Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Một bài viết thật cảm động, dù lối hành văn đơn sơ mộc mạc. Toàn dân
VN đều bị CSBV gạt, nói là đi học tập cải tạo chỉ có 30 ngày nhưng
có người 5-7 năm, có người không bao giờ trở lại với gia đ́nh, mà
c̣n bị vùi thây tận núi rừng miền Bắc. Làm sao quên được những ngày
lo lắng đau khổ và thiếu thốn sau 30/4/75. May mà c̣n của để bán ăn
dần trong 5 năm, để cuối cùng phải bán nhà vượt biên. Nếu vượt biên
không thành công th́ phải chết.
Mong nhận được những bài tường thuật chuyến vượt biên của quư vị.
Tôi, đứa con người tù học tập cải tạo
Xin trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết của Anh Lê Xuân Mỹ.
Một bài viết mà khi đọc đă nhạt nhoà nước mắt. Không màu mè bóng
bẩy, chỉ là hồi ức về một giai đoạn cùng khổ mà tất cả người miền
nam VN chúng ta đều trải qua khi
mất nước, nhưng người đọc không thể không bùi ngùi, xúc động dù đă
nhiều năm trôi qua. Đó cũng là một trong những lư tại sao chúng ta
không thể quên, không thể tha thứ, càng không thể hoà hợp hoà giải
.. hay có thể nào chấp nhận luận điệu: hăy quên quá khứ để hướng về
tương lai?
Những ngày cuối tháng tư 1975, Sài g̣n đắm ch́m trong cơn hỗn loạn.
Tin tức về một cuộc chiến kết thúc bi thảm được truyền đi kéo theo
một ḍng người t́m mọi cách vượt thoát khỏi quê hương. Không nhận
được tin người đến đưa toàn bộ gia đ́nh ra đi như đă hứa, tôi cùng
ba và gia đ́nh người em gái trên chiếc xe jeep hối hả đi về Bến Bạch
Đằng nơi con tàu VNTT đang ngập tràn những ḍng người từ khắp nơi đổ
về. Hai vợ chồng em gái lên tàu trước. Tôi và ba chần chờ sửa soạn
lên sau.
Trong cái ḍng người hoảng loạn, trong cái âm thanh cuồng nộ những
ngày cuối cùng của tháng tư, hai cha con vẫn c̣n nh́n về hướng Lăng
Ông Bà Chiểu, nơi nhà tôi ở đó. Vẫn c̣n hy vọng mẹ và các em đến kịp
để cùng đi. Phép lạ đă không xảy ra. Tàu sắp nhổ neo, mẹ và các em
tôi vẫn biệt tăm. Ba bảo thôi con lên trước đi, ba đợi thêm một tí
nửa, ḿnh gặp nhau trên tàu. Trong mắt ba vẫn c̣n ánh lên một tia hy
vọng. Nhưng tôi biết là đă hết. Thời gian không c̣n kịp nữa. Ba hối
thúc tôi lên tàu, riêng ba không đành bỏ vợ và 8 đứa con con nhỏ
dại, quyết định quay lại. Với tôi, ra đi hay ở phải là một quyết
định trong chớp mắt. Nhưng sao đành bỏ lại ba một ḿnh với khuôn mặt
và cặp mắt thất thần như vậy. Tôi lắc đầu. Thế là tôi và ba quay
ngược lại ḍng người vẫn cuống cuồng chạy về phía bờ sông, dù con
tàu đă từ từ rời bến. Cùng với hàng triệu người miền Nam Việt Nam,
tôi và gia đ́nh bắt đầu sống những tháng ngày đen tối nhất.
Đêm đầu tiên, khi nghe tin ĐT Dương Văn Minh đầu hàng trên đài phát
thanh, ngoài đường những nhóm người đội mũ cối cầm súng đi qua đi
lại, cả gia đ́nh tôi chui dưới chân cầu thang, tắt đèn tối thui, ẩn
trốn, và ba đă khóc. Thế là chấm dứt một quảng đời, lịch sử đă sang
trang và chúng tôi đă cảm thấy một tương lai mịt mù sắp tới.
Trong những ngày sau đó, ba tôi sống trong hoang mang, lo sợ, không
dám bước ra khỏi nhà. Mặt ba lúc nào cũng căng thẳng. Riêng tôi mỗi
ngày vẫn lên tŕnh diện cơ quan rồi về. Lên để biết th́ ra có những
bạn bè cùng sở làm ngày xưa, từng cùng vui chơi sinh hoạt với ḿnh
bây giờ đội mũ cối, cầm súng lầm ĺ đi ra đi vào. Có người c̣n chào
hỏi tử tế nhưng có đứa mặt mày vênh váo, kênh kiệu, những nhân viên
c̣n lại, không phải dân Cộng sản nằm vùng tụm lại một pḥng trên
lầu, co cụm đến tội nghiệp.
Trong những ngày đầu mất nước tháng 5 năm 1975, tôi biết ba vẫn c̣n
hy vọng về môt người, người em út đi tập kết từ những năm 1954, nghe
đâu đang làm lớn và h́nh như đang có mặt tại Sài G̣n. Chính ủy chính
iết ǵ đó. Ba kể hồi nhỏ ba và chú rất thương yêu nhau, ngày chú đi
vào rừng theo kháng chiến, ba là người cuối cùng gặp và đưa chú vào
chiến khu. Ba vẫn nghĩ nếu có chú chắc ba sẽ không sao.
Như một người sắp sửa bị ch́m tàu, cố bám víu một chút hy vọng nào
đó để sống, dù rất mỏng manh. Với riêng tôi, h́nh ảnh về chú không
hiền lành như ba tưởng tượng mà là những con người tôi đă từng xem
qua cuốn phim “Chúng tôi muốn sống” , lạnh lùng và tàn ác. Tôi nghĩ
ba quá ngây thơ, nhưng biết làm sao được, một người lính thất trận,
một vợ và 9 đứa con nheo nhóc trong một thành phố đă không c̣n thuộc
về ḿnh, chung quanh đầy rẫy những bóng đen ŕnh rập. Có thể ba đang
cố quên nhưng với tôi, kư ức về một Mậu thân khủng khiếp ở Huế vẫn
c̣n đó, không thể nào không nhớ. Những cuộc trả thù tàn khốc chắc
chắn sẽ xảy ra. Không ảo tưởng như ba, tôi chờ đợi và biết rằng ngày
đó sẽ đến, không xa.
Một ngày đầu tháng sáu, giống như ba đang mong đợi, chú tôi đi cùng
một vài bộ đội cầm súng ghé nhà thăm gia đ́nh chúng tôi. Một Trung
tá chính uỷ thuộc đơn vị pḥng không không quân Hà Nội, ghé thăm cựu
trung tá cảnh sát chế độ củ. Hai anh em thuộc hai chiến tuyến gặp
nhau tại Sài -G̣n sau 20 năm xa cách. Hai người đi hai con đường
khác nhau, cuối cùng hội tụ tại một điểm. Cũng chào hỏi, cũng mừng
mừng tủi tủi, cũng nhắc lại chuyện xưa, nhưng tôi biết quan hệ đă
không c̣n như trước nữa, ngượng ngùng, khách sáo. Nói thật ḷng, chú
tôi nh́n bề ngoài gầy g̣ khắc khổ, ít nói và trông có vẻ hiền lành
chứ không đến nỗi dữ dằn như trong tưởng tượng của tôi. Nhưng tôi
vẫn không thể chuyện tṛ thân mật với chú được. Một bức tường vô
h́nh đă chắn ngang trong quan hệ của chúng tôi.
Sau ngày đó thỉnh thoảng chú đến thăm ba tôi, và cũng kể từ ngày đó
những đồ đạc quí giá c̣n sót lại trong gia đ́nh cũng dần dần ra đi.
Khi th́ cái tủ lạnh, khi th́ cái truyền h́nh trắng đen hiệu Denon 4
cửa xếp. Mẹ nói riêng với tôi:
- cho chú, thôi kệ của đi thay người , hy vọng sau này có ǵ nhờ chú
giúp ba con cũng đở khổ phần nào.
Mẹ nghĩ vậy th́ hay vậy, chứ trong thâm tâm tôi mẹ đă không biết ǵ
về Cộng Sản rồi. Xin tiền th́ có thể chú sẽ cho nhưng để bảo lănh
cho một sĩ quan cảnh sát như ba tôi chắc chắn là không. Biết vậy,
nhưng thôi cứ để mẹ bám víu một chút hy vọng dù rất mong manh. Nói
một cách trung thực, từ ngày có chú đến thăm gia đ́nh, thái độ của
các công an CS, cán bộ phường đối với gia đ́nh tôi cũng có chút thay
đổi, không giống như những ngày đầu “mất nước”.
Nhớ lại ngay ngày mồng 2 tháng năm, vừa mới sáng sớm một đoàn người
đông đảo, cán bộ có công an có ghé vào nhà, kêu ba tôi ra tŕnh
diện, ra lệnh ba tôi trong thời gian này phải ở nhà, không được đi
đâu cả cho đến khi có lệnh mới. Sau đó đi một ṿng quanh nhà tôi,
ngang pḥng khách, giật đứt chiếc điện thoại để bàn, xem giấy tờ
từng người và trước khi ra về, lấy luôn chiếc đồng hồ đeo tay của ba
trên đầu tủ thờ. Chiếc đồng hồ kỹ niệm của ông nội mà ba rất quư. Mẹ
chắc lưỡi - thôi kệ, của đi thay người.
Một ngày cuối tháng sáu, cái ngày tôi biết chắc chắn phải đến, cuối
cùng đă đến. Ba tôi nhận giấy đi tŕnh diện học tập cải tạo dành cho
đối tượng sĩ quan nguỵ quân nguỵ quyển. Địa điểm tập trung: trường
Trung Học Chu Văn An. Trong giấy ghi rơ đem theo dồ dùng cá nhân để
sử dụng trong 30 ngày. Nhận được giấy báo, ba mừng như thoát được
gánh nặng canh cánh bao lâu nay. Ba bảo:
- Tôi nói có sai đâu bà, bây giờ hoà b́nh rồi họ không trả thù như
hồi Mậu thân đâu. Kỳ này tôi chỉ đi học có 30 ngày mà ngay tại Sài
G̣n này thôi. Xong kỳ học tập này rồi ḿnh sẽ được đối xử như những
người dân b́nh thường. Tôi tính gia đ́nh ḿnh sẽ về lại Đà Nẳng sinh
sống. Có mắm ăn mắm có rau ăn rau. Khoẻ rồi, hoà b́nh rồi, hết chiến
tranh rồi bà ơi.
Mẹ tôi, với linh cảm và yếu đuối của đàn bà, lên tận sân bay Tân Sơn
Nhất xin gặp chú nhờ chú giúp đở. Liếc sơ qua giấy báo tŕnh diện
học tập chú nói: - Chị đừng lo, cách mạng khoan hồng, anh cứ đi, học
tập khoản môt tháng là xong. Cứ học tập thật tốt, về sớm đúng ngày,
không sao đâu.
Mẹ tôi an ḷng chuẩn bị mền mùng thức ăn khô cho ba. Riêng tôi, qua
trực giác và qua sách báo đă đọc, tôi nghi ngờ về chữ học tập tốt mà
chú đă nhấn mạnh. Tôi biết là mọi chuyện chỉ mới bắt đầu. Để xoá đi
kư ức của một sĩ quan cảnh sát 51 tuổi đời, 25 năm quân ngủ, và để
đào tạo thành một người công dân chế độ xă hội chủ nghĩa, chắc chắn
không thể là 30 ngày ngắn ngủi như thế. Tôi biết là chú đă không nói
thật, và ba th́ ảo tưởng hoặc có thể đă biết nhưng muốn che dấu mẹ,
cố gượng vui chờ ngày lên đường tŕnh diện. Có những đêm thức giấc
giữa đêm khuya tôi thấy ba ngồi lặng lẽ và hút thuốc liên tục ngoài
hiên. Đôi vai như quằn xuống, tôi chua xót nhận ra chỉ trong một
thời gian quá ngắn ba đă già đi rất nhiều. Trong cái bóng tối mênh
mông, tôi cảm thấy ḿnh nhỏ bé và vô dụng vô cùng.
Một ngày trước khi đi, ba dặn riêng tôi không cho mẹ biết, hai cha
con ra chợ Bến Thành. Ba nói ba c̣n để dành 2 lượng vàng, bán xong
con nhớ đem về cất riêng, khi nào mẹ và các em cần tiền th́ con đưa
cho mẹ. Ba không biết khi nào về, con nhớ phụ mẹ lo cho các em. Th́
ra ba không ngây thơ như tôi tưởng, tất cả nụ cười trên khuôn mặt ba
thường ngày chỉ là giả tạo. Không có mẹ bên cạnh, ánh mắt ba bây giờ
mới là thực. Nh́n khuôn mặt hoang mang đến tội nghiệp của ba ,tôi
thấy mắt ḿnh cay cay. Thương ba vô cùng.
