Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Hà Nam Ninh năm 1978, trong trại giam tù cải tạo miền Nam.
Một hôm Hảo và một số anh em được cắt làm vệ sinh tổng quát nơi ăn chốn ở theo định kỳ. Công việc gồm quét rác, cào, hốt. Xong th́ anh em chia từng cặp gánh rác đi đổ tại băi bên ngoài trại, nơi cách cổng chính chừng trăm thước. Cặp Hảo đi hàng thứ tư. Đến băi đổ rác th́ hô một… hai… ba… hất.
Cái càng xé rác nhảy xuống, nhồi lên một cái nhẹ rồi lật ngang. Anh bạn của Hảo dùng chân đẩy vào hông nó cho lật úp. Tất cả rác lọt ra bên ngoài.
Hảo cúi xuống lật càng xé lên, xỏ cây đ̣n vào quai để mang về trại bỗng thấy gần đó một cuốn sách to cỡ bàn tay người lớn, bề dày cũng đến gần tấc tây. Cái b́a màu đỏ của nó bị cháy gần hết. Ruột sách ướt nhẹp. Trên trang đầu chi chít chữ tàu. Nh́n kỹ mới thấy đó là cuốn tự điển.
Tự điển thường là loại sách được biên
soạn rất công phu. Người soạn phải bỏ vào đó rất nhiều tâm huyết và
hoài băo. Nh́n sách đó thấy dường như nó có hồn.
Anh bạn của Hảo lúc đó đang đứng nh́n về hướng Tây, nơi anh nói là
làng Non. Thời anh chín, mười tuổi đă sống ở đó với nhiều kỷ niệm
khó quên. Nh́n xong về hướng quê cũ xong, anh vươn vai, uốn éo mấy
cái cho giăn gân cốt.
Hảo kéo miệng càng xé đền gần cuốn sách rồi dùng chân mà kín đáo vít nó vào bên trong. Trên đường vào trại, anh bạn đó không hề biết rằng anh ta và Hảo đang gánh một gánh chữ trên vai.
Vào đến lán, Hảo t́m một chỗ thật kín
mà cất quyển sách vừa lượm được. Xong th́ ra giếng kéo nước rửa mặt,
rửa tay chân rồi trở vào lo đến quyển sách kia.
Như đă nói, cuốn sách đă phải hứng chịu sương gió trong nhiều ngày
nên mọi trang của nó đều bị ướt; không phơi phong cẩn thận th́ sách
sẽ bị ră ra. Sau rồi cũng phải t́m cách đóng nó lại cho chắc chắn.
Nh́n cuốn sách, Hảo nghĩ rằng nó đang lắng nghe, và biết rằng đời của nó chỉ tùy vào sự phán quyết của Hảo. Rồi như nghe lời nó than thở: “Tôi bị như thế này v́ tôi phải bị như thế này. Ông thương th́ tôi c̣n. Ông không thương th́ tôi tiêu.” Tự nhiên Hảo thấy ḿnh thành quan trọng mà rồi nghĩ thương cho ḿnh và thương cho quyển sách kia quá chừng. Hảo thấy ḿnh phải giữ nó bằng mọi giá.
Bắt đầu là phơi. Hảo để nó vào túi một cái áo, mang ra sân phơi rồi vào ngồi ở hiên nhà gần bên mà canh chừng. Khi nắng đổi chiều th́ ra quay cái túi có đựng sách vào đúng hướng có nắng. Đêm th́ ủ nó trong chăn cho nó… chóng khô. Mất tất cả năm buổi phong phơi và sáu đêm ấp ủ như thế, cuốn sách mới được gọi là… bớt ẩm; nhưng từng tờ sách th́ cong queo. Cái này là việc nhỏ. Xếp các trang lại cho ngay ngắn rồi lót đầu nằm chừng vài tuần, vài tháng, vài năm th́ dù các trang giấy có bị nhăn hay cong chi cũng phải được uốn ngay lại. Rồi khi xếp trang đầu mới thấy đó là cuốn Hán-Hán Tự điển do tác giả là Vương Vân Ngũ biên soạn và ấn hành năm 1954 tại Hương Cảng. Như vậy, nói theo Tử Vi th́ nó sinh năm Giáp Ngọ, nhưng sinh vào tháng nào, ngày nào, giờ nào mà thụ nạn ở tuổi 24?
Hảo đi gặp một bạn mà cũng là thầy Tử vi có tiếng trong trại nhờ xem cho sách một quẻ. Thầy nghe tuổi xong bèn bấm mấy đốt ngón tay, miệng thầy lẩm bẩm những tiếng Tí, Ngọ, Măo, Dậu, tiếp theo là Th́n, Tuất, Sửu, Mùi rồi phán: “Tuổi Ngọ đi với Giáp, mà có nhiều hung tinh thủ mệnh lại có Mă, Khốc, Khách xung chiếu vào đại hạn hai mươi th́ coi chừng bị chết yểu. Nhưng nhờ Mệnh vô chính diệu, tuy bị nạn mà có ‘quới nhơn’ pḥ hộ nên không hề ǵ.”
Rồi ông thầy hỏi: “Ủa, mà bồ nhờ coi giùm cho ai vậy?”
Hảo chỉ cười rồi biếu ông thầy một bi thuốc lào hiệu 888, ướp sen, loại say, để cơm chiều xong th́ thầy bỏ vào nơ điếu, mồi lửa mà kéo.
Đến đó th́ Hảo rất mừng. Thầy nói số nó không hề ǵ. Đó là một cuốn sách hiếm thấy. Cách tŕnh bày rất gọn, không nặng nề. Đặc biệt là Vương tiên sinh có bày ra cách tra chữ Hán theo tứ giác.
Cái dễ sợ của hầu hết tự điển chữ Hán là sự tra chữ ḿnh muốn t́m. Có cách tra chữ theo giọng đọc. Phải học thuộc vần bơ, phơ, mơ và phát âm cho thật đúng giọng mới có thể tra chữ theo lối này. Có cách tra theo bộ. Phải biết chữ ḿnh muốn t́m viết với bộ nào trong những bộ như: thủy, thổ, hỏa, thảo, mộc, quyết, trảo, mịch, cung, hệ, trùng, nữ, vân vân. Lại c̣n cách tra theo kiểu đếm nét. Phải biết chữ đó viết với mấy nét! Trong chữ Hán, có chữ được viết với đến hơn ba mươi nét! Rủi gặp nạn máy in cũ, chữ bị nḥe, nh́n vào thấy mỗi chữ là một đốm đen như con ruồi. Khi đó đối với ai không thuộc ḍng Thiên Tử có chút học vị th́ tất cả mấy cách tra phổ thông trên đây đều gây hăi hùng.
