi. Tôi dốt chữ Hán, nhớ
mang máng h́nh như là “Ngă kim nhật tại tọa chi địa, cổ chi nhân tằn
tiện ngă tọa chi” . Mấy ông Tây cũng từng viết là dưới ánh mặt trời
nầy, không có cái ǵ mới cả. Những suy nghĩ của tôi về cái chết, sự
sống, người xưa cũng đă viết nhiều, tàng ẩn bàng bạc trong kinh
Thánh, kinh Phật. Ngày xưa khi c̣n nhỏ, bố mẹ tôi gởi tôi vào học
nội trú trường đạo Thiên Chúa, mỗi ngày mỗi đêm đều đọc kinh Thánh.
Hồi đó tôi không hiểu hết ư nghĩa của kinh, tôi tưởng lầm đọc kinh
là ngày đêm kêu gào sự xót thương của Chúa. Tuổi trẻ ngu muội và
ngông cuồng nên tôi không có cảm t́nh với chuyện kinh kệ, nhưng khi
lớn lên, đọc lại kinh Thánh, tôi thấy hay quá ông ạ. Lời kinh an ủi,
vỗ về con người trong khổ đau, trong bước đường hoạn nạn, khi gặp
cam go ch́m nổi, t́m được yên b́nh để chịu đựng mà hy vọng qua khỏi
nghịch cảnh.
Ông bạn cười, nói:
– Tôi thấy nhà bác thờ Phật, mà lại nói chuyện Chúa rành rẽ. Bác có
theo đạo Cao Đài hay không?
- Không phải đạo Cao Đài, nhưng Phật Chúa ǵ cũng hoan nghênh. Bà xă
tôi vẫn thường đi chùa. Ngày xưa khi c̣n trong quân đội, đóng quân
giữa núi rừng, mẹ tôi gởi cho mấy bộ kinh Phật, không có sách vở,
báo chí, buồn mà đọc chơi. Không có tâm tu hành, nhưng đọc măi, nó
thấm vào trong tư tưởng lúc nào không hay. Bỡi vậy, tôi có quan niệm
rất rơ ràng về sự sống, cái chết, và b́nh tỉnh đón nhận như một lẽ
thường của trời đất, tạo hóa.
Hai người đang nói chuyện, th́ có bà bạn ghé chơi. Bà nầy yêu cầu
ông Tư và bạn ông đóng tiền để mua đất chôn cất và xây mộ cho một
người đồng hương Việt Nam nghèo mới chết. Gia đ́nh không đủ tiền để
làm ma chay và mua đất chôn ở nghĩa trang. Ông Tư móc ví, đóng ba
chục đồng, và nói:
– Kêu gọi th́ tôi đóng tiền, chứ thực t́nh trong ḷng tôi nghĩ khác.
Chết th́ hỏa thiêu là đẹp nhất, tốt nhất và lại vệ sinh. Chôn xuống
đất cho ḍi bọ nó rúc rỉa, cho śnh thối chứ có được ǵ. Một vạn cái
xác, mới có được một cái không thối rữa, mà cũng khô đét nằm nhăn
răng ra, hôi hám xấu xí. Nằm chật chội trong tối tăm âm u, dưới đất
lạnh lẽo, chứ có sung sướng ǵ đâu. Rồi lâu ngày, thịt da cũng rữa,
xương cũng mục. Được bao nhiêu năm? Mà cứ nghĩ kỹ xem, nếu mỗi người
chết phải có một nấm mồ chừng hai thước vuông, th́ trên thế giới nầy
từ triệu năm trước đến nay, và nhiều triệu năm sau nữa, tỉ tỉ người
đă chết và sẽ chết, lấy đâu ra đất mà chôn. Không lẽ cả thế giới nầy
chẵng c̣n một tấc đất mà trồng trọt, nhịn đói chết hết sao? Nhiều xứ
văn minh hiện nay, người ta thiêu xác. Bên Nhật, bên Tàu, Ấn Độ và
nhiều xứ khác nữa, người chết được hỏa thiêu. Đạo Phật chính tông,
th́ các tăng ni đều được hỏa táng, nhưng những người theo đạo Phật
nửa vời, th́ lại chôn cất. Bày đặt ma chay linh đ́nh cho thêm tốn
kém.
Bạn ông Tư hỏi:
- Có phải người theo đạo Chúa không dám hỏa táng? Nghe đâu họ tin có
ngày phán xét cuối cùng, và được sống lại. Bỡi vậy nên phải giữ thân
thể, không muốn thiêu tan thành tro bụi.