Cuộc mua bán 2 lượng vàng diễn ra nhanh chóng và lén lút. Tôi ngồi
canh chừng công an, ba đưa vàng, người bán đếm tiền gói lại đưa cho
ba, ba đưa tôi. Liếc ngang liếc dọc, bỏ vô túi xách, ôm kè kè bên
ḿnh, về nhà cất kỹ trong két khoá lại, pḥng khi bất trắc.
Sáng sớm hôm sau, không nhớ ngày, tháng 8 năm 1975, Ba từ giả gia
đ́nh đi tŕnh diện. Ba ôm mẹ, hôn các em. Mẹ, các em đều khóc. Bé út
khóc to nhất. Tôi ráng cắn chặt răng, mắt cay xè, hối hả đạp xe chở
ba đến trường Chu Văn An. Không ai nghỉ rằng, đó là lần cuối cùng mẹ
và các em gặp ba. Trước cổng trường, đông nghẹt những người đi tŕnh
diện và những thân nhân lóng ngóng bên ngoài. Tay xách ba lô, ba lủi
thủi đi vào, trước khi bước qua cánh cửa sắt có mấy tên công an đứng
gác, ba quay lại nh́n tôi như nhắc nhở con nhớ thay ba lo cho mẹ và
các em. Khi bóng ba mờ khuất sau dăy lớp, nỗi đớn đau kềm hảm bấy
lâu vỡ oà, tôi khóc ngon lành như một đúa trẻ. Tôi biết rằng ngày ba
trở về c̣n xa lắc xa lơ.
Từ khi ba đi, căn nhà trở nên vắng vẻ vô cùng. Mẹ phần lo chạy gạo
hằng ngày, phần lo lắng nhớ ba, gầy đi trông thấy. Tuy nhiên mẹ vẫn
hy vọng 1 tháng sẽ trôi qua nhanh chóng, ba trở về và mọi chuyện sẽ
trở lại như xưa. 30 ngày rồi 45 ngày trôi qua, tôi và mẹ bắt đầu sốt
ruột lo lắng. Mẹ cứ mỗi ngày hết đi ra lại đi vào, hết lên phường
hỏi thăm rồi lại lên Tân Sơn Nhất t́m gặp chú. Vẫn là 1 câu trả lời:
- Chắc sắp được về thôi. Anh học tập tốt th́ cách mạng sẽ cho về,
chị đừng lo.
Câu chị đừng lo càng lúc càng trở thành vô dụng khi bao tháng trôi
qua, vẫn không một tin tức ǵ về ba. Vừa phải lo cuộc sống vừa phải
chạy đôn chạy đáo hỏi thăm đầu này đầu nọ, mẹ già hẳn đi. Cuộc sống
càng ngày càng khó khăn cho một gia đ́nh 11 miệng ăn. Đồng lương ít
ỏi của tôi không đủ nuôi sống cả gia đ́nh, mẹ bắt đầu đem đồ đạc
trong nhà ra chợ bán. Chú th́ thỉnh thoảng vẫn ghé thăm nhưng thưa
thớt hơn nhiều. Có lẽ v́ bận rộn nhưng cũng có lẽ sợ không biết phải
trả lời sao với mẹ. Không lẽ đợi anh học tập tốt, cách mạng khoan
hồng, hay là chắc mai về khi mà ngày mai của chú có thể là một ngày
không bao giờ đến.
Thấm thoát rồi cũng qua một năm. Mẹ vẫn mỏi ṃn chờ đợi trong vô
vọng, ba vẫn biền biệt phương nào. Không một tin tức, không một dấu
vết, dù nhỏ nhoi. Những đồ vật có giá cuối cùng trong nhà cũng đă
bán hết. Hai mẹ con ôm nhau khóc. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ đến số
tiền bán 2 cây vàng dấu trên gác. Một số tiền khá lớn thời bấy giờ.
Ai ngờ khi mở gói tiền tôi sững sờ nh́n thấy nguyên bó tiền chỉ có
hai tờ đầu là tiền thật , ở giữa toàn là giấy báo. Th́ ra lợi dụng
việc mua bán chui lén lút, vừa bán vừa canh chừng công an, khi đưa
tiền, người bán đă tráo đổi gói tiền đang đếm bằng gói tiền gói sẵn.
Cho đến khi chết chắc ba cũng không thể ngờ những đồng tiền cuối
cùng ba để dành cho mẹ là con số không to tướng.
Trong những tháng năm sau đó, cuộc sống càng ngày càng khó khăn.
Không c̣n cách nào khác , mẹ vẫn mỗi ngày tiếp tục ra bán chui trước
chợ Tân Định. Sạp hàng là một tấm vải ni lông, cột dây bốn góc để dễ
túm lại khi có công an đến. Thời đó buôn bán trên vĩa hè là phạm
pháp. Vừa mua bán vừa láo liên canh chừng công an. Nếu công an tới
th́ túm tấm nilông bỏ chạy vào nhà lồng chợ. Công an đi khỏi, đem
hàng ra bày bán tiếp. Đồ bán khi th́ một đôi giày, một chiếc áo củ
hay có khi chỉ là lớp vải lông thú tách ra từ những chiếc áo lính
ngày xưa.
Có ǵ bán nấy. Khởi đầu là đồ đạc trong nhà, sau đó là đồ mua lại từ
những người có cùng hoàn cảnh đem bán. Cũng có khi là đồ chôm đồ
chỉa, cũng lây lất qua ngày. Các em c̣n qúa nhỏ, chỉ ḿnh tôi với
mẹ, sĩ diện, ḷng tự trọng của một kỹ sư cũng đem chôn chặt trong
ḷng. Tôi mỗi ngày, sau giờ làm việc cũng ra phụ mẹ, cũng chạy ra
chạy vào, cũng cặp mắt láo liên, vừa bán vừa mua, vừa canh chừng
công an. Trong những ngày vô cùng khốn khó đó, thỉnh thoảng chợt nhớ
về thời thơ ấu cũ ḷng thật buồn. Những ngày tươi đẹp ấy đă quá xa.
Những lo lắng về cuộc sống và một tương lai mù mịt, làm tôi trở nên
lạnh lùng chai đá. Dù rằng cũng có đôi khi, tôi một ḿnh khóc thầm
trong đêm.
Như một định mệnh, trong những ngày cùng cực khốn khó đó tôi gặp C.
vợ tôi bây giờ. Người ta hay nói vợ chồng là duyên là nợ. Điều này
rất đúng với chúng tôi. Trước 75 tôi và C. cùng làm chung tại Trung
Tâm Bưu Chính Viễn Thông thuộc Bưu Điện thành phố Sài G̣n. Gặp nhau
thường xuyên nhưng ít khi nói chuyện.
Nàng làm thư kư cho Desai, giám đốc chương tŕnh đào tạo của Liên
Hiệp Quốc. Hồi đó C là một người đẹp, nhiều người theo đuổi.
Tôi là kỹ sư mới ra trường. Tốt nghiệp Bách Khoa Phú Thọ, tôi chọn
vào Trung Tâm v́ tại đó có học bổng đi học cao học về viễn thông.
Tôi ghét cái kênh kiệu và lạnh lùng của nàng. Nàng th́ ghét cái
giọng Huế nặng trịch của tôi. Tôi càng ghét nàng khi bài thi xếp
hạng để đi du học của tôi bị cộng sai điểm. Tôi khiếu nại không
được. Và v́ vậy tôi bị sắp đi đợt 2 vào tháng 12 thay v́ đợt đầu vào
tháng giêng năm 75.
Chuyến đi du học tháng 12 bị băi bỏ do biến cố 75. Tự an ủi xem như
chưa có số xuất ngoại dù trong ḷng tôi buồn và tưng tức. Có lẽ, do
nợ tôi một món ân t́nh quá lớn nên sau này nàng đă phải trả lại tôi
gấp nhiều lần hơn. Cùng hoàn cảnh, cùng thuộc gia đ́nh ngụy quân
ngụy quyền, cùng ghét Việt Cộng như nhau, chúng tôi gặp nhau thường
xuyên trong những lần đi nghe các buổi nói chuyện về chính trị, về
chủ nghĩa Mac Lenin. Chúng tôi thường chọn ngồi dưới hàng ghế cuối
cùng. Để ngáp, và để ngủ không bị để ư. Những hàng ghế cuối cùng trở
thành nơi chúng tôi chia sẻ những đắng cay, những mất mát và những
yêu thương. Cuối cùng chúng tôi quyết định nên vợ nên chồng. Dám yêu
đứa con cảnh sát chế độ cũ, tương lai mờ mờ mịt mịt, chắc chắn chỉ
có thể nàng đă quá yêu tôi.
Đám cưới được tổ chức đơn giản. Không rễ phụ không dâu phụ, không
rước dâu. Lạy cha mẹ, lạy bàn thờ gia tộc hai bên, đơn giản chỉ như
vậy. Chỉ một số ít bạn bè thân thiết và bà con gần. Không có ǵ phải
phô trương khi ba tôi vẫn mịt mù đâu đó trong trại cải tạo, không
biết sống chết ra sao. Em yêu tôi và tôi cũng rất yêu em. Thế là đủ.
Một ngày trước đám cưới chúng tôi nhận được giấy báo từ phường Yêu
cầu gia đ́nh ra khỏi nhà trong ṿng 48 giờ. Lư do gia đ́nh thuộc
diện 28, sĩ quan cảnh sát làm việc cho chế độ Mỹ nguỵ. Giấy báo c̣n
cho biết phường sẳn sàng giúp đở, tạo mọi điều kiện để gia đ́nh có
thể lập nghiệp trên vùng kinh tế mới.
Kết thúc vội vàng buổi tiệc mừng đám cưới, hai vợ chồng đạp xe lên
sân bay Tân Sơn Nhất xin chú can thiệp giúp đở. Chú nói:
- theo chú thấy đi kinh tế mới dầu sao cũng tốt cho mẹ và các cháu.
Cực khổ lúc ban đầu nhưng sau này sẽ khá hơn. Hồi chú ở ngoài Bắc
cực khổ hơn gấp trăm lần, có sao đâu. Sau này ba con về c̣n có chỗ
sinh sống.
Trả lời như chú vậy th́ chẳng thà nói với đầu gối sướng hơn. Hai đứa
chỉ biết nh́n nhau, thầm nghĩ với t́nh thế này chắc cũng phải lên
đường đi lập nghiệp trên vùng đất mới mà thôi. Trong lúc cùng đường,
vợ tôi chợt nhớ đến ông xếp cũ từ thời trước 75, một kỹ sư tốt
nghiệp từ Pháp, cựu giám đốc bưu điện nay là cán bộ cao cấp làm việc
trong thành uỷ. Nghe tŕnh bày hoàn cảnh, nghĩ đến mối giao t́nh
thầy tṛ ngày xưa, ông nói để ông xuống phường xem thử. Không hiểu
ông can thiệp như thế nào, hai ngày sau phường gửi giấy quyết định
cho gia đ́nh tạm thời ở lại cho đến khi chồng đi cải tạo trở về. Nói
theo ngôn ngữ bóng đá bây giờ, vợ tôi đă cứu gia đ́nh tôi một bàn
thua trông thấy vào phút 90.
Từ khi lập gia đ́nh, tuy có thêm đồng lương của vợ tôi, nhưng vẫn
không thể nào đủ cho một gia đ́nh 11 miệng ăn. Bán chợ chạy của mẹ
th́ vất vả mà thu nhập quá kém cỏi. Hai đứa bắt đầu làm thêm đủ thứ
ngành nghề.
Khởi đầu là nuôi heo. Nhờ giấy giới thiệu của cơ quan, mỗi tháng vợ
tôi được mua một cặp heo con với giá rẻ. Chiếc cầu tiêu duy nhất tuy
nhỏ cũng được ngăn ra dành chỗ để nuôi 2 con heo mọi mới đẻ. Mỗi
ngày đi tiêu đi tiểu trong tiếng kêu ủn ỉn của chúng, mới đầu rất
khó chịu, nhưng rồi nghe riết cũng quen, cũng ghiền. Nuôi 1, 2
tháng, đem ra chợ bán. Lại lên trại mua 2 con khác nuôi tiếp.
Chỉ nuôi heo không cũng chưa ăn thua. Bắt đầu nuôi thêm gà công
nghiệp. Cũng xin giấy giới thiệu lên trại gà mua vài chục gà con,
nuôi vài tháng hơi lớn lớn rồi đem bán. Được vài tháng xuông sẻ, gặp
mùa toi dịch, gà heo chết hàng loạt, cụt vốn, hai vợ chồng nhảy qua
làm bánh đậu xanh, khô, ướt. Mẹ ngâm, đăi đậu, tôi cắt giấy, vợ tôi
gói. Mỗi chiều đi làm về, hai vợ chồng đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ
kỷ đi giao bánh cho mấy tiệm ăn quanh xóm. Không phải bán đứt, kư
gửi th́ đúng hơn. Giao bánh, vài ngày sau quay lại. Bán hết th́ lấy
tiền, giao bánh mới. Gặp lúc bán không hết, bị mốc, đem về không
biết làm ǵ cho hết, trộn vô cám cho heo gà ăn.