Có lẽ bản thân lúc nhỏ đă bị nhiều phen hăi hùng như thế nên Vương tiên sinh mới nghĩ ra cách tra chữ theo tứ giác.
Đọc lời chỉ dẫn ở mấy trang đầu của sách th́ thấy cách tra kiểu này gồm ba bước. Đầu tiên là tưởng tượng chữ nằm trong một ô vuông. Kế đó là nh́n từng góc – bắt đầu từ góc trên phía trái, tiếp theo là góc trên bên mặt, rồi góc dưới bên mặt và sau cùng là góc dưới bên trái – thấy có dấu ǵ trong mấy dấu như: ngang (1), sổ (2), một chấm (3), chữ thập (4), hai ngang một sổ (5), h́nh vuông (6), góc cạnh vuông (7), mái nhà (😎, một sổ hai chấm hai bên (9). Nếu ở góc chữ không có dấu ǵ th́ đánh cho con số 0. Bước cuối là mở tự điển ra t́m nhóm bốn số đó. Thí dụ như t́m nhóm số 4543 th́ thấy có chữ Hán gồm bộ Nữ với chữ Đệ, đọc là D́, nghĩa 1- thê đích tỉ muội, tức là em gái của vợ, nôm na là d́ xấp nhỏ, nghĩa 2-mẫu thân đích tỉ muội, tức là chị hay em gái của mẹ, hay là bà d́ ruột. Nh́n nhóm số 4444 th́ thấy chữ gồm bộ Nữ với chữ Chi, đọc là Kĩ, nghĩa măi dâm đích phụ nữ, nói trại ra là chị em ta. Nhóm 4343 có bộ Nữ với bộ Lương, đọc là Nương, nghĩa thiếu nữnói nôm là cô gái, rồi cho thí dụ nương tử quân là nữ quân nhân. Nhóm 9406 có bộ Tâm cạnh bộ Cổ, đọc là Hỗ tức là nhờ cậy.
Biết tính cách đa dụng này của quyển tự điển rách nát ḿnh đang có trong tay, Hảo nghĩ rằng người chủ quyển tự điển sau khi bị mất nó ắt phải tiếc lắm.
Ông ta có thể là một cán bộ trong ban quản lư trại. Khi được lệnh bài Hán vào năm Việt Nam có chiến tranh lưỡng đầu thọ địch, một ở biên giới Tây Nam và một ở Việt Bắc th́ người cán bộ đó triệt để vứt sách quí của ḿnh đi. Chủ nhân cũng có thể là một trong số anh em tù cải tạo. Hảo linh cảm cho thuyết thứ hai là đúng.
Từ đó, Hảo nghĩ thêm rằng ông bạn tù này là người rất yêu sách. Hảo tưởng tượng nỗi buồn của ông khi bị mất người bạn đồng hành cao giá này. Rồi từ đó chàng nghĩ đến nỗi vui của ông khi biết có người may mắn tóm được cuốn sách quí của ông bị thất lạc, tân trang tàm tạm, và bảo quản an toàn.
Trong Thánh Kinh Công giáo có đoạn nói về một người chủ chăn một hôm khám phá thấy có một con cừu bị lạc. Ông giữ tất cả bầy lại một chỗ để đi t́m cho bằng được con bị thất lạc mang về. Con người chỉ thật sự thương tiếc những ǵ không c̣n thuộc về ḿnh nữa. Thế nhưng trong hoàn cảnh như trên, Hảo không sao rao hỏi để t́m cho ra ai là người chủ thật sự của cuốn sách. Một trong nhiều khuôn vàng thước ngọc ở trại tập trung nào bao giờ cũng là tam không: không thấy, không nghe, không biết.
Từ ngày xí được cuốn tự điển quí giá đó Hảo xem ḿnh như may mắn có được thầy Đồ ngay bên cạnh. Đọc sách thấy có chữ nào không hiểu trọn nghĩa, Hảo bèn kín đáo hỏi thầy là xong. Điều thú vị là thầy đồ của Hảo không mệt mỏi, không giận khi bị hỏi hoài, không câu nệ giờ giấc.
Một anh bạn Hảo có nhặt đâu được mấy trang lẻ trong sách Thiên hồ! Đế hồ! (Trời ơi! Thượng Đế ơi!) của cụ Phan Bội Châu viết thời sống lưu vong ở thành phố Thượng Hải bên Tàu. Anh bạn này trước kia là một cử nhân Hán học. Đọc mấy trang sách lượm được đó, thấy chữ nào quá mắc mỏ th́ anh hỏi thầy Đồ. Những câu trả lời của thầy th́ thật là… đúng y sách.
Cứ thế mà thầy đồ đă ở với Hảo hơn mười năm. Chữ nghĩa thầy một bồ. C̣n Hảo th́ xem trước quên sau. Xem sau lại quên trước. Tuổi già lú lẫn. Ai chẳng thế?
Trong suốt thời gian nầy, Hảo không bao giờ nặng tay đối với cuốn sách quí giá đó. Ngay chỗ để nó, Hảo cũng lựa một nơi cao ráo, không bị mưa hắt vào, không lộ liễu khiến ai có thể nh́n thấy. Sau đó, Hảo nhờ anh bạn thân chỉ cho cách đóng sách. Học cách đóng sách xong phải chờ đến dịp Tết ta, trại viên được nghĩ lao động liền mấy ngày, được ăn cơm trắng mới dành một ít cơm đủ dán những tờ sách lại với nhau. Khi hoàn thành sản phẩm th́ Hảo lại c̣n cẩn thận tạo cho sách cái b́a bằng một tấm giấy bao xi măng chàng nhặt được và để dành từ lâu trước đó. Bên ngoài tờ b́a Hảo dùng bút bi viết rồi tô đậm mấy chữ Nam Dược Thảo, nghĩa là Sách Thuốc Nam.
Mỗi lần chuyển trại hay chuyển buồng,
cuốn tự điển này luôn đứng đầu trong danh sách những vật bất khả ly
thân. Khi đến nơi mới, việc đầu tiên là để nó vào nơi an toàn nhất.
