Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
✱ HĐ Tham Mưu Trưởng LQ/JCS:Tổng thống Kennedy và Johnson đều không
tin tưởng vào các cố vấn quân sự của họ, v́ cho rằng các tướng lĩnh
và đô đốc thiếu sự tinh tế về mặt chính trị - Giới quân sự bất b́nh
v́ "coi lực lượng quân sự là công cụ để thương lượng về mặt ngoại
giao".
✱ McNamara: Một khi bổ sung quân số sẽ tăng thêm chi phí về nhân sự,
về chính trị và kinh tế do cuộc chiến gây ra, làm suy giảm khả năng
của quốc gia một khi cuộc chiến kéo dài.
✱ JCS: McNamara chủ trương t́m kiếm một giải pháp ḥa đàm về cuộc
chiến, bao gồm cả việc tạm dừng hoặc ngừng hoạt động ROLLING THUNDER
như một lời thúc giục Hà Nội đi đến bàn đàm phán ḥa b́nh
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm cuộc chiến Tết Mậu Thân (1968-2018) Hội đồng
Tham mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ (The Joint Chiefs of Staff / JCS)
vào năm 2019 phổ biến tài liệu liên quan đến cuộc chiến Việt Nam .
Tài liệu mô tả việc địch quân hoạch định cuộc Tổng tấn công Tết Mậu
Thân và phản ứng của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến, bao gồm nỗ lực quân
sự của Hoa Kỳ ở Đông Dương.
Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên Quân và cuộc chiến Việt Nam
1960-1968
Khi quy mô và chi phí cho cuộc chiến tăng lên mà không có dấu hiệu
cho thấy có kết quả nhất định, v́ vậy sự ủng hộ của công chúng Mỹ
đối với cuộc chiến bắt đầu làm sụp đổ niềm tin vào chính quyền
Johnson về các chính sách của chính họ. Khi những người Cộng sản
phát động cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân trên toàn quốc vào đầu năm
1968, Tổng thống và các cố vấn của ông ta đă có những bước đi nhằm
hạn chế cam kết của Mỹ và chuyển chiến tranh sang cho phía miền Nam
Việt Nam chịu trách nhiệm nhiều hơn. Mặc dù là một thất bại chiến
thuật khá lớn đối với phía Việt Cộng và Bắc Việt, nhưng cuộc Tổng
tấn công Tết Mậu Thân nổ ra đă đặt chính quyền Johnson vào một lộ
tŕnh giảm leo thang mà từ đó không thể quay đầu lại.
T́nh h́nh tháng 1 năm 1967
Vào đầu năm 1967, Hoa Kỳ đă tham gia vào cuộc chiến tranh trên không
và trên bộ đang ngày càng mở rộng ở Đông Nam Á. Kể từ khi bắt đầu
vào tháng 2 năm 1965, Chiến dịch ROLLING THUNDER, chiến dịch ném bom
nhằm vào miền Bắc Việt Nam, đă ngày càng leo thang về số lượng và
các mục tiêu quan trọng, gây thiệt hại lớn cho mạng lưới giao thông,
công nghiệp và các cơ sở lọc dầu và kho chứa. Tuy nhiên, chiến dịch
không có dấu hiệu đạt được một trong hai mục tiêu đă nêu. Các cuộc
không kích đă không phá vỡ được ư chí tiếp tục chiến tranh của chính
quyền Hà Nội, và họ đă không giảm thiểu quân số cũng như quân viện
cho cuộc chiến đấu ở miền nam. Bắc Việt Nam đă có thể sửa chữa các
thiệt hại và phát triển các quân dụng thay thế cho các cơ sở bị phá
hủy đủ nhanh để chống lại sự leo thang ngày càng tăng của chiến dịch
không quân của Hoa Kỳ. Với sự trợ giúp của Liên Xô và Trung Quốc,
Bắc Việt đă xây dựng được một hệ thống pḥng không lớn và tinh vi.
Các loại súng và hỏa tiễn của họ đă gây ra một phần thiệt hại về phi
công và máy bay cho mỗi cuộc đột kích của Mỹ.