Ông Tư cười lớn nói:
- Chờ đến ngày phán xét cuối cùng, th́ sắt đá cũng đă mũn ra tro
bụi, nói chi đến cái thân xác mong manh? Có lẽ những kẽ mê tín, kém
hiểu biết, diễn dịch sai ư nghĩa của kinh Thánh chăng? Mà dù cho
xương cốt có c̣n, th́ cũng chỉ là bộ xương cũ mục, làm sao mà sống
lại trên bộ xương đó được?
- Nghe đâu các nghĩa trang cũng chỉ bán đất trong ṿng một trăm năm
thôi- Bà bạn bàn thêm – Sau một trăm năm th́ không biết họ có đào
lên, đem chôn ở hố tập thể, hoặc đem thiêu đốt đi chăng? Nhưng khi
mua đất chôn, thân nhân, không nghe ai nói đến điều nầy. Mà dù cho
chủ nghĩa trang có hứa miệng là bán đất vĩnh viễn, th́ sau một trăm
năm, họ đào bỏ đi, cũng chẵng ai hoài công đi kiện. Lời hứa trăm năm
trước con cháu không nghe, không c̣n chứng cớ, cả người hứa hẹn lẫn
người nghe hứa hẹn, đă chết từ lâu. Mà có lẽ con cháu cũng v́ lo làm
ăn, sinh kế, đi tứ tán, không ai c̣n đoái hoài chi đến mấy ngôi mộ
của tiền nhân trong các nghĩa trang đây đó.
Bạn ông Tư nói:
- Trong phim tài liệu về Tây Tạng, ở đó đạo Phật là quốc giáo, ông
Phật sống cai trị dân như vua. Khi có người chết, th́ họ quàng dây
kéo lê lên núi, sau đó mấy ông chuyên môn chặt xác chết ra nhiều
khúc, và ném cho chim kên kên ăn. Trông khiếp lắm. Không biết họ làm
như thế, có đau ḷng thân nhân ? Rơ như câu nguyền rủa ở xứ ḿnh là
“ chim tha quạ rỉa”.
- Chẳng có đau ḷng chi cả – Ông Tư bàn thêm – Bên đó toàn đá núi
cứng. Muốn đào đá ra làm huyệt mộ cũng quá cực khổ. Thân nhân người
chết, dẫu có muốn chôn cất đến mấy cũng không ai làm nỗi việc đó.
Cho chim ăn là tiện nhất. Có điều, không biết làm sao chim kên kên
không lây bệnh người chết, biết bao nhiêu là bệnh nan y, vi trùng,
vi khuẩn. Bỡi thế, nên tôi cho hỏa thiêu là sạch sẽ và tiện lợi
nhất.
Câu chuyện bàn rộng đến phong trào Việt Kiều về quê xây lăng mộ cho
thân nhân, cho tổ tiên, đến nỗi có nhiều làng thi đua xây cất cho
nguy nga, cho to lớn. Thấy lăng mộ người khác lớn hơn, th́ đập cái
cũ ra, xây lại cho lớn, cho đồ sộ hơn. Có nơi người ta đặt tên là
Làng Ma, v́ toàn cả lăng mộ. Ông Tư cho rằng, xây lại mồ mả cho tổ
tiên để báo hiếu, cũng là một hành động tốt, không có chi sai trái.
Nhưng thi đua nhau xây và xây cất có tính cách phô trương th́ chỉ
làm tṛ cười cho thiên hạ. Liệu những phần mộ kia đứng vững được bao
nhiêu năm, và c̣n được con cháu chăm sóc đến bao giờ? Rồi cũng có
ngày trở thành hoang phế, chẵng ai đoái hoài đến, mà mục rữa với
thời gian. May ra, những nơi thiêng liêng như đền quốc tỗ Hùng
Vương, lăng mộ các bậc anh hùng giữ nước, dựng nước, mới được con
cháu tiếp tục tu sửa chăm nom. Thế mà cũng có c̣n tả tơi, tàn tạ,
không ai chăm nom. Huống chi ḿnh, là thứ thường dân, vô danh tiểu
tốt, chưa làm được ǵ. Chưa kể những kẽ là tội đồ của dân tộc, bày
đặt xây lăng ướp xác, như các ông lảnh tụ cọng sản từ Âu sang Á, từ
từ rồi mồ mă cũng bị phá bỏ , san bằng. Bỡi thế, ông Tư dặn vợ con
đừng xây mộ, tạc bia cho ông làm chi.