Xong mới đến những thứ khác.
Ở địa phương đó, vào thời điểm đó, người tù cải tạo luôn luôn bị
động; không khi nào ở đâu luôn được nhiều ngày. Ba tháng là cùng.
Đến nơi mới chừng bằng thời gian như thế là bị chuyển đi nơi khác.
Việc chuyển trại đúng là cái việc làm hoài thành quen. Thế mà lần
nào chuyển trại th́ ḷng Hảo cũng thấy nao nao.
Hảo có ba bao vải dùng cho việc di
chuyển. Một có quay đeo vai; cái bao này được may trong tù bằng một
chiếc mền cũ của anh bạn có dư nên tặng cho. Hai bao cói c̣n lại th́
mỗi tay xách một cái là xong.
Bao đeo vai chứa những thứ không thể thiếu. Bao mang bên tay mặt
chứa những thứ cần dùng hàng ngày. Bao bên tay trái được dùng đựng
những thứ ít quan trọng. Khi đang di chuyển mà bị đuối hơi th́ có
thể vất nó trước tiên. Rủi bị kiệt sức th́ vất luôn cái bên tay mặt.
Cái đeo trên vai bắt buộc phải giữ bằng mọi giá. Rồi cứ thế mà đi
theo anh em.
Lần di chuyển đó, Hảo nhớ ḿnh đă cho thầy đồ vào cái bao đeo vai và
buộc lại cẩn thận. Thời đó, người tù thường được lệnh di chuyển ban
đêm. Trời lại đổ xuống cho cơn mưa bụi từ sáng sớm, làm đường thành
lầy lội. Mang dép râu mà gặp phải śnh th́ chân đi một nơi, dép đi
một ngả. Gặp trường hợp này, cách tốt nhất là tháo dép ra, buộc
chúng chung lại với nhau rồi mang trên vai.
Hai bàn chân trần, ngập trong bùn. Từng ngón chân bên này bấm chặt vào mặt đất cho vững rồi mới lê chân bên kia. Mưa mang khí rét theo gió đêm thổi vi vu. Các ngón tay Hảo ướt sũng, nhăn nheo teo túm. Cái nón vải đội trên đầu mọng nước. Từ đó, nước rỉ ra, len xuống tóc thành từng ḍng, ḅ xuống cổ, qua lưng, rồi từ lưng xuống đùi mà hút hết thân nhiệt. Không lâu sau th́ tự nhiên cảm thấy run từ ruột gan, không sức nào kềm lại được. Hai hàm răng cũng khua lặp cặp. Lắng tai nghe th́ tứ bề chung quanh đều vang lên những tiếng răng khua vào nhau không ngớt.
Rời trại cũ khoảng tám giờ tối. Đến trại mới năm giờ sáng hôm sau. Đi bộ mười tám cây số trong mưa th́ mệt người bă ra. Lúc đến nơi, áo quần ướt mem, người run v́ rét. Trời c̣n tối. Vài ngọn đèn dầu được thấp lên. Thấy thức ăn nhiều gấp hai, ba lần ngày thường. Có cả hủ tiếu xào với một ít thịt heo. Toàn những thức ăn lâu ngày mới nh́n thấy bằng mắt mà không bằng tưởng tượng. Bộ sắp thả tù tết à? Ăn chi nổi. Cán bộ ṃ đến khuyên: “Cố mà ăn anh em nhé. V́ ngày mai… không có nhiều như thế nữa.”
Thật vậy, người miền Bắc Xă hội Chủ Nghĩa thời đó có điểm lạ. Đó là trước khi hay sau khi làm một công tác quan trọng, như di chuyển, hành quân, học tập chẳng hạn, th́ có bồi dưỡng. Tại sao bồi dưỡng? V́ ngày thường trừ số ít những ai hưởng chế độ đặc táo th́ mọi người ai cũng bị đói ăn.
Anh em thay bỏ quần áo ướt rồi mặc quần áo khô vào, đi nhận thức ăn đề dành cho buổi sáng. Xong th́ lo ổn định chỗ ở.
Trước tiên Hảo mở bao đeo vai ra. Khốn thay, móc cả đồ đạc trong đó ra mà không thấy thầy Đồ đâu cả! Nhớ lại từ đầu, chàng chắc ḿnh có để thầy vào cái bao ưu tiên mang lưng. Đề pḥng sách có thể bị ướt v́ nước mưa, chàng nhớ đă để nó nằm giữa các quần áo kia mà. Tuổi đời năm đó tuy cũng gọi là “tứ thập nhi bất hoặc”, nhưng trí nhớ làm ǵ mà bị suy kém đến thế?
Mở tiếp túi bên tay mặt, cái túi quan trọng thứ kế. Trớt huớt! Mồ hôi Hảo tuôn đầy mặt, tuôn ướt cả áo. Cái điều Hảo lo sợ nhất đă thành sự thật? Tay run run mở cái bao cuối cùng th́…y như gặp phép lạ: thầy Đồ đang nằm tênh hênh trong đó. Hảo mừng quên cả mệt, chụp lấy thầy đưa lên ngang tầm mắt nh́n cho thấy rơ đúng là thầy rồi bỏ ngay vào túi áo chàng đang mặc cho chắc ăn xong mới lo những thứ khác.
Gần chục năm sau, một ít anh em được tha về. Một số khác được đưa vào Nam tiếp tục bị giam giữ. Hảo và thầy Đồ thuộc số người c̣n ở lại.
Số người c̣n lại này ngày lại càng ít thêm. Lư do thỉnh thoảng có vài anh già yếu được gọi tên tha về. Lúc đó Hảo nghĩ rằng thầy đồ của Hảo c̣n một đức tính quí nữa là sự trung thành. Nó khiến thầy lẽo đẽo theo từng bước chân Hảo, những bước chân chỉ được rèn luyện để đạp lên chông gai mà đi. Đó là những bước chân đă hiện sẵn đâu từ tiền kiếp mà không bao giờ Hảo dám phủ nhận hay chối từ.