Trên mặt đất miền Nam Việt Nam, quá tŕnh xây dựng lực lượng của Hoa
Kỳ, bắt đầu từ cuối năm 1965, đang dần hoàn thành. Hơn 380.000 lính
Mỹ đă hiện diện trong nước, cùng với hơn 730.000 binh lính miền Nam
Việt Nam và khoảng 52.000 lính chiến đấu từ các quốc gia đồng minh
khác. Sau một năm xây dựng căn cứ và tăng cường chiến đấu, Tư lệnh
Mỹ, Tướng William C. Westmoreland, tin rằng lực lượng của ḿnh đă
sẵn sàng cho những cuộc tấn công lớn có thể giành lấy thế chủ động
trên chiến trường từ phía quân Bắc Việt và Việt Cộng. Tuy nhiên, kẻ
thù đă tiến hành xây dựng lực lượng của chính họ, bao gồm cả các
cuộc xâm nhập vào miền Nam Việt Nam gồm nhiều sư đoàn chính quy của
quân đội Hà Nội. Các đơn vị này cùng với du kích Việt Cộng và các
đội h́nh bộ binh hạng nhẹ, đang chống lại sự thách thức của Mỹ. Ở
miền Nam Việt Nam, kẻ thù t́m cơ hội gây thương vong cho Mỹ trong
các cuộc giao tranh. Họ cũng tập trung quân tại nhiều điểm khác nhau
trên biên giới miền Nam Việt Nam để tạo ra mối đe dọa chiến lược đối
với các đồng minh và buộc Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam,
(MACV) phải phân tán lực lượng dự bị.
Giới quân sự bất b́nh v́ "coi lực lượng quân sự là công cụ để
thương lượng về mặt ngoại giao"
Kể từ khi Tổng thống John F. Kennedy nhậm chức vào năm 1961, Các nhà
lănh đạo thuộc Hội đồng Tham mưu Trưởng Liên quân ngày càng nhận
thấy ḿnh bị gạt ra ngoài đối với việc hoạch định chính sách an ninh
quốc gia, và được thay thế bởi McNamara và các cố vấn dân sự của ông
ta. Tổng thống Kennedy và Johnson đều không tin tưởng vào các cố vấn
quân sự của họ, v́ cho rằng các tướng lĩnh và đô đốc thiếu sự tinh
tế về mặt chính trị để đối phó với các vấn đề chiến lược do cuộc đối
đầu hạt nhân với Liên Xô. Trong các cuộc tranh luận về ngân sách
quốc pḥng, về lựa chọn vũ khí và về việc giải quyết các sự kiện
quốc tế như cuộc khủng hoảng hỏa tiễn Cuba, các ư kiến của Hội đồng
JCS thường xuyên bị McNamara và Tổng thống từ chối.
Đến cuối năm 1966, Bộ trưởng McNamara và các phụ tá dân sự của ông
đă tranh căi gay gắt với Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân về chủ
trương của ROLLING THUNDER. Ngay từ khi bắt đầu chiến dịch, các Tham
mưu trưởng Liên quân đă thúc giục leo thang nhanh chóng cuộc ném
bom, với các cuộc tấn công vào tất cả các mục tiêu quân sự và công
nghiệp chính của Bắc Việt Nam cũng như cảng biển lớn của nó là Hải
Pḥng. Tuy nhiên, theo lời khuyên của McNamara và các quan chức dân
sự khác, Tổng thống Johnson đă chọn mở rộng chương tŕnh một cách từ
từ. Ban đầu, ông ta hạn chế các mục tiêu quan trọng nhất đối với các
cuộc tấn công từ trên không. Bị ảnh hưởng bởi thuyết “chiến tranh
hạn chế”, vốn coi lực lượng quân sự chủ yếu là công cụ thương lượng
về mặt ngoại giao, Johnson cũng bị ám ảnh về việc tránh các hành
động có thể kích động một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn với Trung
Cộng và có thể cả Liên Xô. V́ Trung Quốc đă gửi hàng chục ngh́n binh
sĩ và kỹ sư pḥng không hỗ trợ Bắc Việt Nam, Johnson có lư do để lo
ngại.