Cứ vậy, những tháng ngày tiếp tục trôi. Vợ chồng ốm tong ốm teo như
ma đói, nhưng cũng phải ráng chịu cực mong đợi ngày ba về.
Đến một ngày đầu tháng 2 năm 1978, bỗng nhiên chúng tôi nhận được
thư ba, lần đầu tiên. Góc thư tôi c̣n nhớ rơ địa chỉ Trại K2 Tân
Lập, Vĩnh Phú. Trong thơ ba hỏi thăm mẹ và các em. Ba kể ba đang học
tập cải tạo tốt. Thư ngắn chưa đầy một trang giấy. Ba nhắc tôi ráng
chăm sóc mẹ và các em. Đợi ngày ba về. Miền bắc lúc đó đối với tôi
vô cùng xa lạ. Nếu có biết cũng chỉ biết qua sách vở. Vĩnh Phú ở
đâu, ra sao, xa xôi như thế nào, không quan trọng, ít nhất là ba vẫn
c̣n sống.
Thế là đủ. Quá mừng rỡ mẹ biểu tôi viết thư thăm ba và mỗi đứa em
viết một câu cho ba. Mẹ nói tôi kể cho ba về cuộc sống ngoài này.
Tôi ầm ừ cho qua chuyện, trong thư chỉ viết là nhớ ba, mong ba học
tập tiến bộ để sớm về với gia đ́nh. Tôi không kể về cuộc sống gia
đ́nh từ ngày ba đi. Không lẽ cho ba hay rằng căn nhà đă bị tịch thu,
gia đ́nh suưt nữa bị đi kinh tế mới, hay lại kể với ba rằng mẹ mỗi
ngày đang bán từng chiếc áo cũ của ba ngoài lề đường. Hoặc kể cho ba
chuyện 2 cây vàng. Thôi th́ cứ để ba vui khi nghĩ rằng vợ và các con
của ba dù là con của sĩ quan chế độ Mỹ nguỵ, vẫn được cách mạng CS
đùm bọc thương yêu. Thôi th́ cứ như vậy cho ba yên ḷng và ít nhất
thư cũng đến được với ba. Kể từ hôm đó khoảng hơn mỗi tháng một lần
gia đ́nh tiếp tục nhận được thư ba. Mỗi lần chỉ hơn một trang giấy,
nhưng cũng mang đến cho chúng tôi một niềm vui và hy vọng. Sẽ có
ngày ba trở về.
Cho đến một ngày, Cũng từ K2 trại cải tạo Tân Lập Vĩnh Phú. Cũng nội
dung ba đang học tập tốt, cán bộ đố xử với ba rất tốt, cũng khuyên
các con cố gắng học tập trở thành cháu ngoan của “Bác”, nhưng nét
chữ run run, nguyệc ngoạc, khó đọc và ngắn hơn rất nhiều so với các
thư trước. Mẹ và các em vẫn mừng rở như mọi lần, nhưng riêng tôi
linh cảm một điều ǵ đó không hay đang xảy ra. Hai vợ chồng đem thư
ba lên pḥng đọc đi đọc lại nhiều lần. H́nh như chữ “tốt” (học tập
tốt, sức khoẻ ba vẫn rất tốt được viết đậm hơn, to hơn các chữ
khác). Chữ ba viết quá xấu so với b́nh thường. Rất bất thường. Không
tốt nghĩa là xấu. Không khoẻ nghĩa là bịnh.
Quá lo lắng, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện đi thăm ba. Lên phường xin
giấy phép đi ra Bắc, bị từ chối. Phải có giấy phép thăm nuôi từ trại
gửi về. Hồi đó muốn đi Hà Nội và các tỉnh miền Bắc, người dân b́nh
thường như tôi phải làm đơn xin phép, phải có lư do chính đáng và
phải có người bảo lănh. Thời gian được cấp giấy phép thường rất lâu
nhất là đối với những gia d́nh thuộc diện nguỵ quân nguỵ quyền như
chúng tôi. Lên gặp chú nhờ chú can thiệp giúp đở, chú nói cũng y hệt
như mấy ông cán bộ phường:
- khi nào họ cho phép thăm nuôi th́ ba con sẽ gửi giấy tờ về.
Chú trả lời như vậy th́ kể như không nói. Thật lo lắng cho ba, nhưng
không biết làm sao, đêm đêm tôi chỉ biết cầu nguyện cho ba sức khoẻ,
và mong chờ một phép lạ. Và phép lạ cuối cùng cũng đă xảy ra
Ở hiền gặp lành. Tháng 8 hiệu trưởng loan báo có đợt cho nhân viên
và giáo viên trường Bưu Điện đi tham quan miền bắc xă hội chủ nghĩa
và du ngoạn tại băi biển Đồ Sơn 1 tuần. Tôi và vợ tôi có tên trong
danh sách được đi. Lúc đó vợ tôi đang mang thai đứa con đầu được 5
tháng. Phần làm việc vất vả, phần thể trạng yếu đuối, khộng dám đi
xa, vợ tôi đành ở nhà. Tôi đi ra miền bắc một ḿnh. Không phải v́
yêu “Hà Nội xă hội chủ nghĩa” cũng không phải để tắm biển Đồ Sơn, mà
trong ḷng tôi đang h́nh thành một kế hoạch đi t́m ba.
Cả đoàn đi ra Hà Nội bằng xe lửa. Chuyến đi gồm hai phần. Phần đầu
là phần nghe giảng về chính trị, về chủ nghĩa Mac Lenin, về miền bắc
xă hội chủ nghĩa 4 ngày tại Hà Nội. (Phần này bắt buộc không ai được
vắng mặt). Phần sau 3 ngày là về nghỉ ngơi vui chơi tại băi biển Đồ
Sơn. Phần này kỹ luật tương đối lỏng lẻo hơn. Đa số các cán bộ quê
miền Bắc nhân thời gian này tranh thủ về thăm gia đ́nh, chỉ có những
người miền Nam lần đầu tiên ra Bắc là theo đoàn về Đồ Sơn. Tôi th́
đă có kế hoạch từ trước xin trưởng đoàn ở lại Hà Nội với lư do thăm
gia đ́nh ông chú ruột là trung tá Chính ủy đơn vị pḥng không không
quân. Cũng phải viện một lư do ǵ đó để đơn xin có trọng lượng. Cũng
phải cho trưởng đoàn biết là con nguỵ nhưng cũng có bà con là cán bộ
cộng sản dù trong thâm tâm tôi biết ông chú đi cách mạng có cũng như
không, khó nhờ vả sơ múi ǵ đuợc. Hồn ai người nấy giữ.
Thế là những ngày đầu thánh 9 năm 1978, tôi bắt đầu chuyến hành
tŕnh t́m cha. Chưa một lần ra miền Bắc. Với tôi tất cả điều xa lạ.
Manh mối duy nhất là địa chỉ trên thư: K2 Trại cải tạo Tân Lập Vĩnh
Phú. Phương tiện di chuyển: chiếc xe đạp Phượng Hoàng mượn của ông
chú.
Sáng mồng 3 tôi bắt đầu ra đi từ nhà chú: khu Tập thể Nam Đồng, Đống
Đa, Hà Nội. Trạm đầu tiên: Ga xe lửa Hàng Cỏ. Hỏi thăm các người bán
hàng rong ở ga. Vĩnh phú th́ nhiều người biết nhưng trại Tân Lập ở
đâu th́ không ai hay. Thôi th́ cứ lên tàu đi về hướng Vĩnh Phú trước
đă.
Đúng là tàu chợ, xe lửa th́ củ kỹ, hôi hám, trên các toa đông nghịt
người, đa số là người lao động và người bán hàng rong. V́ vướng
chiếc xe đạp, chật vật lắm tôi mới leo được lên toa cuối cùng khi
tàu bắt đầu chuyển bánh. V́ lên sau cùng, tàu đông kịt người, chỗ
đứng chổ ngồi hầu như không c̣n, tôi ngồi xuống một khoảng trống sát
vách cầu tiêu. Lần đầu tiên tôi cảm thấy nỗi cô đơn giữa một rừng
người cùng tiếng nói, cùng một màu da.
Mỗi một trạm tàu dừng, tôi đều hỏi thăm những người khách và những
em bé bán chè xanh nhảy lên từ mỗi trạm. Cuối cùng cũng có được một
tin tức mơ hồ từ một em bé:
- Có lần đi bán nước chè, em có gặp một đoàn người h́nh như ở trong
nam ra v́ không giống người ngoài này, đi lao động, h́nh như ở gần
ga Ấm thượng, Vĩnh Phú. Em bé nói thêm h́nh như có trại giam giữ
những người miền nam gần đó.
Tôi bám tàu đi tiếp. Tàu lắc lư đi về hướng Cao Bằng Lạng Sơn. Mùi
hôi thúi bốc lên từ cái cầu tiêu công cộng cộng hoà quyện vào cái
mùi mô hôi của hàng trăm người đứng ngồi lóc nhóc không làm tôi bận
tâm. Tôi măi suy nghĩ khi nào th́ đến ga Ấm Thượng?. V́ không nh́n
được qua cửa sổ, tôi đành nhờ một bà lăo ngồi sát cửa sổ nhắc giùm
khi đến ga.
Xuống được ga Ấm Thượng th́ cũng đă giữa trưa. Phải nói là trạm th́
đúng hơn. Nhà ga là một căn nhà nhỏ, vách lá, trống huơ trống hoắc.
Vùng đất thật hoang vu, dân di lại thưa thớt. Ra khỏi ga là một con
đường đất đỏ duy nhất về một làng nào đó ở xa xa. Tôi vừa đi, vừa
hỏi đường. Hỏi xem có ai biết về trại Tân Lập không? Không ai biết.
Phải đến lần thứ 9hay thứ 10 ǵ đó, khi tôi đă vào sâu khoảng 5, 7
cây số, mới có được câu trả lời tương đối rơ ràng:
- Phải đi thêm 20 đến 25 Km về phía dăy núi, bên này là Trại Tân
lập, bên kia là biên giới Trung Quốc.
Đoạn đường đi xa diệu vợi, chân tay ră rời, đôi khi tôi kiệt sức
muốn bỏ cuộc quay về. Nhưng nghĩ đến ba, tôi gắng gượng tiếp tục lên
đường. Con đường càng vào sâu càng lúc càng khó đi. Khi th́ ngoằn
nghèo, khi th́ lồi lơm. Có những đoạn không đạp xe được v́ mưa trơn
trợt, tôi xuống xe dắt bộ. Nhà cửa càng lúc càng thưa thớt, càng ít
người qua lại. Tôi vừa mệt, vừa sợ, vừa đi vừa nh́n chung quanh, dáo
da, dáo dát. Nói thật lúc đó có ai nhảy ra, phang cho ḿnh một gậy,
cướp xe đạp, vất xác xuống ven đường, chắc cũng không ai hay.
Từ cha sinh mẹ đẻ đến nay có bao giờ tôi đi đâu một ḿnh như thế này
đâu. Hồi nhỏ th́ có cha có mẹ, vào trường th́ có bạn có bè. Đi đâu
cũng đi với người này hay người khác. Ngay cả khi đi trồng cây si,
cũng rủ thêm Trường Thọ hay Quốc Chính (đă mất) cùng đi. Đi đâu cũng
xe đạp hay xe Jeep của Ba. Đi bộ th́ nhiều nhất là một cây số. Chạy
th́ nhiều nhất một ṿng sân trường là thở dốc. Vừa mệt vừa sợ cướp,
vừa sợ ma, tôi vừa đạp xe vừa lẩm bẩm cầu nguyện, nhiều lúc nản quá
muốn quay về. Rồi lại nhớ đến ba, nhớ đến khuôn mặt buồn thê thảm
của ba trước cổng trường Chu Văn An ngày nào, tôi lại lê lết lên
đường đi tiếp.
Đúng là lê là lết. Đường càng lúc càng khó đi. Mưa phùn, đường hẹp,
đất bùn quyện nước mưa nhăo nhoẹt bám vào bánh xe càng làm nặng nề.
Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Một cái lạnh cắt da cắt thịt. Nhưng nỗi
khổ chưa dừng ở đó. Trên con đường độc đạo duy nhất về trại Cải tạo
Tân Lập, tôi phải vượt qua hai con sông.
Quen với cái hiền hoà của gịng sông Hương thuở nhỏ, chưa bao giờ
tôi thấy con sông nước chảy dữ dằn như vậy. Ḍng nước đục ngầu và đỏ
như máu chảy cuồn cuộn. Đứng bên này nh́n thấy bờ bên kia nhưng
không biết cách nào qua. Không cầu không cống. Không một bóng người.