Trong số tù nhân cải tạo ở cùng trại với Hảo lúc bấy giờ có thượng tọa Thích Thanh Long. Tính ít nói, nhưng mỗi lời thầy là một điều tâm niệm, giúp nhiều anh em, trong đó có Hảo, cảm thấy được b́nh yên trong chốn lao lung triền miên năm này qua năm nọ. Thầy thường khuyên anh em Hảo nên b́nh tâm chấp nhận mọi thứ dù tốt hay không tốt đă xảy ra trên cuộc đời này. Chấp nhận mà không lên tiếng để biết đâu là cội nguồn của đau khổ, chấp nhận với đành tâm để không nổi loạn chống lại bản thân. Thầy nói với một nhóm anh em Hảo: “Không phải ra khỏi nơi đây là dễ. Và cũng không phải được vào đây là dễ. Phải có cái duyên đi liền với cái nghiệp.” Ôi cái chữ phải mà thầy dùng nó nặng kư sao đâu! Và từ đó anh em nhờ cái chữ phải này mà nh́n cuộc sống trong trại giam với con mắt trầm tư về bản thân ḿnh mà không c̣n giận hờn đời như trước. Nghĩa là khi bị ngả th́ đừng nh́n nơi ḿnh bị ngả mà nên nh́n nơi ḿnh bị trợt chân.
Sau rồi lệnh phóng thích được ban ra. Cái vui này kèm theo nỗi lo to lớn cho Hảo: trong giấy ra trại không có tên thầy Đồ.
Theo luật ban hành cho tất cả trại viên th́ người được phóng thích không phép mang một thứ ǵ ra khỏi trại, ngoài quần áo và thức ăn đi đường do trại cấp phát. Tài liệu giấy tờ, văn bản, sách vở thư từ phải được thiêu hủy tất. Mọi vi phạm có nghĩa là lệnh phóng thích bị hủy bỏ, và người tù liên hệ sẽ coi như ḿnh không c̣n có dịp may thứ hai về đoàn tụ với gia đ́nh.
C̣n hai ngày nữa là xuất trại lần cuối. Thời gian lại qua mau. Cán bộ nhắc lại nhiều lần rằng ngày rời trại, tất cả hành trang cá nhân đều bị khám lần chót tại cổng chính.
Trước kia có một ông bạn được tha trên một danh sách chỉ có độc tên ông. Vài bạn thân nhờ ông mang chui giùm mấy lá thư. Khi ông bạn xuất trại th́ chẳng may cán bộ khám thấy đồ cấm, nên giữ ông lại đến mấy năm trời rồi chuyển đi, được tha về nhà hay bị giam ở trại khác, không ai biết. Đàng nầy Hảo lại mang không phải thư chui mà là cả một cuốn sách chi chít những hàng chữ trong ngôn ngữ của lân bang phía Bắc mà lúc bấy giờ không c̣n bạn hữu, nên phải bị nghi là hoạt động t́nh báo cho địch. Với tội này, bản án kế tiếp sẽ là tử h́nh.
Buổi sáng ngày ra trại thấy có chừng năm sáu chục phóng viên báo chí đến chứng kiến. Tất cả họ thuộc các nước Tây phương – không một ai thuộc phe xă hội chủ nghĩa. Họ ào vào bên trong trại, được phép tiếp xúc với tù nhân bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Ai biết tiếng ǵ nói thứ tiếng đó. Một cặp vợ chồng phóng viên người Pháp đến chào Hảo.
Người chồng nói tiếng Việt rành rẽ: “Chúng tôi ở Bangkok, làm việc cho tuần báo Paris Match của Pháp xin hỏi một câu. “Gia đ́nh ông ở đâu trước khi ông đi vào trại ?”
Hảo trả lời: “Sài G̣n.”
Ông ta vừa cười vừa lắc lắc đầu, nói: “Tức là Thành Phố Hồ Chí Minh. Cái tên 5 chữ đó dài và khó đọc quá hả?”
Hảo nói: “Chúng tôi quen với cái tên Saigon. Tưởng ông cũng thế”.
Rồi Hảo hỏi:” Ông học tiếng Việt ở đâu mà nói rành quá vậy?”
Trả lời: “Tôi và bà … xă học tiếng Việt ở trường bên Pháp. Học theo cách ráp các vần A, B, C lại đàng hoàng mà. Chúng tôi nói được ba giọng Bắc, Trung và Nam.”
Rồi tiếp: “Ông có biết ông và các bạn ông ra trại lần này rồi không được ở nhà lâu hay không?”
Hảo hỏi lại: “Ông muốn nói chúng tôi sẽ bị bắt giam lại sao?”
Bà vợ ông ta nói thay: “Không đâu. Người Mỹ mua các ông cả rồi. Các ông sẽ bị phóng trục, tức là phóng thích để rồi bị trục xuất. Chúng tôi làm nghề báo nên biết cả.”
Chuyện nghe lạ tai, nhưng phản ứng tự nhiên theo chuẩn thức trong tù, chàng chuyển sang đề tài khác, hỏi: “Sau việc này th́ ông và bà đi đâu nữa?”
Bà trả lời: “Vào Nam.”
Hảo hỏi: “Bằng tàu bay?”
Ông chồng cười lớn tiếng, nói: “Giỡn mặt hoài, anh Hai? Chúng tôi đi theo chuyến tàu hỏa đưa quí ông đi Nam. Trước kia, mấy lần mua vé tàu bay, nhưng khi lên th́ thấy ghế ḿnh đă có người ngồi rồi.”
Đến lúc ra trại lần chót, Hảo xách một bao mang vai và một túi nhỏ theo anh em sắp hàng hướng ra cổng chính. Trong túi vải nhỏ đó có cuốn tự điển đang nằm chờ cơn thử thách cuối cùng. Nhưng Hảo đă hứa không bỏ thầy Đồ, và từ lâu chàng đă sống với lời hứa đó. Hảo sợ trong một lúc chỉ biết lo cho thân ḿnh mà bỏ thầy, về sau khi luống tuổi mà nh́n lại ḿnh, chàng sẽ bị luôn dằn dật nội tâm. Mặc dù việc riêng, chỉ có Hảo với thầy Đồ biết, nhưng sao bỏ lại cho đành? Lúc đó, thật t́nh mà nói, Hảo quí thầy hơn thức ăn hay tiền bạc.
Lúc đến phiên Hảo sắp mở túi hành lư của ḿnh ra cho cán bộ trại khám th́ có nhiều phóng viên đứng gần bên, đưa máy phim lên quay. Đèn chớp lóe lên từ bốn phía. Người trước nhích lên một bước. Hảo cũng nhích lên theo một bước.