Ông Tư mượn bài thơ của ông bạn về đánh máy và sắp xếp lại cho đẹp,
in ra nhiều bản, phóng ra một bản lớn, để dành khi ông chết sẽ sử
dụng.
Chỉ bốn tháng, sau khi được báo tin ung thư, ông Tư qua đời mà không
đau đớn nhiều, không dùng hóa học trị liệu trước khi chết. Có người
mách cho ông nhiều loại thuốc ngoại khoa, ông cũng dùng thử. Trong
giới bạn bè thân t́nh, có người nói là ông Tư đă tự chọn lấy con
đường ra đi nhẹ nhàng, không để bệnh hoạn hành hạ trước khi chết.
Ông Tư thường đùa rằng, c̣n nước th́ c̣n tát, biết là dù có tát th́
thuyền cũng ch́m, th́ quẳng gàu đi cho đở mệt trước khi thuyền ch́m.
Bà con bạn bè đến viếng tang ông Tư tại nhà, khi bước vào cỗng, họ
cố sửa soạn lại bộ mặt cho có vẽ buồn rầu, nghiêm nghị, để hợp với
cảnh tang ma, dù trong ḷng họ không có chút bi ai nào. Nhưng họ
nghe có tiếng nhạc vui đang rộn ră vẵng ra từ bên trong, ḥa với
tiếng nhạc là tiếng cười vui vang vang, tiếng ồn ào. Người nào cũng
giật ḿnh, vội vả xem kỹ lại số nhà, sợ đi lầm.
Vào nhà, mỗi khách viếng tang được phát một tờ giấy màu hồng, bên
trên ghi bài thơ “ Sau Khi Tôi Nhắm Mắt”. Bài thơ cũng được chụp
phóng lớn, dán trên tấm bảng che kín cả một bức tường. Khách và chủ
đang vui vẻ chuyện tṛ, cười đùa. Không thấy quan tài ông Tư đâu cả.
Trên bệ thờ có cái ảnh ông Tư phóng lớn, miệng cười toe toét, tóc bù
gió lộng. Trước tấm ảnh có cái hộp vuông chứa tro xương của ông Tư.
Tiếng nhạc vui vang vang từ máy hát. Bài thơ in đậm nét:
Sau Khi Tôi Nhắm Mắt.
Khi tôi chết, viếng tang đừng buồn bả
Cười cho to, kể chuyện tếu vui đùa ,
Trong sáu tấm biết chắc tôi hả dạ,
Lên tinh thần, ấm áp buổi tiển đưa,
Nếu làm biếng, cứ nằm nhà thoải mái
Viếng thăm chi, vài phút có thêm ǵ ?
Mắt đă nhắm. Lạnh thân. Da bầm tái .
Dẫu bôi son, trát phấn cũng thâm ch́ .
Tôi đi trước, hẹn gặp nhau ở đó,
Ai thay da măi măi sống trăm đời .
Kẽ trước người sau, xếp hàng xuống mộ
Biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi .
Nếu có khóc, khóc cho người c̣n lại,
Bỡi từ nay thiếu vắng nỗi đầy vơi .
Cũng mất mát, dáng h́nh , lời thân ái
Tựa nương nhau, hụt hẫng giữa đất trời .
Đừng đăng báo, phân ưu lời cáo phó
Chuyện thường t́nh, phí giấy có ích chi ?
Gởi mua gạo, giúp người nghèo đói khó
Dịu đau buồn những kiếp sống hàn vi,
Trỗi nhạc vui cho người người ư thức,
Cuộc nhân sinh sống chết cũng tương đồng,
Khi nằm xuống, xuôi tay và nhắm mắt
Th́ đau buồn hạnh phúc cũng hư không .
Đừng xây mộ, khắc bia ghi tên tuổi
Vài trăm năm hoang vắng, chẳng ai hoài .
Vũ trụ vô cùng, thời gian tiếp nối,
Tỉ tỉ người đă chết tự sơ khai
Khi tôi chết đừng ma chay đ́nh đám,
Hỏa thiêu tàn, tro xác gởi về quê
Dẫu bốn biển, cũng là nhà, bầu bạn
Trong tôi c̣n tha thiết chút t́nh mê
Th́ cũng C, H, O, N kết lại
Nắm tro xương hài cốt khác nhau ǵ
Nhưng đất mẹ chan ḥa niềm thân ái
Cho tôi về, dù cát bụi vô tri.