Men theo bờ sông, tôi đi về hướng ánh đèn leo lét xa xa. Hỏi thăm,
th́ ra muốn qua sông th́ đi một đoạn nơi có bờ đá dô ra ở mé sông,
chụm hai tay gọi lớn sang bên bờ bên kia “ Đ̣ ơi…ơi” Thế là từ bên
kia bờ, chênh chếch phía trên có một thuyền nhỏ một người chèo qua.
Nói th́ rất dễ dàng nhưng để băng qua được bên này không dễ chút
nào. Khoảng cách hai bên bờ không lớn lắm, nhưng do nước chảy xiết,
từ bên kia muốn qua bên này, người lái đ̣ phải khéo léo dựa theo
ḍng nước chảy, từ trên xa trôi xuống, tắp đúng vào kè đá nơi tôi
đứng. Điều khiển không khéo th́ thuyền lật như chơi, c̣n nếu không
th́ thuyền tắp xuống quá kè đá, không đúng chỗ đón khách.
Bác lái đ̣ giúp tôi đưa xe đạp và tôi xuống thuyền. Nh́n người lái
đ̣, nh́n ḍng nước sông dục ngầu cuồn cuộn chảy, tôi nhớ các đoạn
văn của Nhất Linh, của Khái Hưng thời Tự Lực Văn Đoàn kể về các tỉnh
miền Bắc xa xôi này. H́nh như nơi đây, bánh xe thời gian đă ngừng
lại. Giống y chang như trong các bài văn ngày nào. Vẫn như xưa, nếu
không nói là cũ kỷ hơn, nghèo khổ hơn. Và có lẽ v́ vậy người dân ở
miền đất sát biên giới Việt Trung này hiền lành và chơn chất gấp vạn
lần những con người tôi găp ở Hà Nội. V́ vậy, may mắn tôi vẫn c̣n
cái mạng quay về.
Đi thêm một đoạn dài, vượt qua thêm một nhánh sông tương tự th́ trời
đă tối đen. Lúc này tôi không c̣n đạp xe được nửa. Tôi dắt xe, vừa
đi vừa run cầm cập. Dân thành thị như tôi, lần đầu tiên mới cảm thấy
nỗi sợ hăi cùng cực khi một ḿnh giữa đồng không mông quạnh, âm
thanh là tiếng côn trùng ếch nhái, thỉnh thoảng là những ánh đom dóm
lập loè. Lại thêm cái lạnh cắt da của ban đêm và mưa phùn miền Bắc.
Khổ không thể cực khổ hơn. Sợ không thể nào sợ hơn. Nếu không v́ ba
tôi đă bỏ cuộc từ lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng gặp được một căn
cḥi trống ven đường. Đây có thể là nơi tạm trú của những nông dân
hay của những em bé chăn trâu nào đó.
Căn nhà (cái cḥi th́ đúng hơn) nhỏ xíu, trống không, có một cửa
bằng tre nhỏ xíu. Đặt chiếc xe đạp sát vách, tôi ngồi xuống tựa lưng
nghỉ mệt. Có thể nói trong đời đây là căn nhà ấm áp nhất mà tôi từng
ở dù rằng những giọt mưa vẫn từ các khe hở nhỏ xuống lạnh buốt. Bây
giờ mới cảm thấy đói. Bửa ăn tối đầu tiên trên miền đất tận cùngbiên
giới của người con đi t́m cha đang học tập cải tạo là một cái bánh
bao không nhưn mua vội trên tàu. Cái gọi là bánh bao thật ra chỉ là
một cục bột hôi mốc nhờ mưa ẩm ướt làm mềm đi nếu không chắc sẽ cứng
như đá. Nhưng không sao, khi đói th́ đất cát vẫn thấy ngon như
thường. Vừa ăn tôi vừa cố nuốt đi những giọt nước mắt. Cùng với cơn
lạnh ban đêm, dù trải qua một ngày không ngủ, mệt lă, tôi vẫn không
tài nào chợp mắt được. Tôi ngồi bó gối co ro ở một góc nhà. Lần đầu
tiên tôi thấy cái vô tận của đêm dài.
Trời vừa hơi sáng là tôi lên đường ngay. Đi thêm một chặng đường đất
khá dài, khoảng hơn 2 tiếng đồng hồ, cuối cùng tôi cũng đến được
trại Tân Lập. Thật ra cái tôi gặp đầu tiên ở giữa cái đồng không cô
quạnh này là một ngôi nhà tranh, tương đối lớn, phía trước có treo
một tấm bảng nhỏ “ K10 Tân Lập”. Bên trong là một cái bàn dài có hai
dăy ghế bằng tre. Không thấy có ai canh gác. Tôi nghĩ đây là nhà
khách. Đợi một lúc quả nhiên tôi thấy một công an đi ra. Tôi tŕnh
giấy tờ, ghi rơ là cán bộ Bưu Điện ra Hà Nội công tác luôn tiện thăm
cha đang học tập tại K2 Tân lập.
Mừng hụt. Trại cải tạo Tân Lập th́ đúng rồi nhưng đây là nhà khách
thuộc K10. Toàn trại gồm có 10 khu vực. Nếu tính từ ngoài vào trong
th́ bắt đầu từ khu K10, K9…cuối cùng sát biên giới là khu K1. K10 là
khu vực đầu tiên của trại Tân Lập. Từ đây sẽ không có nhà dân mà chỉ
có những trại giam, cán bộ và tù nhân. Sau này tôi mới biết khu trại
Tân Lập không chỉ giam giữ các tù nhân từ trong Nam mà c̣n là nơi
giam giử các thành phần bất hảo ăn cắp ăn trộm ngoài Bắc. Thành phần
này được giam ở các khu K10, K9 gần phía nhà dân.
Các tù nhân sĩ quan từ miền nam được phân loại và giam giử theo thứ
tự ,chức vụ càng cao, càng ác ôn th́ được đưa về các khu số nhỏ K1,
K2 sát núi gần biên giới, khí hậu khắc nghiệt và rất khó trốn thoát.
Nếu có vượt thoát được công an ở các khu vực K1, K2, K3…th́ chắc
không qua được các thành phần bất hảo của K9, K10. Ai nói Việt Cộng
ngu. Có đào thoát khỏi trại, mặc áo tù đi lang thang 30 Km, ra khỏi
đây không bị bắt trở lại mới lạ.
Lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là nhũng cánh đồng khoai ḿ,
những cánh đồng trà cằn cỗi. Thỉnh thoảng tôi bắt gặp từng toán
người mặc áo tù đang cuốc đất. Từng nhóm làm việc lặng lẽ. Lúc này
đường đất tương đối dễ đi hơn. Tôi cúi thấp người cố gắng đạp thật
nhanh. Đi riết rồi cũng đi qua hết khu K3 và bắt đầu vào địa phận
K2. Có lẽ khoảng 10 giờ sáng, mưa phùn vẫn c̣n rơi. Tính ra từ sáng
tới giờ tôi đă đi một lèo gần 4 tiếng đồng hồ. Không ăn uống ǵ
nhưng tôi vẫn không cảm thấy đói. Tôi đang náo nức với cái cảm giác
sắp được gặp lại ba. Vừa đi tôi vừa suy nghĩ những chuyện sẽ hỏi ba,
chuyện ǵ sẽ kể cho ba. Tự nhủ phải thật b́nh tỉnh, phải không được
xúc động, phải không được khóc. Nghĩ tới lúc sắp gặp ba, quên cả mệt
nhọc, tôi ráng sức đạp thật nhanh.
Qua khỏi khúc quanh cuối K3 để vào K2, tôi thấy cách đường đất đỏ
khoảng 5 đến 10 mét một nhóm khoảng mươi người áo quần lam lũ ,
người đang cuốc đất, người đang vác những bó củi khô, cạnh đó mấy
tay mặc áo vàng đội mũ cối, cầm súng đi qua đi lại. Tôi biết chắc
chắn đó là những tù nhân đang lao động cải tạo. Như một phản xạ tự
nhiên, tôi đạp xe chậm lại, đưa mắt nh́n quanh. Cùng lúc một tù nhân
đang đội nón lá lui cui gần vệ đường ngước mắt nh́n về phía tôi. Dù
đă bao năm qua không gặp, dù bây giờ đă quá khác xưa, gầy g̣, mặt
mày đen thui, râu tóc dài bạc phơ, nhưng tôi vẫn nhận ra đó là Ba.
Nhảy ra khỏi xe, tôi thảng thốt kêu lên một tiếng Ba thật to. Tiếng
kêu làm nhiều người quay lại hướng về phía tôi trong đó có mấy tên
công an cầm súng đứng ven đường. Trong khoảnh khắc, tôi bắt gặp đôi
mắt hoảng hốt của ba, cặp mắt của con thú hoang ngây dại và đầy vẻ
lo sợ, ba vừa chớp mắt vừa lấy tay xua lia lịa như muốn tôi đứng lại
và chỉ về phía căn nhà xa xa. Tôi khựng lại, tôi biết tôi không được
quyền đứng lại hay tṛ chuyện với ba. Nuốt giọt nước mắt đang chực
chờ chảy, tôi lên xe phóng nhanh về căn nhà khách, không quên nh́n
lại ba. Vẫn kịp thấy ba đang cúi xuống, tấm lưng gầy g̣ yếu đuối run
run ngă quị bên đường.
Tiếp tôi trong căn nhà khách K2 là một công an mặt áo vàng, gương
mặt gầy nhọn, non choẹt và giọng nói rặt Bắc Nghệ an. Tôi đưa giấy
tờ chứng nhận là cán bộ giáo viên trong nam ra công tác Hà Nội tranh
thủ thăm cha đang học tập cải tạo ngoài này. Sau khi xem giấy tờ,
tên cán bộ hỏi tại sao tôi biết nơi này. Không lẽ nói do tự t́m
kiếm, tôi nói do chú là Trung tá chính ủy chỉ đường. Thái độ có vẻ
nhă nhặn hơn nhưng gă ta cho biết là tôi không thể thăm được ba tôi
lần này được với lư do: - Ông nhà đang trong thời kỳ bị kỹ luật do
vi phạm nội quy của trại, đang bị biệt giam.
Thú thật nếu không gặp mặt ba ngoài kia, chắc chắn tôi đă phải tin
lời quay về. Tôi biết hắn đang làm khó dễ. Tôi nắm chặt bàn tay dằn
cơn giận dữ. Xuống nước:
- Nhưng thưa cán bộ tôi mới gặp ba tôi ở ngoài kia.
Tên cán bộ gằn giọng:
- anh có chắc không? Ông đang bị biệt giam, ai cho ra ngoài, chắc
anh nh́n lầm.
Sao có thể lầm ba với ai được. Dù có bị đày đoạ cở nào, dù ba có
thay đổi bao nhiêu, th́ tôi vẫn không bao giờ lầm ba với ai khác.
Cặp mắt ấy, con người ấy với tôi là duy nhất. Đuối lư nhưng tay công
an vẫn khăng giữ vững ư định không cho tôi gặp ba. Nhiều lư do được
đưa ra: Thứ nhất đây không phải là mùa thăm nuôi, thứ hai tôi cũng
không có giấy phép (hèn chi các nhà khách tôi đi qua vắng như chùa
bà đanh).
Tôi cố gắng tŕnh bày là đi công tác đột xuất, hơn nữa đường đi xa
xôi, đă lỡ đến đây rồi, xin cán bộ thông cảm. Làm ra vẻ tử tế, lăo
cán bộ chép miệng:
- thật ra tôi cũng muốn thông cảm cho anh, không phải tôi làm khó dễ
nhưng thú thật không thể cho anh gặp được.
Tôi càng năn nỉ, tên cán bộ càng cứng rắn. Lăo nỗi nóng:
- nhưng tôi nói không gặp được là không gặp được, anh về khi nào có
giấy tờ thăm nuôi th́ chúng tôi sẽ giải quyết.
Nh́n khuôn mặt tên cán bộ mặt mày lấc cấc, máu tôi sôi lên, tôi muốn
đấm cho nó một cái, ra sao th́ ra. Nhớ đến ánh mắt của ba ngoài kia,
cặp mắt ngây dại của con thú hoang đang co cụm dẫy chết. Nhớ đến đôi
vai gầy g̣ run rẫy trong gió lạnh ngoài kia, ḷng tôi dịu lại, tự
nhiên tôi bật khóc, khóc ngon khóc lành. Vừa khóc tôi vừa năn nỉ tên
cán bộ đáng tuổi em ḿnh. Tiếng khóc động đến ḷng trời, đúng lúc
một tay cán bộ nữ bước vào. Có lẽ khuôn mặt một người đàn ông đang
khóc nh́n thê thảm, xấu xí và cảm động quá, sau khi bàn bạc, cán bộ
nữ đồng ư cho tôi được gặp ba nhưng chỉ được gặp đúng 15 phút mà
thôi. Dù sao đàn bà vẫn là đàn bà, vẫn t́nh cảm hơn.