Hảo chỉ đưa bao mang vai lên mặt bàn rồi lẹ tay mở nó ra. Túi con đựng cuốn sách th́ bỏ nằm ở mặt đất. Nếu t́nh thế căng quá, Hảo sẽ đứt ruột dùng chân đẩy nhẹ chiếc túi vải đựng quyển sách sang một bên là xong.
Người cán bộ một mắt nh́n sơ mớ đồ đạc của Hảo, một mắt liếc về phía phóng viên báo chí đang dương máy lên chụp. Rồi anh ta nh́n Hảo, nheo một mắt, miệng tươi cười rồi khoát tay cho đi.
Sau khi ra bên ngoài, sắp được về nhà với gia đ́nh, Hảo quay nh́n trại giam lần cuối. Bên trong c̣n lại khá nhiều anh em giờ đó không biết đang nghĩ ǵ về người, về ḿnh.
Hơn mười năm lận đận với nhau, cùng được nuôi bằng một loại thức ăn vật chất, cùng mang một nỗi suy tư, cùng thở một bầu không khí, cùng có một niềm hănh diện đối với lương tâm chính ḿnh, cùng biết nhau, biết từng tên, biết rừng tâm tính. Lúc chia tay thấy ruột gan ḿnh như bị dao cắt dọc ngang. Quê hương, đất nước và con người, cả ba ràng rịt với nhau thành một t́nh yêu ngang với ḷng ái quốc, nên đâu dễ bỏ nước mà đi. Ôi quê hương mến yêu. Bao nhiêu xương máu người dân đă bị hi sinh cho cuộc chiến tương tàn trong hàng bao nhiêu năm mà con người vẫn chưa được yên lành. C̣n phải trả thêm ǵ nữa cho xong món nợ dự phần làm nước mất nhà tan?
Hơn chục xe ca đưa hơn hai trăm anh em Hảo ra ga Phủ Lư vào buổi chiều. Lên toa xe ngồi đến nửa đêm th́ tàu chuyển bánh.
Trên đường xuôi Nam chuyến cuối năm, khi ngang qua đèo Ngang, người trưởng đoàn tàu, một cựu nhân viên hỏa xa miền Nam trước kia, có nhă ư ngừng tàu lại gần mươi phút cho anh em Hảo… ngắm cảnh bà Huyện Thanh Quan tả trong bài thơ Qua Đèo Ngang bà viết từ khoảng hai thế kỷ trước.
Đoàn tàu nằm vắt ngang đèo như một con sâu khổng lồ.
Lúc bấy giờ vào khoảng ba giờ chiều. Nắng vàng hoe. Cái thứ nắng này từ đâu ra mà trong như thủy tinh, nhẹ nhàng và đẹp lạ lùng. Trên lưng chừng đồi hai bên đèo bỗng xuất hiện nhiều bó củi khá to đang từ từ ḅ xuống. Nh́n kỹ thấy dưới mỗi bó củi có bà cụ già hay một đứa bé đang gồng ḿnh lên mà đi! Quần áo ai ai cũng vá đùm vá đụp. Nh́n cảnh mà sao ḷng tự nhiên đau nhói. Có thời Hảo và anh em cũng phải lên núi lấy củi bó thành những bó to như thế rồi vác xuống chân núi để mang về trại nên biết rơ cái khổ cực của công việc nặng nhọc đó. Nay th́ anh em và Hảo có thể sẽ chuyển hướng, về nhà kiếm sống bằng một nghề khác. Nhưng những bà cụ già và những chú bé con kia th́ sẽ phải tiếp tục gồng vai vác củi như thế cho đến bao giờ! Khi những người vác củi đi gần đoàn tàu, nh́n dung nhan của các phụ nữ nhăn nheo đậm nét, và của các cậu thiếu niên cũng bắt đầu chạy chỉ dọc ngang, nhiều anh em quay mặt.
Người trưởng đoàn tàu nói: “Đây là chuyến tàu xuyên Việt cuối cùng trong năm nên không sợ xe khác chạy ngược tuyến này. Không có ǵ mừng các chú các bác.
Chỉ có mấy phút phù du ngắm cảnh, nhờ qua nữ sĩ Thanh Quan, đă vào văn học của ta mà không cứ phải hễ là người Việt Nam th́ là có thể được nh́n.”
Ôi tâm t́nh và tấm ḷng người Việt Nam c̣n biết thế nào là tử tế!
Cái đẹp của đèo Ngang nói mấy cũng không cùng. Cái đẹp hoang tàn vẫn là cái đẹp thường thấy ở của quê hương ta. Hơn ba mươi năm trước c̣n là chú bé ngồi ghế nhà trường ê a đọc bài thơ Qua Đèo Ngang trong sách quốc văn giáo khoa thư. Ai ngờ khi tóc bắt đầu hoa râm th́ được tận mắt nh́n cảnh đó. Những người bạn tù đồng hành trong thập dư niên cũng đang lặng người mà nh́n không chớp mắt. Ngày xưa Nam tiến, nơi đây c̣n in dấu chân tổ tiên. Hồn phách tiền nhân như c̣n phảng phất khấp nơi, c̣n cảm hoài đối với muôn đời hậu thế.
Anh em Hảo trở về đời sống thường dân với niềm hănh diện dâng cao và một tâm hồn hoàn toàn lắng xuống. Hănh diện v́ biết rơ ḿnh là ai và đă học được chữ nhẫn nhiệm mầu. Qua bao năm tháng sống trong gian nan, chàng đă hiểu phần nào ư nghĩa thâm diệu và sự cần thiết của khổ đau cũng như thấy được sự thinh lặng của tâm thức là bước đầu của giải thoát.
Sau khi về nhà, ổn định cuộc sống hàng ngày, Hảo sắp quyển tự điển vào chung với những cuốn sách quí trong gia đ́nh Hảo. Ngày ngày Hảo nh́n cuốn tự điển đó với nỗi vui riêng. Nó là duy nhất trong loại đó. Nó là thầy dạy của Hảo nhiều năm. Nó đă hủ hỉ ở với Hảo trong khá nhiều năm. Hảo đă rùng ḿnh khi qua cổng chính lúc ra trại lần cuối. Hảo Nghĩ cuốn sách cũng cảm thấy nỗi rùng ḿnh đó.