McNamara đồng ư trong việc mở rộng này nhưng ngày càng nghi ngờ về
hiệu quả của ROLLING THUNDER. Các vụ ném bom rơ ràng đă không làm
suy yếu ư chí tiếp tục chiến tranh của Hà Nội. Ngoài ra, theo các
chuyên gia dân sự do McNamara ủy nhiệm phân tích về chiến dịch, các
cuộc không kích đă không làm giảm đáng kể năng lực của Bắc Việt Nam
trong việc gửi quân và tiếp tế cho miền Nam.
Về chiến dịch ở miền Nam Việt Nam, các lănh đạo dân sự và các Tham
mưu trưởng đều tán thành chiến lược của Tướng Westmoreland là chủ
yếu sử dụng quân đội Hoa Kỳ trong các cuộc tấn công vào các đơn vị
lớn và căn cứ hậu cần của đối phương (hoạt động “T́m kiếm và Tiêu
diệt”) trong khi các lực lượng chính quy và địa phương của Nam Việt
Nam hoạt động để hỗ trợ b́nh định.
Tuy nhiên, trong suốt năm 1966, McNamara và các Tham mưu trưởng đă
bất đồng về việc liệu có nên tăng cường lực lượng chỉ huy của
Westmoreland hay không. Các chỉ huy trưởng liên quân tán thành đề
xuất của Sharp và Westmoreland về việc xây dựng MACV với tổng sức
mạnh lên tới 542.500 nhân viên bằng cách bổ sung các tiểu đoàn bộ
binh, kỵ binh thiết giáp và xe tăng tương đương với một sư đoàn khác
cộng với năm đơn vị không quân chiến thuật, nhiều phi đội và nhiều
đơn vị hỗ trợ chiến đấu và hậu cần. Các nhà lănh đạo quân sự lập
luận rằng MACV yêu cầu thêm quân số để chống lại sự gia tăng của Bắc
Việt và Việt Cộng và cho rằng với lực lượng lớn hơn của Mỹ sẽ đưa
cuộc chiến kết thúc sớm hơn.
McNamara đặt câu hỏi liệu Westmoreland có thực sự cần thêm quân số
hay không. Căn cứ vào các thống kê từ các đơn vị chiến đấu, đến số
liệu thống kê về thương vong của MACV, Bộ trưởng Quốc pḥng kết luận
rằng sự gia tăng lực lượng Mỹ sẽ không tạo ra sự tổn thất tương xứng
với đối phương, bởi v́ những người Cộng sản thường có thể lẩn tránh
đụng độ khi họ muốn. Thay vào đó, một khi bổ sung quân số sẽ tăng
thêm chi phí về nhân sự, về chính trị và kinh tế do cuộc chiến gây
ra, làm suy giảm khả năng của quốc gia một khi cuộc chiến kéo dài.
McNamara lập luận rằng do giới hạn địa lư và chính trị của cuộc
chiến, Westmoreland hiện có đủ quân số để vô hiệu hóa các đơn vị lớn
của đối phương, đó là số lượng lớn nhất có thể mong đợi cho chương
tŕnh “t́m kiếm và tiêu diệt” . Thay v́ tăng thêm binh lính Mỹ, Hoa
Kỳ nên thay đổi các ưu tiên của ḿnh hầu cải thiện lực lượng miền
Nam Việt Nam để họ có thể tiến hành một chiến dịch b́nh định hiệu
quả hơn.