Chờ khoảng một tiếng, một tên công an đi vào, theo sau là ba tôi.
Lúc này tôi mới có cơ hội nh́n rơ ba. So với hồi ở nhà, hoàn toàn
khác hẳn. Khuôn mặt đen sạm, tóc tai bạc trắng, râu dài tới ngực,
mặc bộ đồ tù cũ kỷ, tay cầm chiếc nón lá rách tả tơi. Không kềm được
tôi phóng người về phía ba, hai tay dang rộng. Ba giật ḿnh bước
tránh qua một bên miệng lắp bắp "dạ thưa cán bộ, tại con tôi không
biết”. Nói xong ba lầm lủi theo tên công an đến chiếc bàn tre chính
giữa pḥng. Đợi tên công an ngồi xuống chiếc ghế ở giữa hất đầu ra
lệnh, ba ngồi xuống ở chiếc ghế đầu kia đối diện với tôi. Tên CA hất
hàm:
Anh có 15 phút để nói chuyện với ông.
Dù tự nhủ phải cố gắng b́nh tỉnh nhưng vẫn không thể được, tôi oà
khóc như một đứa bé. Trong khi đó ngoài trừ cặp mắt ánh lên một nỗi
niềm khổ đau vô hạn, ba b́nh tĩnh hơn tôi nhiều. Ba nói trước, ba
hỏi thăm về mẹ, về các em. Cũng vẫn là lời lẽ như trong các thư ba
gửi về. Thỉnh thoảng dù rất cố gắng ḱm lại nhưng ba vẫn húng hắn
ho. Tiếng ho vẫn đục như có đàm chận trong cổ. Vừa khóc, vừa trả lời
tôi măi nh́n ba, muốn nhảy đến ôm ba vào ḷng. Nhưng khoảng cách hai
đầu chiếc bàn quá xa và tên công an ngồi chính giữa như một bức
tượng lạnh lùng, đe doạ. Tôi để cho ba hỏi ba nói và tôi trả lời. Có
nhiều điều muốn hỏi, muốn kể với ba nhưng nỗi xúc động làm tôi không
nói được nên lời.
Thật ra nếu nhớ ra, có hỏi, chắc chắn cũng là câu “cách mạng khoan
hồng, ba học tập tốt sẽ được cho về ”. Nh́n ánh mắt ba, tôi biết sẽ
không bao giờ ba học tập tốt được, ngày về sẽ c̣n xa lắc xa lơ. Tôi
lấy từ trong túi sách, mấy gói thực phẩm khô, chuối khô do mẹ làm,
một ít bánh đậu xanh, mấy hộp diêm một tút thuốc lá đen đẩy về giữa
bàn về phía Ba. Ba đẩy tất cả về phía tên CA, miệng nói: nhờ cán bộ
giữ giùm. Cặp mắt sáng lên, mặt bớt lạnh lùng, tên CA đem các món đồ
vào chiếc tủ nhỏ ở góc pḥng. Không biết ba sẽ nhận được lại các món
này hay không, tôi không có tâm trí để nghĩ đến.
Tôi cứ măi nh́n người đàn ông gầy g̣ tội nghiệp và yếu ớt đang ngồi
trước mặt ḿnh không nói được lời nào. Nước mắt cứ không ngừng tuôn.
Nói chuyện được khoảng 15 phút tên công an lạnh lùng đứng dậy tuyên
bố hết giờ. Ba chậm chạp đứng lên, cặp mắt nửa như ngây dại, nửa
thảng thốt, nửa tiếc nuối nh́n tôi, bước theo tên công an ra khỏi
nhà khách. Không ḱm được, tôi vùng chạy tới, ôm choàng lấy ba khóc
như mưa. Lần đầu tiên tôi thấy mặt gă công an như dịu lại, quay mặt
ra nơi khác. Bây giờ th́ ba cũng khóc. Không biết chúng tôi đứng bên
nhau được bao lâu cho đến khi tên CA kéo tay Ba tôi đi. Ba lủi thủi
đi không quay lại. Cái dáng đi kḥm kḥm, nhẫn nhục đến tội
nghiệp.Và đó là lần cuối cùng tôi gặp ba. C̣n sống.
Sau chuyến đi gặp ba trở về, biết được địa điểm, lo lắng về t́nh
trạng sức khoẻ của ba, mẹ suốt ngày hối thúc tôi đưa mẹ đi thăm ba.
Thời đó người dân b́nh thường nếu muốn ra Bắc phải làm đơn ra phường
xin phép. Với gia đ́nh nguỵ quân nguỵ quyền như gia đ́nh tôi, xin
giấy phép càng khó khăn hơn, thời gian chờ đợi lâu hơn. Phường th́
bảo phải có giấy phép thăm nuôi từ trại gửi về mới cấp. Đợi giấy
phép th́ không biết đến khi nào. Lên gặp chú th́ chú chỉ ngược về
phường. Cũng như không. Mẹ th́ cứ sốt ruột, đi ra đi vào. Suốt ngày
mẹ như lửa đốt, bỏ ăn bỏ làm. Các em th́ c̣n nhỏ dại, cũng chỉ hai
vợ chồng chúng tôi trăm phương ngh́n kế ,tính đủ mọi cách cũng chưa
biết phải làm thế nào.
T́nh cờ (đến lúc này th́ tôi tin có những sự t́nh cờ do ơn trên sắp
đặt), tôi được lệnh ra Hà Nội tham gia lớp tập huấn dành cho giáo
viên môn mạch điện tử. Lấy lư do là lần trước vợ tôi chưa đi Hà nội,
tôi xin phép Hiệu trưởng cho vợ tôi được nghĩ phép cùng đi. Do quan
hệ tốt và có lư do chính đáng, hiệu trưởng đồng ư kư giấy phép dù
bây giờ vợ tôi mới sinh con đầu ḷng, sức khoẻ c̣n yếu lắm. Thật ra
chúng tôi đă có kế hoạch từ trước. Giấy phép đi Hà Nội có ghi rơ tên
tôi và vợ tôi NGUYEN THI CUC, cán bộ Trường Bưu Điện Thành phố ra Hà
Nội công tác. Chữ trên giấy phép do chúng tôi điền và đưa hiệu
trưởng kư. Chữ CUC sau này được sửa thành chử LỘC, tên của mẹ tôi.
Thế là tôi và mẹ có giấy phép ra Hà Nội công tác, dĩ nhiên chính là
để thăm cha.
Lần trước khi thăm ba, do không biết đường đi cũng như không hy vọng
gặp được ba tôi chỉ đem một ít đồ dùng. Kỳ này mẹ chuẩn bị chu đáo
hơn. Bao nhiêu tiền dành dụm, mẹ đem ra mua hết. Sửa đặc, cơm khô,
thịt chấy, bánh đậu xanh, áo quần ,thuốc lá (nên nhớ hồi đó mọi nhu
yếu phẩm, gạo cơm, thức ăn đồ dùng đều được cung cấp theo chế độ tem
phiếu, có tiền cũng rất khó mua). Chúng tôi phải dùng mọi cách, từ
vay mượn đến năn nỉ xin xỏ gom góp cũng được khoảng hai bao tải gần
60 kg.
Hai mẹ con ra Hà nội bằng xe lửa. Sau khi xong công việc thanh thủ
cuối tuần hai mẹ con cùng người gánh hàng thuê lên tàu chợ hướng Cao
Bằng Lạng Sơn về ga Ấm Thượng. Do đă biết trước địa điểm, lại háo
hức mong gặp ba, chuyến đi này diễn ra xuông sẽ nhanh chóng hơn lần
trước. Vượt 30 km đường bộ, cuối cùng chúng tôi cũng đến được nhà
khách K2 vào lúc nửa đêm. Mẹ chịu đựng gian khổ và khoẻ hơn tôi
tưởng tượng rất nhiều. Nghĩ đến lúc gặp lại ba vào ngày mai, hai mẹ
con suốt đêm thao thức không ngủ được.
Tiếp chúng tôi là một tay công an khá lớn tuổi với khuôn mặt rất
h́nh sự. Tôi tŕnh bày lư do, giấy tờ và xin phép được gặp ba. Gă
cầm giấy tờ đi vào bên trong. Độ khoảng 15 phút, gă đi ra vẫn với
khuôn mặt khó đăm đăm. Gă nói: Rất tiếc không thể để hai người gặp
tù nhân này được. Ông nhà đang bị kỹ luật v́ vi phạm nội quy trại.
Hai người có thể để thức ăn và đồ dùng lại chúng tôi sẽ chuyển cho
ông. Mẹ tôi bắt đầu khóc lóc và năn nỉ. Gă một mực cương quyết lắc
đầu. Mẹ tôi càng lúc càng khóc to hơn.
Càng bị từ chối, nỗi uất ức càng lớn, bà càng lớn tiếng. Không có
nỗi đau nào bằng nỗi thất vọng lúc này của chúng tôi. Khóc hết nước
mắt vẫn không lay chuyển, mẹ tôi càng la càng hét. Gă công an lúng
túng không biết xử lư như thế nào với t́nh thế phát sinh lúc này. Mẹ
tôi lúc này như một người mất trí, khuôn mặt nhể nhoại mồ hôi. Cặp
mắt đỏ ngầu. Những người đến thăm nuôi và cả những cán bộ của các
bàn bên cạnh đều hướng về phía bàn chúng tôi. T́nh h́nh căng thẳng
đến nỗi đến tai cấp chỉ huy trại. Một sĩ quan công an bước vào. Hai
người thầm th́ nhỏ to ǵ đó. Cuối cùng viên sĩ quan đến gặp chúng
tôi, dịu giọng:
- Thật ra chúng tôi rất muốn giúp bà nhưng quả thật hiện nay ông nhà
đang bị kỹ luật bị giam ở ngoài trại cách đây rất xa. Thôi bà về đi.
Tuần sau bà quay lại. Tôi sẽ cho bà gặp ưu tiên với thời gian gấp
đôi b́nh thường. C̣n bây giờ bà cứ để thức ăn và đồ dùng chúng tôi
hứa sẽ đưa tận tay ông nhà, không thiếu một thứ ǵ.
Năn nỉ ỉ ôi cách mấy cùng không lay chuyển tên cán bộ quản giáo, tôi
nghĩ chắc là hết cách. Chắc phải ở lại Hà Nội thêm một tuần . Nh́n
khuôn mặt hiền lành của viên sĩ quan công an, tôi nghĩ gă đă rất
thiệt t́nh. Tôi nói nhỏ với mẹ, ḿnh về thôi. Tuần sau lên lại hy
vọng họ giử lời hứa cho gặp được Ba lâu hơn.
Trong khi quay lại bàn tiếp tân để làm thủ tục đưa thức ăn và đồ
dùng cho ba bỗng dưng tôi thấy một ánh mắt hơi khác lạ của một tù
nhân làm nhiệm vụ đem nước chè xanh cho những người đến thăm nuôi.
Để ấm nước xuống bàn, người này đi chầm chậm về phía cḥi vệ sinh
sau khi ngoái lại nh́n tôi, đôi mắt nhấp nháy kỳ lạ. Tôi xin phép gă
cán bộ công an đi vệ sinh.
Bước vội nhanh vào phía trong vừa kịp thấy dáng kḥm kḥm của người
tù nhân bước ra. Tôi bước vào, nh́n quanh cḥi vệ sinh được xây tạm
bợ bằng lá tranh với cánh cửa nửa kín nửa hở. Tôi ngồi xuống và nh́n
quanh vách tre lá. Tôi có linh cảm h́nh như người tù nhân muốn cho
tôi biết một điều ǵ đó. Tôi nh́n quanh, quả đúng như linh cảm, trên
góc đ̣n tre phía trái, tôi thấy một mănh giấy nhỏ, trên đó viết
nguệch ngoạc một ḍng chữ: Ông D. bệnh nặng.
Hoảng hốt tôi vội chạy ngược vào pḥng tiếp tân. Dù rất xúc động
nhưng tôi vẫn c̣n giữ chút b́nh tĩnh kéo mẹ ra góc pḥng báo tin. Mẹ
vững vàng và khôn ngoan hơn tôi tưởng rất nhiều. Bà quay trở lại bàn
tiếp tân và nói:
- Xin cán bộ cho tôi ở lại đây đợi chồng tôi về chứ bây giờ vừa đi
vừa về Hà Nội cũng mất hai ngày. Gă cán bộ nói láo trơn tru: Ông bị
biệt giam, không được phải cả tuần chúng tôi mới đưa ông nhà ra găp
bà được.
Đến lúc này nỗi uất ức trong ḷng mẹ tôi bùng nổ, bà khóc và la hét
to hơn:
- Mấy ông nói láo, tôi biết chồng tôi đau nặng, đồ sát nhân, sao
không cho chúng tôi gặp. Các ông có c̣n là con người không.?