Từ đó Hảo có lời nguyện khác: xin cho ḿnh được gặp người chủ đích danh của cuốn tự điển đó để hoàn nó lại. Hảo quí những sách của ḿnh bao nhiêu th́ Hảo tin rằng ông ta cũng quí sách của ông ta bấy nhiêu. Hảo ưng được nh́n thấy nụ cười của người chủ đó khi nh́n lại cuốn sách của ông ta bị thất lạc từ hàng nhiều chục năm. Nhưng ông ta là ai? Nếu c̣n sống th́ ông ta ít ra tuổi cũng…nhi nhỉ thuận hay cổ lai hi rồi. Lâu quá mà. Trái đất h́nh tṛn nhưng trái đất so với con người cũng thật bao la. Đi t́m người đó cũng khó như đi t́m quê hương của vợ Từ Thức.
Ngày cất bước đi định cư, Hảo mang ông Đồ theo, nhưng không cho nó vào va li mà lại bỏ nó trong túi áo gió mang luôn trên người. Máy bay đưa Hảo đi hơn nửa ṿng trái đất. Lời nguyện c̣n đó mà hi vọng th́ có mong manh. Nhưng ở đời hễ có chí th́ nên, Hảo không bao giờ thất vọng. Tại Mỹ, pḥng Hảo ở có một giá sách. Nơi đây những sách thủ đắc sau này được sấp thứ tự chung với thầy Đồ. Toàn những cuốn in ấn rất đẹp, chắc chắn. Nhưng cưng th́ Hảo vẫn cưng thầy đồ hơn.
Đứng chung với các sách thuộc thế hệ trẻ sau nầy trông thầy hom hem quá. Hảo để thầy đứng ở hàng đầu trên kệ sách, chỗ thật trang trọng lại gần ngọn đèn, nh́n vào nhận ra thầy ngay. Mỗi ngày nh́n thầy, Hảo đều nói thầm xin thầy xui khiến cho Hảo gặp được người chủ cũ. Con chó c̣n biết ai thương ai ghét nó. Huống hồ ǵ là một quyển sách đầy đặc chữ nghĩa thánh hiền.
Một năm, hai năm, ba năm, bốn năm, năm năm rồi qua năm thứ sáu. Có lúc mềm ḷng Hảo muốn đổi ư. Sách nầy dùng quen, t́m chữ nhanh. Lời ḿnh nguyện th́ có ai nghe đâu. Thôi th́ giữ lấy mà dùng. Dễ quá. Nhưng nếu làm thế, mỗi ngày nh́n ḿnh trong gương lúc rửa mặt th́ khó cho nhau lắm. Năm thứ sáu sấp hết mà người chủ đó vẫn biệt mù sơn dă.
Một buổi chiều điện thoại nhà Hảo reo. Cầm ống nghe lên th́ có người nói: “A lô! Có phải nhà anh Hảo không?”
“Vâng, tôi là Hảo đây. Xin lỗi tôi đang được tiếp truyện với ai?”
“À, tôi là Thanh trước cùng anh ở Nam Hà đó. Nhớ ra chưa? Nhớ những ngày anh em ḿnh ra hiện trường lao động ngay chân đồi của trại; buổi trưa nghỉ giải lao, ngồi núp nắng dưới mấy bụi chuối, anh em ḿnh bắt chuồn chuồn, xong thả nó bay rồi ḿnh cười với nhau hay không?”.
Lời ông bạn lôi Hảo trở lại thời c̣n trong trại cải tạo, anh em sống với nhau hồn nhiên như trẻ con thời thơ ấu ra vườn bắt bướm, hái hoa, vui cười với nhau suốt buổi. Rồi có hôm toàn đội lao động lên rừng theo kế hoạch “ém quân” theo nhu cầu của trại, anh em c̣n tạo ra cảnh ngày xưa đi cắm trại bên bờ suối; đi câu cá, nấu nướng ăn uống với nhau; và quần áo anh nào cũng vá đùm vá đụp.
Rồi ông Thành tiếp: “Thứ Bảy này có giáo sư Lê Hữu Mục từ Canada sang nói chuyện về tiếng Việt ở pḥng họp báo Người Việt. Anh có thích đi nghe th́ sang đây cùng đi với tôi.”
Tôi đang t́m hiểu về nguồn gốc tiếng Việt. Nghe ông Thanh nói thế, mừng quá, tôi trả lời: “Xin anh cho tôi số điện thoại và địa chỉ của nhà anh. Tôi đến đón anh cùng đi.”
Anh Thanh và Hảo từng ở tù cải tạo chung với nhau hơn mười năm. Cả hai nằm trong số tù được tha về cùng ngày, nhưng mỗi người về hai nơi cách nhau hàng trăm cây số. Sau đó th́ Hảo không biết anh sang Mỹ từ bao giờ, ở đâu và cũng không hiểu làm thế nào anh biết số điện thoại của Hảo mà anh gọi đúng phóc. Về sau mới biết anh là cái hộp thư. Khi cần liên lạc với bạn tù cũ nào mà không biết số điện thoại, Hảo hỏi anh là có ngay.
Ngày đi nghe giáo sư Mục nói chuyện, Hảo đến nhà anh Thanh sớm hơn một tiếng đồng hồ; mục đích hỏi tin tức về các anh em khác và nhắc chuyện cũ năm xưa.
Gặp Hảo, anh nói: “Tôi thích tiếng Việt Nam lắm. Ai học tiếng gốc Roman như Anh, Pháp, Tây, Bồ th́ phải biết tiếng La Tinh và tiếng Hy Lạp. C̣n ai học tiếng Việt, Nhật, Đại Hàn th́ nên học tiếng Hán. Mỗi chữ Hán mà một bức tranh, nh́n người ra người, chim ra chim, ngựa ra ngựa. Hồi bắt đầu đi tù cải tạo, tôi kêu nhà tôi gửi cho tôi một quyển tự điển Hán Hán. Tên cán bộ quản giáo nó thấy được bèn tịch thu sách của tôi. Tôi xin chuộc bằng tiền nó cũng không ưng, nói đốt rồi vứt ra băi rác.”
Lời anh Thanh nói, gây một cảm giác ớn lạnh trong xương sống Hảo.
Hảo hỏi: “Sách ǵ mà quí thế.”