Mâu thuẫn về chủ chương của giới quân sự và chính trị
Bắt đầu từ năm 1967, chính quyền Johnson đă thể hiện sự lạc quan về
Việt Nam, nhưng che đậy những nghi ngờ nội bộ và những bất đồng chưa
được giải quyết. Bộ trưởng Quốc pḥng McNamara đă kết luận rằng
“không có một cách hợp lư để đưa chiến tranh sớm kết thúc”. McNamara
chủ trương t́m kiếm một giải pháp ḥa đàm về cuộc chiến, bao gồm cả
việc tạm dừng hoặc ngừng chiến dịch ROLLING THUNDER như một lời thúc
giục Hà Nội đi đến bàn đàm phán ḥa b́nh. Ngược lại, Bộ Tham mưu
Liên quân, do Sharp và Westmoreland trách nhiệm, tiếp tục thúc đẩy
chiến dịch của họ để chính quyền chấp thuận gia tăng quân số Hoa Kỳ
theo từng giai đoạn ở phía Nam, và ném bom nhiều hơn ở phía Bắc.
Nhận thức được điều nghịch lư và sự phản đối ngày càng tăng của công
chúng đối về cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Việt Nam, Johnson tuy nhiên
không thấy cách nào khác là tiếp tục hành động cân bằng vị thế chính
trị của ḿnh vào năm 1967. Ông cố gắng chọn lựa giải pháp thích ứng
để đưa ra một quyết định cho chiến trường. Johnson đă phải cân nhắc
giữa một cuộc leo thang quân sự quá tốn kém cùng một lúc vẫn có thể
duy tŕ sự ổn định về mặt chính trị và kinh tế.
T́nh h́nh cuối năm 1967
Trong suốt năm 1967, lực lượng Nam Việt Nam, và Hoa Kỳ đă chịu
thương vong tổng cộng 23.199 người thiệt mạng và 93.791 người bị
thương. Theo ước tính của quân đồng minh, kẻ thù trong năm đă thiệt
hại hơn 88.000 người. Chuyện ǵ đă tác dụng chiến lược về việc đổ
máu này? Các chỉ huy Hoa Kỳ tại chiến trường coi năm 1967 là một năm
tiến bộ của quân đội trong cuộc chiến. Trong một đánh giá điển h́nh,
Đô đốc Sharp, tổng kết các hoạt động trong năm, đă báo cáo với Tham
mưu trưởng Liên quân rằng có một “sự thay đổi rơ ràng trong t́nh
h́nh quân sự thuận lợi cho chúng tôi. ” Ông tuyên bố rằng “sự gia
tăng đáng kể sức mạnh và khả năng của các lực lượng đồng minh” đă
tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các hoạt động tác chiến
chống lại đối phương về “khả năng tiến hành các hoạt động quan trọng
trong các khu vực đông dân cư”. Lực lượng mặt đất của Đồng minh,
được hỗ trợ chặt chẽ bởi các cuộc không kích chiến thuật và B.52, đă
ngày càng vô hiệu hóa các căn cứ của đối phương, xác định vị trí và
phá hủy nguồn cung cấp của địch. Phần lớn lực lượng chủ lực của địch
đă được điều động đến các vị trí gần biên giới, nơi chúng lợi dụng
các mật khu của Lào và Campuchia để bảo vệ và tiếp tế. Sharp cũng
tuyên bố rằng đă đạt được những bước tiến vững chắc trong việc tiêu
diệt các lực lượng địa phương cộng sản và cơ sở hạ tầng chính trị.
Kết quả là, tỷ lệ dân số và diện tích miền Nam Việt Nam bị địch kiểm
soát đă giảm dần. Tuy nhiên, Đô đốc Sharp cảnh báo, kẻ thù vẫn chưa
bị đánh bại. Bắc Việt và Việt Cộng đă “thể hiện sự sẵn sàng tiếp tục
tấn công, quấy rối và khủng bố ở nhiều nơi ...” Pháo binh, rocket và
súng cối của kẻ thù đă cho thấy sự gia tăng rơ rệt cả về số lượng và
cỡ ṇng, và họ đă thể hiện kỹ năng ngày càng cao trong việc sử dụng
những vũ khí này. Đáng lo ngại hơn nữa, Sharp báo cáo về bằng chứng
“gần đây những cuộc điều động đơn vị lớn từ Bắc Việt Nam cho thấy kẻ
thù có thể đang t́m kiếm một chiến thắng vang dội ở Nam Việt Nam
trong tương lai gần”. Tuy nhiên, vị Tổng tư lệnh, Thái B́nh Dương
tiếp tục, với việc “cẩn thận khai thác lỗ hổng của kẻ thù và áp dụng
sức mạnh hỏa lực và khả năng cơ động vượt trội của chúng ta, ” ông
kết luận,“ chúng ta nên kỳ vọng lợi ích của chúng ta trong năm 1967
ở miền Nam Việt Nam sẽ gia tăng nhiều hơn vào năm 1968 ”.