Đến lúc này th́ mẹ tôi không c̣n biết sợ là ǵ nửa, tất cả những oán
hận chất chứa trong ḷng bao lâu này được dịp thoát ra, không ai có
thể ngăn được. Cả pḥng khách của K2 bắt đầu nhốn nháo, ồn ào. Nhiều
người bu quanh mẹ tôi lúc này đang nằm lăn lộn dưới sàn đất cứng
ngắt. Gă cán bộ chạy vào trong và đi ra cùng với viên sĩ quan lúc
năy. Gă dịu giọng nói với chúng tôi:
- Xin bà b́nh tỉnh, mời bà và anh vào trong, chúng tôi sẽ giải
quyết.
Nói xong gă ra lệnh cho hai công an d́u mẹ tôi vào căn pḥng phiá
trong. Có lẽ không muốn những người thăm nuôi khác biết chuyện. Căn
pḥng sạch sẽ hơn pḥng bên ngoài nhiều. Viên sĩ quan công an nói:
- Bây giờ tôi xin nói thật về t́nh trạng của ông nhà. Thật ra ông
đang bệnh và chúng tôi đang tích cực chữa chạy cho ông. Nay bà đă
biết, tôi sẽ thu xếp cho bà vào gặp ông. Ông nhà đang nằm ở bệnh xá,
tôi sẽ cho người dẫn ông bà đi. Xin ông bà đợi một lát.
Nói xong gă bước ra , nói nhỏ ǵ đó với tay công an trực. Tay công
an bước đi thật nhanh. Khoảng 40 hay 50 phút ǵ đó gă trở về, bước
đi gấp gáp, hấp tấp. Lại th́ thầm to nhỏ với viên chỉ huy.
Linh cảm không hay đến với tôi. Lần này viên sĩ quan trầm giọng: -
Thưa bà, chúng tôi vừa mới nhận được tin, mặc dù chúng tôi đă tận
t́nh chữa trị ,nhưng v́ sức yếu , ông nhà vừa mất cách đây 5 phút.
Chúng tôi xin chia buồn với bà. Chúng tôi sẽ lo chôn cất ông nhà
đàng hoàng tử tế.
Nghe tin dữ, mẹ tôi như điên cuồng. Bà nằm lăn ra đất. Vừa khóc vừa
la. Không từ nào mà bà không đem ra. Không nhân vật nào bà không đem
ra chửi. Vừa chửi vừa khóc, khóc đến khan cả giọng. Mồ hôi quyện với
đất đỏ dính đầy áo quần, mặt mũi. Hết khóc rồi bắt đầu cười ngây
dại. Tôi ôm mẹ không nói được nên lời. Nỗi đau quá lớn làm thần kinh
tôi như tê liệt. Ôm mẹ với trái tim nhói đau như kim châm và mẹ ngất
đi.
Chúng tôi được dẫn di gặp ba lần cuối. Nơi ba nằm là một căn nhà nhỏ
đơn sơ gọi là bệnh xá nằm sâu trong K2 cách nhà khách khoảng 30 phút
đi bộ. Ba nằm trên một giường tre, thân h́nh gầy guộc, khuôn mặt ốm
nhom như bộ xương khô. Hàm râu lổm chổm có lẽ được cắt ngắn một cách
vội vàng không dài tḥn như lần đầu tôi gặp. H́nh như đă hết nước
mắt, mẹ không khóc yên lặng ngồi xuống đất vói tay ôm lấy ba. Tôi
ngồi xuống phiá bên kia. Hai mẹ con ôm chầm lấy ba.
Vẫn c̣n hơi ấm của một cơ thể vừa mới qua đời. Mẹ vuốt mắt ba. Mắt
trừng trừng nh́n ba. H́nh như tôi thấy trong mắt mẹ màu đỏ của máu.
Sẽ không bao giờ tôi quên được cái h́nh ảnh của ba mẹ tôi trong bệnh
xá trại K2 Tân Lập hôm đó. Mẹ không khóc nhưng lại ngất thêm một lần
nữa khi tôi kéo mẹ đứng lên.
Sau này qua một người bạn tù của ba, lúc mẹ con tôi đến thăm trại,
đang hấp hối nhưng ba tôi biết. Lúc đó ba rất yếu. Ba nói ba sẽ cố
gắng sống để găp mẹ một lần và ba cố gắng húp được một muỗng cháo
trắng. Muỗng cháo trắng cuối cùng trước khi ra đi măi măi. Giá mà
tay cán bộ có một chút t́nh người th́ có lẽ mẹ cũng được gặp ba một
lần sau chót. Chỉ cần một lần mà thôi, của một cuộc t́nh ba mươi mấy
năm. Tôi biết ba đă không đành ḷng ra đi. Đành ḷng sao được hả ba,
khi vượt hàng ngàn cây số từ nam ra bắc, chỉ c̣n cách một bước chân
thôi mà mẹ không thể nói với ba những lời yêu thương sau chót, để
được nghe một lời trăn trối sau cùng. Tức tưởi và uất hận lắm ba. Mà
thôi ba ơi. Cứ yên ḷng ra đi rồi có ngày mẹ ba và chúng con sẽ lại
gặp nhau một nơi nào đó, trên thiên đàng. Chúng ta sẽ lại có những
ngày tháng hạnh phúc bên nhau như thuở nào.
Để xoa dịu mẹ con chúng tôi, lần đầu tiên K2 có tổ chức một đám ma
tù nhân tương đối đàng hoàng. Có rất nhiều tù nhân chết ở đây. Toàn
bộ được bó vào các manh chiếu mây tre rách rưới và được vùi sơ sài
trong các khuôn đất trống bên trong trại. Ba có lẽ là người đầu tiên
đưọc ưu tiên có ḥm làm bằng gỗ ván thông mỏng dính. Chôn theo với
ba là mấy bộ đồ rách bươm. Cũng có 4 người tù khiêng quan tài . Phía
trước và phía sau có 4 công an đi cùng. Cũng có ly hương là cái chén
ăn cơm cũ kỹ. Tôi cầm bài vị là một bức ảnh căn cước nhỏ xíu của ba
c̣n sót lại trong trại. Mẹ đi sau quan tài. Đoàn đưa tang gồm 10
người lặng lẽ đi về phía 1 đồi trọc xa xa, phiá ngoài hàng rào trại
K2. Trên đường đi, tôi để ư thấy có những g̣ đất với rất nhiều ngôi
mộ vô danh. Nơi chôn ba là một ngọn đồi, chỉ có một cây đa thật to.
Những người tù đào vội 1 lớp đất không sâu lắm, ḥm được đặt xuống
và lấp lại. Thế là xong. Ba tôi, một sĩ quan cảnh sát miền nam thua
cuộc, cuối đời nằm ở đây, một vùng đất gần tận cùng biên giới Việt
Trung. Một ḿnh , lạnh lẽo. Mẹ không c̣n nước mắt để khóc. Suốt buổi
nh́n trừng trừng. Một khuôn mặt tưởng như vô hồn, nhưng tràn đầy oán
hận. Một nỗi hận đến vô cùng. Tôi cắn chặc môi đến tươm máu. Thôi ba
ơi, hăy yên nghĩ tạm nơi đây, con sẽ quay trở lại một ngày không xa.
Trước khi trở về,tôi cẩn thận ghi dấu vị trí ngôi mộ với một chữ
thập ghép bằng hai nhánh tre và khắc tên ba trên gốc cây to trước
mộ.
Tin chồng bà bún ḅ Huế chết trong trại học tập cải tạo lan truyền
một cách nhanh chóng khu Hồ Tắm Chi Lăng và cả khu chợ Cây Quéo Phú
Nhuận. Có thể có những người chết trước ba nhưng có lẽ ở khu phố Lam
Sơn Phú Nhuận ba tôi là sĩ quan đầu tiên chết trong trại cải tạo
được gia đ́nh chôn cất đàng hoàng. Từ lúc trở về mẹ tôi ngày nào
cũng đi khắp xóm. Gặp ai cũng khóc cũng kể về cái chết của ba, về
nỗi uất ức của một người đàn bà đi cả ngàn cây số để cuối cùng không
gặp mặt chồng trước khi ĺa đời. Xa ngàn dặm và chỉ gần một bước
chân mà vợ chồng không thể gặp nhau lần cuối. Đớn đau và tàn nhẫn
quá. Mẹ khóc, mẹ kể với sự đồng cảm của bạn bè, của thân nhân và của
cả những người không quen biết. Công an phường và cảnh sát khu vực
nhiều lần gặp mẹ, an ủi xoa dịu và cả đe dọa nhưng mẹ không từ bỏ.
Con người khi đă mất đi phần đời yêu qúy nhất của ḿnh th́ c̣n nỗi
sợ nào hơn. Tôi th́ rất lo dù sao tôi vẫn đang làm việc. Các em đang
c̣n nhỏ dại. Nếu bị trả thù hay mẹ bị bắt v́ tội phản động th́ gia
đ́nh sẽ ra sao?. Nhưng khuyên cách mấy cũng không làm mẹ thay đổi.
Tính mẹ tôi thuở nào cũng như vậy. Khi bà muốn làm điều ǵ th́ làm
cho bằng được. Đă nhiều lần bị đưa ra kiểm điẻm trong các buổi họp
tổ dân phố nhưng mẹ vẫn như củ. Gặp ai cũng kể gặp ai cũng khóc cho
đến ngày chúng tôi nhận đuợc giây triệu tập lên phường.
Lo sợ có chuyện không lành xảy ra cho gia đ́nh, tôi báo tin và xin
chú cùng chúng tôi lên Phường. Không biết có phải v́ muốn xoa dịu
chúng tôi hay không, hôm đó Phường mời chúng tôi lên chỉ để đọc
quyết định trả quyền công dân cho ba. Công an phường sau khi thuyết
giảng tràn giang đại hải về ḷng khoan dung của đảng và nhà nước đă
trao cho mẹ giấy trả quyền công dân v́ thành tích học tập tốt của ba
trong thời gian trong trại cải tạo. Sau này tôi mới biết qua người
bạn tù của ba, ba là người thường xuyên bị kỷ luật va biệt giam.
Thường xuyên không tuân thủ nội quy trại. Trả quyền công dân cho một
người đă chết, thật quá tức cười và quá nỗi đắng cay.
Cuối cùng với những vất vả lo toan cho cuộc sống, qua thời gian, mẹ
và chúng tôi cũng phải làm quen những ngày tháng không có ba. Các em
vẫn hằng ngày cắp sách đến trường. Vợ chồng chúng tôi đă có đứa con
đầu tiên. Đứa cháu ra đời chưa bao giờ thấy được ông nội bằng xương
bằng thịt. Mỗi khi nh́n con tôi lại nhớ đến ba. Cháu bao nhiêu tuổi,
bấy nhiêu năm ba rời xa chúng tôi. Cho đến bây giờ sau bao nhiêu năm
tháng tôi vẫn không quên khuôn mặt ốm nhom ốm nhách của ba trong
trại K2 năm nào.
Những năm sau đó, dù vất vả, cuộc sống khó khăn, chúng tôi cùng mẹ
cũng kiên cuờng sống tiếp nuôi các em ăn học. Có những ngày ăn bo bo
thay cơm. Có những ngày liên tiếp không có gạo chỉ có bột ḿ.( thời
đó tại sài g̣n chúng tôi phải làm quen với chế độ tem phiếu như
ngoài bắc). Tùy theo lúc, có khi được cấp gạo, có khi nhận toàn bột
ḿ, có khi cả tuần nhận toàn bo bo. Số luợng nhận tùy theo nhân khẩu
của mỗi hộ gia đ́nh). Mẹ xoay xở chế biến thành đủ thứ món ăn bằng
bột ḿ cho đở ngán. Dù sao th́ cũng không thể gian khổ bằng ba trong
những ngày trong tù miền bắc. Tôi tự an ủi như vậy để sống. Mẹ bề
ngoài rất can trường nhưng trong ḷng lúc nào cũng canh cánh nỗi lo
về ba. Mẹ ray rứt nghĩ về nơi lạnh lẽo ba nằm, về nắm mộ hoang phế
nơi tận cùng biên giới.Mẹ thường nói không biết ba mày nằm ngoài đó
như thế nào. Đêm nào mẹ cũng khóc một ḿnh. Càng ngày càng héo hon.
Mẹ lúc nào cũng ao ước đem được ba về. Hết than ngắn lại thở dài.
Ba chết chưa đầy 3 năm, quá sốt ruột, thương mẹ và thương ba nằm
lạnh lẽo hiu quạnh, tôi xin nghĩ phép cùng mẹ ra Hà Nội một lần nửa.
Lần này với ư định đem ba về chôn cất tại Huế bên cạnh ông bà ngoại.