Anh trả lời: “Tự điển của Vương Vân Ngũ, tôi mua ở Hong Kong năm 1955, tra chữ theo tứ giác, rất tiện lợi. Mất rồi tiếc quá. Sang đây tôi đỏ mắt t́m loại sách đó ở các hiệu sách ở đây mà chưa thấy.”
Sách tự điển của Hảo đang có cũng do tác giả Vương Vân Ngũ soạn. Lời nguyện sắp được thành rồi chăng?
Hảo hỏi tiếp: “Sách anh to cỡ nào? Có dấu ǵ đặc biệt không?”
Anh Thanh nói: “To bằng bàn tay, dày gần tất tây. Ở trang nào có hai số cuối cùng năm sinh của tôi tôi đều kư tên.”
Quyển tự điển của Hảo đang có cũng có nhiều nét chữ viết tay bên trong. Như thế là có đến hơn chín phần mười là đúng.
Hảo đang đối diện với ông chủ của “Thầy Đồ.” Tim chàng nện th́nh th́nh trong lồng ngực.
Chàng hỏi: “Nếu bây giờ có ai nói đang có quyển tự điển của anh trong tay th́ anh nghĩ sao?”
Anh nói ngay: “Làm ǵ có chuyện đó. Tên cán bộ đó nói nó đốt sách tôi rồi, và đến nay là đă hơn hai mươi năm. Họa chăng chỉ có phép lạ.”
Hảo lặng thinh.
Sau khi nghe giáo sư Mục nói chuyện xong, Hảo đưa anh Thanh về lại nhà anh ở đường Magnolia, Garden Grove, rồi phóng xe chạy về nhà ḿnh tận trên Los Angeles.
Vào nhà, chàng đến giá sách, cầm “Thầy Đồ” lên th́ ở mỗi trang có hai số cuối là 22, chàng thấy có chữ kư bắt đầu bằng chữ T. Hảo liền quay số gọi anh Thanh xin hẹn ngày cho Châu Hoàn Hợp Phố. Anh cho ngay cái hẹn ngày hôm sau lúc 8 giờ sáng.
Trong đêm đó Hảo nghĩ đến lúc phải thật sự chia tay cùng ông Đồ mà cảm thấy buồn buồn, buồn nhưng không tiếc. Chàng đă chứng minh được rằng kiên tŕ cầu nguyện với thiện tâm th́ có ngày lời nguyện sẽ thành. Từ lâu chàng tin như vậy và đó là lần chàng thấy được niềm tin chàng kư thác vào quyển sách là đúng đắn. Nghĩa là phải tin mới có thấy. Và có thấy mới càng thêm tin.
Hôm sau chàng đến đúng hẹn để trao quyển tự điển về cho cố chủ.
Nh́n lại quyển sách của ḿnh sau hơn hai mươi năm bị thất lạc, anh bạn mừng đến chảy nước mắt. Anh nhờ cậu con mang máy ảnh ra chụp h́nh kỷ niệm ngày về của thầy Đồ.
Anh nói: “Nh́n lại quyển tự điển của tôi và biết nó đă từng ở trong tay anh là tôi măn nguyện lắm. Anh quen dùng th́ xin anh tiếp tục giữ lấy mà dùng.”
Hảo phải nói ngay: “Không được. Tôi đă hứa, và hàng ngày đă cầu xin cho lời hứa đó được viên thành. Tôi đâu làm ngược lại được điều tôi đă xin. Của Ceasar th́ phải được trả về cho Ceasar. Thật sự mà nói, tôi chỉ muốn nh́n thấy nụ cười của anh sau khi được lại quyển tự điển mà anh hằng yêu quí. Sau này khi đọc sách mà gặp chữ nào khó hiểu th́ tôi xin được sang nhờ Thầy chỉ bảo. Được thế là quí lắm rồi.”
Rồi chỉ vài tuần sau đó, giáo sư Lê Phụng, ông bạn của Hảo, từ Canada sang chơi. Nghe qua câu chuyện Châu Hoàn Hợp Phố trên đây, ông nói: “Moa có nhiều tự điển chữ Hán. Từ Hải th́ moa cũng có đủ bộ, nhưng chưa hề nghe loại sách ‘Tứ giác’ đó.”
Hảo đưa ông bạn giáo sư sang nhà anh Thành, mang “Thầy Đồ” ra giới thiệu với giáo sư. Ông bạn mở sách ra xem vài trang rồi nói đó là loại sách quí, ông chưa hề thấy! Vài hôm sau ông về lại nhà bên Canada.
Đúng 2 tuần lễ sau, Hảo nhận một gói quà gửi từ Canada. Mở ra thấy đó là một quyển tự điển Tứ Giác mới toanh, của Vương Vân Ngũ tái bản, trong đó có đúng 9990 chữ cái.
Trong bức thư kèm theo, giáo sư viết: “Moa về nhà không quên được chuyện Thầy Đồ của toa. Câu chuyện đó chứng minh đức tin có thể dời non lấp biển. Cái may của quí toa là vào tù để thấy được đức tin và sự b́nh yên trong tâm hồn sau khi được có dịp trả phần nào cho cái nghiệp của mỗi người.
Moa kể chuyện này cho một ông bàn già của moa nghe. Ông ta nói đó là chuyện ngẫu nhiên. Moa hỏi: “Ngẫu nhiên mà với lời cầu nguyện liên tục, mỗi ngày trong sáu, bảy năm trời th́ sao gọi là ngẫu nhiên cho được. Phải gọi là hiển nhiên chứ. Ông ta làm thinh.
Hôm qua moa đi lục các hiệu sách một lần nữa th́ t́nh cờ gặp hai Thầy c̣n sót lại trong một hiệu sách lớn nhất ở đây.Moa mời cả hai về nhà, một trả sách về cho ông chủ cũ, và một cho moa.”
Câu chuyện Châu Hoàn Hợp Phố trên đây không là duy nhất.
Giữa năm 2007, một hôm có anh bạn báo tin vắn tắt: “Này, tôi nghe trên báo hàng ngày và hàng tuần có người nhắn tin tháng Tư năm 1975 ông ta có nhặt được một phong b́ đựng hồ sơ cá nhân của anh, gồm nhiều giấy tờ cùng h́nh ảnh quan trọng. Anh nên liên lạc số điện thoại (714)… hay (626)… xin nhận lại. Họ nói cam đoan không làm khó dễ. Nhanh đi, người ta đang chờ đó.”