Khái niệm hoạt động của Tướng Westmoreland cho năm 1967
Vào năm 1966, Tướng Westmoreland dự đoán rằng năm 1967 sẽ mở ra một
giai đoạn chiến đấu mới ở miền Nam Việt Nam, trong đó các lực lượng
đồng minh sẽ tiến hành nhiều cuộc tấn công. Năm 1966, Hoa Kỳ và Lực
lượng Hỗ trợ Quân sự Thế giới Tự do (FWMAF) cùng với Lực lượng Vũ
trang của Việt Nam Cộng ḥa (RVNAF) đă tham gia vào một chiến dịch
trấn giữ nhằm ngăn chặn một cuộc xâm lược của cộng sản vào miền Nam
Việt Nam. Sự kết hợp này với sự tích lũy sức mạnh của Hoa Kỳ và
FWMAF, đă tạo tiền đề cho một cuộc tổng tấn công. "Kế hoạch Chiến
dịch Tổng hợp năm 1967", do Tư lệnh Bộ Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa
Kỳ (COMUSMACV) và Tổng Tham mưu trưởng (JGS) ban hành vào ngày 7
tháng 11 năm 1966, đă cung cấp hướng dẫn cơ bản cho các lực lượng
đồng minh trong năm tới. Kế hoạch không phải là một kế hoạch chi
tiết dẫn đến chiến thắng cuối cùng. Nó không h́nh dung được về sự
thất bại toàn diện của tất cả các lực lượng địch hay sự kiểm soát
của chính quyền Sài G̣n trên toàn lănh thổ miền Nam Việt Nam. Mục
tiêu của kế hoạch là mở rộng khu vực do Chính phủ Nam Việt Nam kiểm
soát và giành chiến thắng trước các đơn vị Việt Cộng và Bắc Việt.
Cuộc tấn công TẾT
Khi họ tranh luận về chính sách và chiến lược tại Việt Nam, Tổng
thống Johnson và các cố vấn của ông không biết rằng trong gần hai
năm các đối thủ của họ ở Hà Nội và Nam Việt Nam đă tham gia vào một
cuộc tranh luận tương tự. Giống như người Mỹ, người Việt Nam các nhà
lănh đạo đă tin rằng theo chiến lược hiện có của họ, các lực lượng
của họ đang chịu tổn thất nặng nề mà ít có được lợi ích rơ ràng.
Không giống như người Mỹ, Cộng sản Việt Nam vẫn tự tin về sự thành
công cuối cùng. Họ t́m mọi cách để giành lại thế chủ động và tiếp
tục cuộc chiến đến thắng lợi. Vào cuối cuộc tranh luận hầu t́m kiếm
giải pháp của họ, những người Cộng sản đă quyết định thực hiện một
cuộc tấn công nhiều mặt trên toàn quốc khiến Hoa Kỳ và Nam Việt Nam
ít nhất có một phần bất ngờ. Tại miền Nam Việt Nam, cuộc tấn công
tuy thất bại nặng nề về số thương vong cho quân CSBV và Việt Cộng.
Nhưng tại Hoa Kỳ, cuộc tấn công đă gây ra chấn động sâu sắc cho
chính quyền Johnson, làm tan vỡ niềm tin của họ rằng cuộc chiến đang
được tiến triển tốt đẹp, và đẩy nó lùi xa hơn về xu hướng giảm leo
thang mà chính quyền theo đuổi.