Nhờ người giới thiệu, tại Hà nội chúng thuê được 1 người chuyên về
đào mộ cùng đi. Từ sáng sớm 3 người chúng tôi lên ga Hàng Cỏ và đến
tối th́ chúng tôi đến trại K2. Sáng hôm sau chúng tôi gặp cán bộ
trại xin đào lấy xác ba đem về chôn tại quê nhà và bị từ chối. Lư do
phải có giấy cho phép của cấp trên. Thời gian chờ đợi ít nhất cũng
phài trên 3 tháng. Không c̣n cách nào khác, không lẽ về tay không,
chúng tôi quyết định đào trộm.
Đến lúc này mỗi khi nhớ lại tối hôm đó tôi vẫn c̣n rùng ḿnh. Tôi
vẫn không hiểu tại sao ḿnh lại quyết định liều lĩnh như vậy. Đào mộ
chui, chết hoặc ở tù như chơi. Có lẽ phần v́ c̣n trẻ liều lĩnh, phần
thương ba và một phần do sự khuyến khích của tay đào mộ thuê. Cũng
may là ngôi mộ của ba nằm ngoài ṿng đai trại, nếu không ai biết
trước việc ǵ sẽ xảy ra cho chúng tôi.
Đêm đó đợi lúc trời chạng vạng tối, trời mưa lất phất, 3 người chúng
tôi đi đến khu mộ ba. Tôi vẫn nhớ rất rơ đường đi. Vẫn không thay
đổi ǵ nhiều, chỉ khác là cỏ mọc um tùm hơn. Cây thành giá trước mộ
vẫn c̣n đó, xiêu vẹo. Dấu khắc trên cây vẫn c̣n dù có mờ đi. Và cũng
chỉ một ḿnh ngôi mộ của ba nằm ở đó, lạnh lẽo, hiu quạnh. Chung
quanh không có ngôi mộ nào khác. Có lẽ chỉ một ḿnh ba tôi là có
thân nhân đến tiễn đưa khi chết.
Chúng tôi bắt đầu công việc bốc mộ trong cái ánh đèn cầy leo lét.
Người đào mộ làm việc chuyên nghiệp và nhanh chóng chạm đến nắp ḥm.
Nén xúc động, tôi mở nắp quan tài. Ba nằm đó bộ xương c̣n nguyên vẹn
với da thịt và tóc chưa phân hủy hết. Chúng tôi đem bộ xương ba lên
theo thứ tự đầu, chân,tay, bên phải bên trái. Mẹ nức nở vừa khóc vừa
rửa xương ba bằng nước cánh hồi, sau đó bỏ vào hai bao lác mang
theo. Một bao tôi xách gồm phần đầu và phần tay chân bên trái. Bao
lác của mẹ gồm xương sống và phần tay chân bên phải. Người đào mộ
dặn phải làm như thề để khi về đem chôn trở lại với h́nh hài c̣n
nguyên vẹn.
Chúng tôi lặng lẽ vượt 30km lên đường trở ra ga ấm thượng trong đêm.
Về đến ga Hàng Cỏ Hà Nội th́ cũng đă xế chiều hôm sau. Mệt lă người
v́ thiếu ăn và thiếu ngủ nhưng chúng tôi rất vui v́ đă đem ba về an
toàn. Bây giờ tôi mới cảm thấy đói. Hai mẹ con ngồi tựa cột đèn
trước ga , mỗi người ôm chặc một bị lác chứa xương người. Chúng tôi
ăn những ổ bánh ḿ dai nhách , uống những ly chè xanh đắng chát,
nhưng thật ngon lành .
Đang nằm thiu thiu ngủ bỗng dưng tôi thấy tay ḿnh nhẹ tưng, bừng
tỉnh cũng là lúc tôi thấy một bóng người phóng qua ḿnh tôi về phía
trái. Ôi cái bị lác của tôi. Tôi phóng người đuổi theo, vừa chạy vừa
la: xương người, xương người. Đứa bé ăn trộm bị tôi đuổi kịp quăng
bị lác xuống đất chạy vào bóng đêm mất dạng. Tôi lượm bị lác lên và
ôm chặt vào ḷng. Đêm đó hai mẹ con ngồi tựa cột đèn, thức trắng.
Lại một đêm thật dài, dài vô tận.
Trời mới tờ mờ sáng, chúng tôi đáp chuyến tàu đầu tiên xuôi nam và
đến ga Huế vào nửa đêm. Nhà ông bà ngoại tôi nằm dưới chân núi Ngự
B́nh, cách lăng Thành Thái không bao xa. Ngôi nhà cổ với sân vườn
sau là các ngôi mộ của gia tộc bên ngoại. Về nhà nửa đêm nhưng đă có
rất đông họ hàng, các em cùng vợ con tôi về Huế từ ngày hôm trước.
Và có cả ông Cặn hàng xóm, người chuyên môn lo về đám ma với ḥm
rương nhang đèn đầy đủ.
Đám ma của ba tôi được tổ chức đơn giản nhưng với đầy đủ thủ tục lễ
nghĩa như với một người vừa mới qua đời. Xương của ba được sắp xếp
lại theo thứ tự tay chân trái phải và đưọc đặt vào quan tài cùng với
các đồ dùng c̣n sót lại của ba. Bà con hàng xóm láng giềng khu vực
An lăng có mặt thật đông. Hôm đó mẹ đă khóc ngất đi nhiều lần dù ba
qua đời gần 3 năm. Dù sao mẹ cũng đă măn nguyện thực hiện được uớc
muốn từ bao năm qua: đưa được ba về , nằm ấm cúng trong mảnh vuờn
nhỏ gia tộc bên cạnh ôn mệ. Hôm đó tôi đă khấn trước mộ ba: Ba ơi,
hăy yên nghỉ, chúng con thương ba vô cùng. Ba có linh thiêng xin phù
hộ cho mẹ và các em được b́nh an.
Tôi tin là có một thế giới, nơi ba đang sống, thật gần với chúng
tôi, luôn theo dỏi phù hộ chúng tôi. Độ 3 tháng sau ngày đem ba về
Huế, gia đ́nh tôi bỗng nhận được tin về đưá em gái kế. Người duy
nhất trong các anh em tôi ra đi tại bến bạch Đằng 6 năm về trước.
Chúng tôi nhận được thư của em gái kèm tờ giấy bạc 50 dollars. Không
thể nào kể hết được nỗi xúc động và sung sướng của gia đ́nh chúng
tôi lúc đó. Đă sáu năm trôi qua , tưởng chừng như đă mất em vĩnh
viễn. Hạnh phúc lớn nhất kể từ ngày ba mất đi.
Ngoài niềm vui về đứa em gái, số tiền 50 dollar đối với gia đ́nh tôi
hồi đó là một tài sản đáng kể. Kể từ ngày liên lạc được với gia
đ́nh, thỉnh thoảng, em tôi gửi về lúc th́ tiền lúc th́ xà pḥng, kẹo
bánh, đồ dùng điện tử. Quà nhận được, hầu như tất cả đều được đem
bán thành tiền để chi dùng trong gia đ́nh. Họa hoằn lắm th́ chúng
tôi mới giữ lại một vài gói kẹo M. M. Chia cho các em th́ mỗi đứa
cũng được độ 5-10 viên nhỏ xíu. Hồi đó cái ǵ từ Mỹ cũng qúy vô
cùng.
Dù không tin có thế giới bên kia, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng có ba
luôn ở quanh quẩn đâu đây, cùng với gia đ́nh và luôn phù hộ cho mẹ
con chúng tôi. Cuộc sống gia đ́nh chúng tôi từ cuối năm 1981 trở đi
bớt cơ cực hơn. Tôi ngoài giờ đi dạy học ở trường Bưu Điện, c̣n đi
dạy luyện thi vào đại học tại nhà học sinh trong xóm. Vợ tôi nhờ
quan hệ tốt với các cán bộ trong trường, khi th́ mua thêm được gạo,
khi th́ mua thêm được thịt, các bửa ăn trong gia đ́nh cũng được khá
hơn lên.
Các em, kể từ ngày ba được trả quyền công dân,sự phân biệt đối xử
tuy vẫn c̣n nhưng không quá nhiều như ngày đầu sau 75. Mẹ tôi mở
gánh bán bún ḅ tại nhà. Gia đ́nh không dư giả giàu có ǵ nhưng cũng
sống được qua ngày một cách hiền lành, lương thiện. Sau ngày ba mất,
chú tôi thi thoảng có ghé thăm nhưng tôi vẫn cảm thấy một nỗi ngượng
ngùng nào đó trong quan hệ của chú cháu chúng tôi. Mỗi lần nh́n h́nh
ba trên bàn thờ tôi lại nhớ đến khuôn mặt gầy g̣, râu tóc bạc phơ
ngày nào trong trại K2 Vĩnh phú. Đôi mắt trừng trừng tức tưởi của ba
cứ ám ảnh trong tôi hằng đêm. C̣n lâu tôi mới có thể tha thứ cho chú
được. Giá mà ngày đó chú thu xếp để mẹ tôi ra thăm ba sớm hơn th́ có
lẽ ba sẽ không ra đi như thế. Nghĩ như vậy nhưng tôi biết, dù có
thương ba bao nhiêu, chú cũng không thể làm ǵ khác được.
Trong những đứa em của tôi, đứa thứ ba là đứa ít nói nhưng ghét chú
và căm thù chế độ CS nhiều nhất. Thái độ bất mản trong học hành và
trong sinh hoạt hàng ngày nhất là với các cán bộ miền bắc khiến tôi
vô cùng lo lắng, bất an. Em thường có những lời nói và biểu hiện mà
các cán bộ cho là phản động. Có khuyên mấy cũng không được. Lo sợ em
gặp sự không may, tôi bàn với mẹ đưa em ra Đà nẵng sống với gia đ́nh
người chị con bà d́ ruột. Và từ Đà Nẳng em là người đầu tiên trong
gia đ́nh tôi vượt biên trái phép sang Mỹ sau 1975.
Năm 1982, chúng tôi nhận giấy tờ bảo lănh đi Mỹ theo diện đoàn tụ
gia đ́nh ODP. Chúng tôi nộp đơn xin đi Mỹ và ngay năm đó cả hai vợ
chồng cùng nhận giấy tờ cho thôi việc. Lư do: anh chị đă nộp đơn đi
nước ngoài, không c̣n đủ tư cách làm việc tại cơ quan Bưu Điện được
nữa. Đây là điều chúng tôi đă luờng trước nhưng không ngờ đến quá
nhanh như vậy. Vào những năm 81-82, gia đ́nh có thân nhân ở nước
ngoài được xem là phản quốc. Nhất là với những người có tư tưởng ra
sống ở nước ngoài như chúng tôi. Chấp nhận bị đuổi việc môt cách
b́nh thản, vợ chồng chúng tôi bắt đầu khoảng thời gian lăn lóc với
đủ thứ nghành nghề để kiếm sống và tồn tại.
Thời đó nhờ những lần đi chầu chực lănh quà từ nước ngoài tại phi
trường Tân Sơn nhất rồi đem bán tại chợ đồ ngoại cuối đường Nguyễn
Thông, tôi làm quen với nhiều bạn hàng và cả những người đi lănh quà
như tôi. Mới đầu bán đồ của ḿnh, sau đó mua lại của những người
khác, tôi bắt đầu gia nhập hàng ngủ những người mua đi bán lại. Có
mặt từ sáng sớm tại phi trường, theo chân những người lănh hàng về
tận nhà, mua rồi đem ra chợ bán kiếm chênh lệch. Hàng hoá từ kẹo,
bánh đến nước hoa, đồ điện tử. Thượng vàng hạ cám, bất kỳ thứ ǵ
miễn là của Mỹ là mua, là bán. Làm cái công việc không dính dáng ǵ
đến cái bằng cấp tốt nghiệp của ḿnh.Chỉ cần cái miệng thật dẽo,
thật trơn tru. Một đôi khi nhớ lại những ngày tháng trước năm 1975,
thấy ḿnh thật nhiều thay đổi. Cái hiền lành chơn chất thuở nào như
không c̣n nữa. Thật buồn, thật tiếc nuối.
Cũng may, tôi vẫn c̣n duy tŕ lớp dạy sửa chửa Radio TV tại nhà vào
buổi tối. Đó là thời khắc vui nhất trong ngày của tôi. Ít nhất là
lúc đó tôi c̣n thấy ḿnh c̣n có ích, c̣n giống đứa con của ba mẹ
thuở nào. Lớp ít học sinh nhưng tôi đă giảng dạy một cách say sưa.
Và cuốn sách sửa TV của tôi ra đời trong thời gian này. Để in và
xuất bản được cũng là một quá tŕnh nhiêu khê nhưng cuối cùng Hội
trí thức yêu nước cũng giúp tôi thực hiện được mơ ước nhỏ nhoi này.