Từ lâu lắm rồi, Hảo quen xem mọi thứ trên đời, cả xác thân ḿnh, cũng là hư ảo. Hồ sơ cá nhân để làm ǵ khi tuổi hạc đă lấp ló ngoài hiên. Tin trên được nghe qua rồi bỏ.
Sang năm 2008, lại có người báo y chang tin như thế. Hảo cho đó là chuyện hoang đường.
Đầu năm 2009, có anh bạn khác cũng báo tin y như trên, nhưng rơ ràng hơn là “Đài phát thanh ngày… loan tin đang giữ toàn bộ hồ sơ cá nhân của anh trong quân ngũ trước năm 1975. Yêu cầu ai biết anh c̣n sống, nay ở đâu th́ thông báo giùm kẻo tội nghiệp. Điện thoại liên lạc số (714)… Nhanh lên nhé. Đời không có hay người may mắn như anh.”
Rồi cuối tháng Ba cùng năm, ba ông bạn khác gọi liên tiếp báo tin trên, lời lẽ mạnh bạo hơn. Một ông nói: “Tin đài phát thanh… nói hồ sơ, giấy tờ quan trọng, h́nh ảnh gia đ́nh của anh trước 75, nay có người c̣n giữ. Tụi bạn nói có báo tin đó cho anh mà anh … mũ ni che tai. Người ta đă nghĩ đến anh, mặc dù chưa biết anh là ai, và đă bỏ công giữ hồ sơ đó trong trong 34 nằm dài. Tài liệu đó lâu nay như đứa con mồ côi và bị thất lạc. Anh đă tạo nó ra mà. Khùng ít thôi, để phần cho tụi này khùng nữa chứ.”
Thế là “Chúng khẩu đồng từ, ông sư
cũng chết,” lời anh em nói quá chí t́nh. Hảo nhận thấy lỗi của ḿnh
to hơn quả núi, nên liên lạc các số điện thoại xin nhận toàn bộ giấy
tờ đó. Khi nh́n lại những tờ giấy, những ảnh nay đă trổ màu thời
gian, Hảo ứa nước mắt. Hằng bao lâu qua chúng vẫn nằm một chỗ, yên
lặng chờ chàng.
Người trao hồ sơ cho Hảo, nói: “Tôi chỉ là người trung gian mà thôi.
Ông liên lạc ông Du ở số điện thoại (626…) này, để biết rơ hơn”. Hảo
cũng cần gặp người này để nói cảm nghĩ của ḿnh, nhất là lời cám ơn
ḷng tốt của ông.
Trên đường dây điện thoại với người từng giữ những hồ sơ đó, Hảo nghe tiếng người đàn ông: “Trời ơi! Trời ơi! Ông đó hả? Tôi là Du… Trong 34 năm, tôi t́m các cách để trao lại toàn bộ hồ sơ đó cho ông. Tốn bao nhiêu tiền tôi không tính. Số là trên đường di tản tháng Tư năm 75, khi đến Thái Lan, tôi t́nh cờ nhặt được trọn bộ tài liệu cá nhân của ông. Tất cả đoạn đường 20 năm chiến binh của ông nằm ở đó. Nó cho thấy vinh quang lắm lúc mà gian khổ cũng không vừa ǵ, mặt nào cũng có cả, trong nước cũng như ngoài nước. Sao đành bỏ qua cái quá khứ đó. Khi nghe một anh lính nói lư do ông phải ở lại với đơn vị, tôi bỗng nghĩ bằng mọi giá, tôi phải giữ hồ sơ đó mong có ngày gặp ông để trao lại, nếu không th́ trao cho thân nhân của ông cũng được. Đó là tâm nguyện của tôi.”
Ông Du… tiếp: “Mai này tôi phải đi xa
có việc cần. Khi trở về tôi xin được gặp ông sau, được không? Tôi có
số điện thoại của ông trong máy của tôi rồi.”
Việc ǵ cũng phải có đầu, có đuôi, Hảo hỏi: “Ông Du, có biết ai là
người cuối cùng có trong tay các hồ sơ đó hay không?”
Ông Du..: “Tôi hỏi những người có mặt tại Thái Lan lúc đó th́ có người nói chính anh tài xế của ông giữ. Khi nghe ông Minh Cồ tuyên bố buông súng, thấy mọi người đều bỏ chạy, anh ta tưởng ông cũng bỏ chạy mà chưa kịp về pḥng lấy ǵ mang theo nên anh ta xẹt qua nhà ông, lục trong tủ không thấy ǵ ngoài mớ giấy tờ đó. Thế là anh ta chụp lấy, mang xuống tàu trước cho ông. Khi khi tàu tháo dây, trên bờ c̣n quá đông người mà không thấy ông, nghĩ rằng ông bị chúng “bùm” rồi nên anh ta bèn nhảy lên bờ, chạy đi t́m ông, rồi không thấy trở lại nữa.”
Người lính ông Du nói đó đă theo Hảo trong hơn chục năm trời.
Về sau, khi biết Hảo ra khỏi trại tập trung, anh có t́m Hảo, mời về nhà anh, một hiệu bán phở ở gần Lăng Cha Cả trước năm 1975. Kinh doanh làm ăn phát đạt, con cái đứa đi học, đứa có nghề nghiệp sống được. Nhưng anh không hề nói cho Hảo biết ǵ về chuyện buổi chiều ngày 30 tháng Tư năm đó…
Th́ ra ông bà tổ tiên người Việt nói rất đúng. Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân. Của cho đi không bao giờ mất, và người giỏi tất có người giỏi hơn. Khi nuôi dưỡng Thầy đồ trong 28 năm, Hảo tưởng ḿnh đă là người kiên nhẫn có hạng. Nhưng ông Du.. Đă kiên tŕ giữ túi hồ sơ giấy tờ của chàng trong gần ba con giáp, mà c̣n tốn tiền đăng báo thuê đài đi t́m người trong bao nhiêu năm trời.
T́m đâu ra được tấm ḷng tử tế, vô vị lợi, và nhân hậu như thế!
Cũng làm sao t́m đâu ra người trong
cơn nguy biến, đă nhảy xuống tàu để di tản được rồi mà c̣n nhảy lên
như thế; chuyện nghe mà không khỏi bồi hồi suy nghĩ!
Tùy bút: Thủy Thủ.
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”