Tin tức t́nh báo về việc VC chuẩn bị cuộc tấn công vào dịp Tết bị
bỏ qua
Khi việc chuẩn bị tấn công của đối phương được đẩy nhanh trong mùa
thu, người Mỹ và các tổ chức t́nh báo tại miền Nam Việt Nam bắt đầu
thu thập các tín hiệu cho thấy một cuộc tấn công có tầm cỡ lớn và
phạm vi bất thường đang được thực hiện. Tin tức thu nhận từ các cuộc
thẩm vấn tù nhân, tài liệu bị tịch thu và chặn thông tin liên lạc,
các nhà phân tích trong MACV J2 (T́nh báo) và trạm CIA Sài G̣n trong
tháng 10 và tháng 11 đă thiết lập các bản dự báo về cuộc tấn công
của kẻ thù trên toàn quốc, sẽ diễn ra vào đầu năm 1968, cuộc chuẩn
bị tấn công này sẽ bao gồm các cuộc tấn công lớn vào các thành phố.
Ví dụ, một nghiên cứu của CIA được hoàn thành vào tháng 11 cho rằng
các trận chiến biên giới là một phần của giai đoạn đầu tiên của cuộc
tấn công này và giai đoạn thứ hai, có thể bao gồm các cuộc tấn công
vào các thành phố,và sẽ bắt đầu vào tháng Giêng.
Cho đến cuối năm 1967, các quan chức cao cấp ở Sài G̣n và Washington
đă nhận được những báo cáo t́nh báo nêu trên nhưng với sự hoài nghi.
Họ làm như vậy bởi v́ họ tin rằng, một cuộc tấn công trên toàn quốc
nằm ngoài khả năng của Bắc Việt và Việt Cộng. Đặc biệt, một cuộc tấn
công vào các thành phố sẽ không thể xảy ra, các nơi đó cho đến nay
kẻ thù chỉ hoạt động giới hạn vào sự khủng bố, gián điệp, trộm cắp
và kích động chính trị. Các nhà lănh đạo đồng minh cho rằng, những
người Cộng sản thiếu sức mạnh quân sự để chiếm và giữ các thị trấn
lớn và trông chờ rất ít vào sự giúp đỡ từ một số công dân thành thị,
với bằng chứng là không có sự tin cậy của quần chúng đối với Mặt
trận Dân tộc Giải phóng. Các quan chức Mỹ nghi ngờ kẻ thù sẽ liều
lĩnh tung quân đội và cán bộ chính trị vào một nỗ lực vô vọng. Do
đó, các kế hoạch tấn công thành phố chỉ được coi là tuyên truyền và
phạm vi các trận đánh được hiểu là những nỗ lực tiêu hao không thành
công sẽ khiến quân Cộng sản bị hủy diệt bởi hỏa lực của Hoa Kỳ.
Tóm lại, những tính toán sai lầm về kế hoạch tấn công của Bắc Việt,
dẫn đến việc loại trừ những thông tin t́nh báo về kế hoạch của cuộc
tấn công, đă giúp địch quân che giấu việc chuẩn bị khi thực hiện kế
hoạch tổng tấn công. ( Theo The Joint Chiefs of Staff and The War in
Vietnam 1960–1968 -- Publication date: October 18, 2019 )
Năm Mậu Thân, tháng 5/1968 khởi sự ḥa đàm Ba Lê và cuộc bầu cử
tổng thống Mỹ 11.1968
Tháng 5 năm 1968, Hội nghị về ḥa b́nh cho Việt Nam chính thức khởi
sự tại Paris (và kéo dài đến tháng 1 năm 1973, từ chính phủ Johnson,
Dân Chủ nối tiếp sang chính phủ Nixon, Cộng Ḥa) - V́ như trên đă
viết: " Bị ảnh hưởng bởi thuyết “chiến tranh hạn chế”, vốn coi lực
lượng quân sự chủ yếu là công cụ thương lượng về mặt ngoại giao”;
Cộng với phản ứng tiêu cực của dân chúng Mỹ về kết quả của cuộc
chiến Mậu Thân 1968, khiến TT Johnson không tái tranh cử.