Khi đọc xong bài thơ, có người th́ mĩm cười, có người vui hẵn, và
nói chuyện oang oang. Họ cho rằng bài thơ đă nói hết ư nguyện của
người chết. Người chết không muốn bạn bè buồn rầu, thương tiếc, th́
việc chi mà lại làm bộ, gượng gạo tạo ra nét buồn khổ trên mặt.
Vợ con người chết cũng không tỏ vẽ buồn rầu, mà cũng không hớn hở.
Không một tiếng khóc lóc, thở than. Nhạc vui vẫn dồn dập phát ra từ
máy vang dội. Khi khách đă đến chật nhà, và đúng giờ cử hành tang
lễ, bà vợ ông Tư và đứa con trai mang áo quần trắng đứng chắp tay
bên bàn thờ, cô con gái đứng bên tấm ảnh ông, cầm máy vi âm nhoẻn
miệng cười và nói:
- Thưa các cụ, cô bác chú d́, bà con bạn bè thân thiết xa gần, chúng
tôi xin cám ơn quư vị đă có ḷng đến viếng tang Ba chúng tôi. Tang
lễ nầy làm theo ư nguyện của người quá cố. Không làm tang lễ theo
tục lệ b́nh thường, v́ sợ trái với ước vọng cuối cùng của Ba chúng
tôi. Chúng tôi xin nhận lấy mọi lời trách móc nếu có từ bà con bạn
bè. Ba chúng tôi đă b́nh tĩnh và vui vẻ đón cái chết như một sự trở
về không tránh được. Trong những ngày cuối của cuộc đời, Ba chúng
tôi rất vui, chuẩn bị kỹ cho gia đ́nh và cho chính ông. Ông đă dặn
ḍ chúng tôi, không nên khóc lóc, không nên buồn rầu, v́ sự thực
không có chi đáng buồn cả. Ông dặn chúng tôi vặn cuốn băng sau đây
cho bà con cô bác nghe.
Người con gái đến bên bàn thờ, bật máy , có tiếng ông Tư cười hăng
hắc vui vẻ, làm một số người không cầm được, cũng cười theo. Một vài
bà yếu bóng vía sợ xanh mặt. Sau tiếng cười chào, th́ có tiếng ông
Tư đọc bài thơ dán trên tường, giọng đọc rất chậm răi, rơ ràng, như
đang nói chuyện thủ thỉ với bạn bè. Mọi người im lặng lắng nghe,
người th́ nghiêm trang, người th́ mĩm cười. Giọng Huế của ông Tư đọc
chậm và ngân dài những đoạn ông đắc ư : “Tôi đi trước, hẹn gặp nhau
ở đó . Ai thay da măi măi sống muôn đời, Kẽ trước người sau xếp hàng
xuống mộ, biết đâu là khởi điểm cuộc rong chơi.” Cuối cùng, có một
tràng cười ha ha của ông Tư để chấm dứt bài thơ. Sau bài thơ, có ba
ông người Mỹ, hai ông da đen, một ông da trắng, cầm đàn và kèn trỗi
lên mấy khúc nhạc vui, các ông nhún nhẫy uốn éo, nhiều lúc dậm chân
xuống sàn. Ba ông cùng lúc lắc, làm hàng một, đi quanh pḥng khách,
như múa lượn trước bàn thờ ông Tư. Những ông nầy, là bạn chơi nhạc
với ông Tư tại các quán ca nhạc ban đêm.
Bỗng nhiên, bà chị ông Tư nhào ra, lăn lộn trước bàn thờ mà khóc lóc
gào lớn:
- Cậu Tư ơi là cậu Tư. Chúng nó đem cái chết của cậu ra mà bêu rếu
họ hàng. Vợ cậu muốn đi lấy chồng sớm nên bày ra cái cảnh chướng tai
gai mắt nầy. Con cậu cũng là thứ bất hiếu bất mục, cha chết mà không
có một giọt nước mắt, c̣n cười nói lung tung. Chỉ có tôi là chị câu,
thương cậu thật t́nh thôi, ruột đứt ḷng đau, nên khóc than đây.
Ông chồng chạy đến ôm bà kéo ra, và nhỏ nhẹ giăi bày. Bà vùng vằng
và càng khóc lớn hơn, xỉ vả bà Tư những câu tục tỉu nặng nề. Bà Tư
ôm mặt khóc lóc. Bà chị chồng nói lớn: “Mai mốt chúng mày chết, bà
đến phóng uế lên ḥm chúng mầy”. Nhiều người bà con đến phụ ông
chồng lôi bà chị ông Tư ra xe chạy đi.