Trong những năm giữa thập niên 80, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện hàng
điện tử second hand. Đây là những mặt hàng điện tử như tivi, tủ
lạnh, radio cassette hư cũ đă qua xử dụng được các thủy thủ tàu viễn
dương đem về bán lại. Các tàu chở hàng đậu ngoài cảng xa. Mỗi khi có
hàng về, chúng tôi đi từng nhóm dùng thuyền nhỏ cặp ra tàu lớn mua
lúc từ 5 đến10 cái. Dĩ nhiên đây là buôn bán trái pháp luật nhà
nước. Bị bắt th́ hàng bị tịch thu, phạt tiền và ở tù . Nhưng nếu
thoát được th́ kiếm tiền nhiều. Đem về sửa lại rồi đem ra chợ
bán.Thời đó có ăn nhất là chuyển hệ TV để xem h́nh có màu trên TV.
Dĩ nhiên không đẹp và rơ như bây giờ nhưng thời đó là cái mốt của
các cán bộ miền bắc có tiền. Chợ trời điện tử Huỳnh Thúc Kháng h́nh
thành và lớn mạnh trong khoảng thời gian đó. Sau đó là một loạt các
chợ trời Bảy Hiền, Lăng cha cả, Chợ lớn được thành h́nh giúp những
người có một chút tay nghề về điện tử như tôi sống sót và tồn tại.
Nhưng cũng chỉ một thời gian. Lúc đầu, buôn bán rất khá, lợi nhuận
cao, sau đó càng ngày càng khó khăn khi mà có nhiều tay trùm có quá
nhiều tiền nhảy vào. Họ không mua từng 5-10 cái như chúng tôi mà họ
mua nguyên cả tàu khi vừa cập cảng. Những tay trùm cán bộ có thế lực
và có rất nhiều tiền. Họ có quan hệ và quyền lực mà những người ít
tiền như chúng tôi không cạnh tranh nổi. Phải là con ông cháu cha.
Phải đợi chia lại hàng từ những trùm lớn hơn. Đôi khi phải qua trung
gian 2,3 cấp. Chất lượng hàng cũng kém đi rất nhiều.
Bỏ nghề điện tử, nhảy qua buôn trầm từ Đà Nẳng về Saigon. Nói là
buôn trầm cho oai chứ ḿnh làm ǵ có tiền nhiều như thế. Thường chỉ
ra Đà nẳng nhận trầm từ ngươi quen, đem vào Sài g̣n giao cho mối, ăn
tiền chênh lệch. Đi đuợc chục chuyến có lời dù cũng rất vất vả. Lúc
th́ lăng lóc trên xe đ̣ khi th́ la lết trên tàu chợ nam bắc. Tôi
càng ngày càng ốm nhom ốm nhách. Mặt mũi đen thui. Chỉ lạ một điều
là thời đó dù đi nhiều, tôi lại rất ít gặp người quen, bạn bè. Nếu
có gặp, bạn bè chắc cũng không nhận ra chàng kỹ sư hiền lành chơn
chất trắng trẽo thư sinh thuở nào.
Đi thoát được khoảng chục lần, đến lần thứ 11th́ tôi bị quản lư thị
trường bắt. Trầm bị tịch thu, riêng tôi bị giam tại công an Quảng
Ngải. 2 ngày trong trại tạm giam tôi đă suy nghĩ thật nhiều về những
ngày tháng đă qua trong cuộc đời. H́nh như tôi đă thay đổi quá
nhiều, không c̣n là tôi của năm xưa. Cái được th́ quá ít, cái mất đi
th́ quá nhiều. Tôi cay đắng nhận ra rằng nếu tôi không dừng lại, tôi
cũng sẽ mất tôi vĩnh viễn trong một thế giới không thuộc về tôi. Một
thế giới bụi bặm, luờng gạt và xảo trá khác xa với thế giới ngày tôi
sinh ra, lớn lên. Tôi biết, ba ở một nơi nào đó đă rất buồn.
Bỏ nghề buôn bán, bỏ qua ư tưởng làm giàu nhanh chóng, tôi quay lại
nghề dạy điện tử của ḿnh. Vẫn là nghề phù hợp vói ḿnh nhất. Dù
không có nhiều tiền nhưng 1+1 là 2 th́ vẫn dễ hơn là 1+1=3. Vẫn là
vợ tôi bên cạnh trong những thời khắc khó khăn với những an ủi và
chia sẻ. Nàng luôn ủng hộ tôi trong những quyết định quan trọng và
chúng tôi có đưa con thứ nh́. Con gái. Tôi thầm nghĩ, ba đă cầm tay,
dẫn dắt tôi bắt đầu làm lại.
Năm 1988, gia đ́nh được gọi đi phỏng vấn ở toà lănh sự Hoa Kỳ tại
Sài g̣n. Với giấy tờ đầy đủ, hợp lệ cuộc phỏng vấn đáng lẽ đuợc diễn
ra một cách nhanh chóng đột nhiên bị dừng lại khi có phái đoàn cấp
cao từ Thái Lan ghé thăm, lúc đó trong pḥng, mẹ đang chuẩn bị trả
lời. Vị trưởng đoàn có vẻ ngạc nhiên khi đọc hồ sơ của gia đ́nh,
nhất là chuyện liên quan đến ba tôi, người sĩ quan cảnh sát chết
trong trại cải tạo sau 2 năm 6 tháng học tập . Ông ta có vẻ ngạc
nhiên về tờ giấy trả quyền công dân của ba tôi.Có lẽ là lần đầu tiên
ông thấy được một loại giấy tờ như vậy. Giấy trả quyền công dân cho
một người đă chết.
Mẹ tôi vừa khóc vừa kể chuyện của ba. Câu chuyện về một cái chết và
một chuyến đi thăm nuôi tức tưởi đă làm ngướ lănh đạo đoàn thanh
tra ODP cảm động. Chỉ một thời gian ngắn mẹ và các em tôi được giấy
chấp thuận đi Mỹ theo diện HO thay v́ theo diện đoàn tụ gia đ́nh dù
rằng ba tôi ở tù chưa đến 3 năm. Tôi biết có sự can thiệp đặc biệt
của phái đoàn từ Thailand và tôi thầm tin có sự phù hộ của ba. Riêng
vợ chồng chúng tôi tôi ở lại v́ lúc đó có gia đ́nh và sổ hộ khẩu
riêng.
Vài tháng sau Mẹ và các em tôi đi Mỹ. Vợ chồng chúng tôi ở lại với 2
con nhỏ và bà cô em ông nội không chồng. Cũng may nếu tôi cùng đi
th́ không biết bà cô sẽ ra sao. Cuộc sống sau những năm 1990 của
chúng tôi ngày càng ổn định. Lúc này, ngành điện tử và vi tính bắt
đầu phát triễn. Các công ty nước ngoài bắt đầu thiết lập các văn
pḥng đại diện và quan hệ buôn bán tại việt nam. Tôi được tuyển vào
làm việc lần lượt tại các văn pḥng đại diện của Hewlett Packard,
Brother, AT&T và cuối cùng là AMP tại Việt nam.
Đó là khoảng thời gian tôi sống sung sướng và sung túc nhất kể từ
ngày mất nước 1975. Thời kỳ này, tôi sống và làm việc đúng với khả
năng,với kiến thức từ khoa điện trường đại học Phú Thọ. Nếu không có
thời kỳ mở cửa này, nếu không có những công ty nước ngoài, có lẽ
suốt đời, tôi đứa con một sĩ quan cảnh sát chế độ cũ, đă sống một
cách tối tăm và mất hút đâu đó trên chính quê hương đen tối của
ḿnh. Vào những năm 90, tiền lương 700 usd của là một con số không
nhỏ nêu không muốn nói là lớn. Quan trọng hơn, đó là khoảng thời
gian tôi được tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua những chuyến đi
học tập ngắn ngày tại Singapore, Thailand, Malayia, Indonesia, và
Philipine.
Đi học và về, tôi liên tục tổ chức các buổi hội thảo giới thiệu các
sản phẩm và công nghệ mới của HP. Brother, AT&T và AMP tại Sài G̣n,
Hà Nội, Đà Nẳng… Tên, h́nh ảnh tôi được đăng trên báo. Ra đường tôi
đă có quyền ngẫng cao đầu. Ba tôi chắc chắn đă rất sung sướng, tự
hào về tôi. Một khoảng thời gian hạnh phúc và có ích. Tôi đă t́m lại
chính con người thật của ḿnh.
Năm 1998, tôi được chấp thuận đi Mỹ theo diện đoàn tụ gia đ́nh. Bấy
giờ tôi đă có 3 đứa con với cuộc sống rất ổn định, sung túc. Những
chuyến đi nước ngoài thường xuyên. Có nhà riêng. Con đầu đang học
đại học. Mọi chuyện suông sẻ, thuận lợi. Tôi đă suy nghĩ rất nhiều.
Đi hay ờ . Một quyết định không dể dàng.Với tuồi gần 50 làm ǵ nơi
đất khách quê người. Đă quá già để làm lại từ đầu. . Xin hoản ngày
đi 3 tháng rồi cũng đến lúc phải quyết định, nếu không hồ sơ sẽ được
xếp lại. Cơ hội đi doàn tụ sẽ không c̣n.
Thật ra nếu chỉ nghỉ đến riêng cho vợ chồng tôi th́ câu trả lời sẽ
rất dễ dàng, đơn giản. Tội ǵ phải ra đi khi đang có một cuộc sống
ổn định và quá đầy đủ vào lúc đó. Trưởng văn pḥng đại diện một công
ty nước ngoài tại Sàig̣n. Đi nước ngoài th́ năm nào cũng đi 3, 4
lần. Tháng nào cũng 700-800 dollar bỏ túi. Công việc th́ dễdàng. Xếp
trực tiếp th́ ở tận Singapore. Vài tháng mới qua Việt Nam 1 hay 2
lần. Một tài xế, một cô thư kư xinh đẹp, vài ba nhân viên dưới quyền
và một người giúp việc. Đi làm th́ có Laptop, cell phone. Đi ăn th́
có khách hàng trả tiền. Cuối năm th́ gia đ́nh đi du lịch nước ngoài,
chi phí có công ty lo. Khách hàng th́ rất nhiều. Tết nhứt cũng có
quà cáp, nhậu nhẹt. Phải từ bỏ tất cả thật sự là một quyết định quá
khó khăn. Và c̣n mộ ba ở đây nữa, ai lo?. Phải, có rất nhiều lư do
để ở lại, không đi.
Đă nhiều lần đừng trước bàn thờ ba, mong ba một lới khuyên. Đi hay
ở. Quá khó.
Cuối cùng tôi chọn giải pháp ra đi. Không phải v́ vợ chồng riêng tôi
mà v́ gia đ́nh, v́ mẹ , v́ các em, v́ tương lai các con của tôi và
v́ lời hứa với ba, "măi măi thay ba v́ cái gia đ́nh này". Tôi biết
những ngày sắp đến tôi sẽ phải bắt đầu trở lại một cuộc phiêu lưu
mới. Sẽ không dễ dàng với một người quá tuổi như tôi trên một đất
nước hoàn toàn lạ lẫm và quá xa xôi. Nhưng tôi sẽ không bao giờ hối
hận về quyết định của ḿnh. Cũng c̣n một lư do thật sâu kín không ai
biết ngoại trừ vợ tôi: "Vết thương mất cha ngày nào trong trại học
tập măi măi không lành".
Mỗi lần nh́n những tay công an, những cán bộ cộng sản, tôi lại nhớ
đến khuôn mặt gày g̣, cặp mắt đau thương tuyệt vọng của ba lần gặp
mặt trên đường đến trại K2 mười mấy năm về trước. Muốn quên nhưng
khó thể quên được. Muốn tha thứ nhưng không thể nào tha thứ được.
Vẫn măi măi một mối căm thù. Vợ tôi hiểu điều đó, chấp nhận cùng
chồng đối diện một cuộc thử thách mới trên đất khách quê người, bỏ
lại bên kia bờ đại dương một mẹ già và một người em gái yêu quư. Tôi
biết tôi đă nợ em, một mối ân t́nh thật sâu đậm.
Những ngày cuối năm 1998, máy bay chở gia đ́nh chúng tôi đáp xuống
phi trường Los Angeles, California Hoa Kỳ. Kết thúc quảng đời 23 năm
sống dưới chế độ cộng sản và để bắt đầu một cuộc hành tŕnh không
biết sẽ ra sao nhưng tôi tin, chắc chắn sẽ tốt đẹp và b́nh an hơn.
Và, dù ở cách xa ngàn dặm, ba vẫn sẽ luôn theo dỏi, phù hộ mẹ và 9
anh em chúng tôi. Ba ơi, nếu có một kiếp sau, chúng con vẫn sẽ là
những đứa con ngoan của ba: Người tù học tập cải tạo chết ở miền đất
tận cùng biên giới Việt Trung năm 1978. Hưởng dương 54 tuổi.
LÊ XUÂN MỸ
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”