Về phía đảng Cộng Ḥa, trong bài phát biểu chấp nhận sự đề cử tại
Đại hội đảng (1968), ông Nixon tuyên bố: "Chúng tôi mở rộng ṿng tay
hữu nghị với tất cả mọi người. Nhân dân Liên Xô, nhân dân Trung
Quốc, nhân dân toàn thế giới. Và chúng tôi hướng tới mục tiêu một
thế giới rộng mở, bầu trời rộng mở, thành phố rộng mở, trái tim rộng
mở”. Và trong các cuộc vận động tranh cử tổng thống 1968 ứng cử viên
Nixon hứa hẹn: "Tôi cam kết với các bạn rằng chúng ta sẽ kết thúc
cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự - I pledge to you that we
shall have an honorable end to the war in Vietnam." (Theo Miller
Center).
Học Thuyết Nixon -
Năm 1969, ngay sau khi nhậm chức, Chính phủ Nixon đề ra chính sách
Việt Nam Hóa Chiến Tranh, thực chất là kế hoạch rút quân đội Mỹ ra
khỏi vùng này. Điều này được ghi lại trong tiểu mục gọi là " Học
thuyết Nixon và phản ứng của người Á Châu -The Nixon Doctrine and
the Asian reaction". Trong đó viết: " Tổng thống đă tuyên bố vào năm
1970 rằng “Chắc chắn v́ lợi ích của chúng tôi, cũng như lợi ích của
ḥa b́nh và ổn định ở châu Á và thế giới, chúng tôi thực hiện những
bước tiến nhằm cải thiện quan hệ với Bắc Kinh - take what steps we
can toward improved practical relations with Peking." (Theo
BNG/FRUS: The Nixon Doctrine and the Asian reaction)
Chuẩn bị Hội nghị thượng đỉnh Mỹ -Trung
Vào ngày 28 tháng 4 (1971), Tổng thống Nixon nói với TS Kissinger:
"Những ǵ chúng ta đang toan tính về cơ bản là hội nghị thượng đỉnh
với Trung Quốc, đó là kế hoạch của tôi. Đó là ván cờ lớn. Bây giờ,
đó mới chỉ là một nửa, phần c̣n lại của tấn tuồng này là thực hiện
một số điều về cuộc chiến này." Kissinger trả lời: “Với điều đó, tôi
nghĩ, những người ở vào thời kỳ 1954 họ cần ḥa b́nh, và sau đó họ
đă giải quyết vấn đề Việt Nam. Họ cần ḥa b́nh ngay, điều đó có tác
dụng đối với Hà Nội - Đó là một lợi thế của người làm sứ giả." Nixon
nói thêm: “Chà, để tôi nói tiếp, cuộc chiến phải được giải quyết ổn
thỏa trước khi tôi đến Trung Quốc - before I get there, the war has
to be pretty well settled. Tôi chỉ đơn giản nói rằng, chúng ta chưa
thể đến Trung Hoa cho đến khi chúng ta có một số kế sách. I’d just
simply say, we can’t come there until we have some idea." (
BNG/FRUS: Conversation:Nixon & Kissinger, April 27, 1971)
Theo chủ trương của ông Nixon “ nhằm cải thiện quan hệ với Bắc Kinh”
–“ cuộc chiến phải được giải quyết ổn thỏa trước khi tôi đến Trung
Quốc”, cho nên cuộc hành quân Hạ Lào trước đó mấy tháng (2.1971) đă
gây nhiều tổn thất cho phía VNCH để Mỹ dễ dàng đàm phán với phía
Trung quốc. Với chủ trương “kết thúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam
trong danh dự” nhưng với cái giá là hy sinh VNCH... Cho nên trong
diễn văn từ chức tổng thống « ngày 21 tháng 4 năm 1975 » ông Nguyễn
văn Thiệu đă lên án ông Nixon: ”Thất hứa, thiếu công bằng, thiếu
chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ,
trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc.”
Đào Văn
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”