Khách viếng tang lảng ra, và có người lẵng lặng ra về không chào hỏi
ai, v́ sợ gia quyến ngượng ngùng. Cô con gái ông Tư đứng ra xin lỗi
mọi người v́ chuyện không may, không vui vừa xẫy ra.
Một bạn thân của ông Tư, quen nhau từ thuỡ trung học, đại diện bà
con, đến trước bàn thờ, vỗ vào hộp tro xương, cười ha hả và nói:
- Tư ơi, ông là số một rồi đó, chả có ai bằng ông. Ông hiểu tận
tường lẽ huyền vi của tạo hóa. Sống cũng vui, mà chết cũng vui. Sống
cũng dám làm, mà chết rồi cũng dám làm, và làm được. Tôi cũng ước
mong rằng, sau khi chết, vợ con làm cho tôi một đám tang như thế
nầy, th́ vô cùng sung sướng. Tưởng ông nói đùa chơi, ai ngờ làm
thật.
Một vị mục sư là bạn thân của gia đ́nh, cũng đến trước bàn thờ, và
đoan chắc rằng bây giờ ông Tư đă được về với Thiên Chúa. Ông cho
rằng thái độ của ông Tư trước cái chết rất sáng suốt, đáng khâm
phục, và đáng được mọi người noi theo. Một vị sư già, có bà con họ
hàng với ông Tư, đă từng viết nhiều sách Phật và rao giảng đạo từ
bi, nói trước linh vị :
- Bần đạo không cần đọc kinh cầu siêu cho thí chủ. Bỡi linh hồn thí
chủ đă thực sự siêu thoát trước khi chết. Thí chủ không vướng bận
cơi trần, không hệ lụy vào cái thân xác tạm bợ. Thanh thản ra đi như
kẽ đi chơi, thong dong, dễ dàng. Thí chủ đă hiểu thấu đáo cái lẽ vô
thường trong đạo pháp.
Mọi người ra về, ḷng nhẹ nhàng, tưởng như đi trong mơ. Từ phía nhà
ông Tư, c̣n vang vọng nhạc vui đưa tiển đám tang khách.
Sau tang lễ, bà Hoa vợ ông Tư thở phào. Bà vui mừng v́ đă làm được
đúng lời căn dặn của chồng mà không bị tai tiếng. Bà chỉ sợ tai
tiếng thôi. May mắn, đa số bà con đều tán thành nghi thức tang lễ,
và nếu không tán thành, họ cũng im lặng, chỉ có bà chị ông Tư gây
rắc rối thôi.
Nắm tro xương của ông Tư được vợ con gói kỹ bốn năm lớp, bỏ vào hộp
bằng chất nhựa dày, để cho khỏi vỡ, rồi gởi bảo đảm về Việt Nam.
Chiếc xe chở hàng của hăng vận chuyển bị tai nạn trên đường ra phi
trường. Xe rơi từ cầu xa lộ cao ba từng xuống đất, thùng xe vở nát,
hàng hóa tung vung văi, rách nát, cháy xém. Anh tài xế gảy hết tay
chân và xương sống, hấp hối. Người ta đồn rằng anh tài xế buồn v́ bị
vợ cắm sừng, đă uống rượu say xỉn, không điều khiển được tay lái.
Cái hộp tro xương của ông Tư bị rách và cháy xém mất một phần địa
chỉ, được gởi lầm đi ngao du qua xứ Nambia bên Phi Châu. Cô con gái
ông Tư hỏi tin tức bên nhà hàng ngày, qua liên mạng máy vi tính, về
cái hộp tro xương, măi đến hai ba tháng vẫn chưa nhận được. Bà Hoa
viết nhiều thơ khiếu nại hăng chuyên chở. Họ trả lời là sẽ bồi
thường cho bà hai trăm sáu mươi tám đồng. Bà Tư khóc lóc, thuê luật
sư đâm đơn kiện. Sáu tháng sau, nhờ c̣n có địa chỉ người gởi, nên
cái hộp tro xương được hoàn trả cho gia đ́nh, với ghi chú là không
có địa chỉ người nhận. Bà Hoa mừng ôm cái hộp mà khóc ṛng.
Lần nầy, bà Hoa quyết định tự tay đem hộp tro xương ông chồng về tận
Việt Nam. Bà sợ thất lạc thêm lần nữa, th́ tấm ḷng hoài vọng quê
hương của chồng bà không được măn nguyện, và bên kia cơi đời, ông Tư
không yên ổn mà an giấc ngàn thu.
Tràm Cà Mau
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”