Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
Đoàn Kế Tường
“Gần 40 năm trời trôi qua, tôi đă lần ṃ khắp nơi, và kể từ khi có
internet th́ ngày nào cũng lang thang trên khắp các trang mạng, cố
t́m cho bằng được tông tích người bạn chí cốt là Ngô Văn Khiêm,
nguyên Đại Úy, Pháo đội trưởng, pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo Binh
Nhảy Dù. Gặp gỡ bất cứ ai, nghe nói trước đây ở binh chủng Dù, tôi
cũng dọ hỏi. Nhiều lần nhờ Du Tử Lê, liên hệ với anh em Nhảy Dù đang
định cư ở Mỹ hỏi giùm, nhưng số anh em mà Du Tử Lê quen biết cũng
chỉ lắc đầu. Mọi chuyện tưởng như đă không c̣n hy vọng, khi tuổi đời
ngày càng chồng chất và thời gian c̣n lại trên trần gian cũng chẳng
bao nhiêu. Bỗng dưng, cách nay nửa tháng, tôi t́nh cờ đọc được một
bài viết ngắn của vài anh em NhảyDù đi t́m xác đồng đội, mới hay một
năm trước đây, những anh em này, nhờ sự hướng dẫn của dân làng, đă
t́m được một nấm mồ tập thể,chôn gần 2 xe GMC những chiến sĩ mũ đỏ
đă vị quốc vong thân ngày 16/4/1975 tại phi trường Phan Rang. Bao
gồm Trung tá Trần Văn Sơn,Lữ đoàn Phó, Lữ đoàn 2 Dù, Thiếu Tá Đặng
Đ́nh Tựu, trưởng ban 3 Tiểu Đoàn 1/Pháo Binh Dù, Đại Úy Ngô Văn
Khiêm, Pháo dội trưởng Pháo đội A,Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù, và nhiều
anh em vô danh khác. Cà Tèm, một chiến sĩ mũ đỏ trong nhóm đi t́m
xác cho biết, tất cả chỉ c̣n là những nắm xương tàn nằm chung với
nhau một huyệt, nên đă giữ nguyên trạng nấm mồ tập thể và chỉ xây
một cái miếu nhỏ để thờ. Ngay sau đó, tôi được đọc thêm một bài viết
của Thiếu Tá Nhảy dù Trương Dưỡng, mới hiểu rơ bạn ḿnh và đồng đội
đă chiến đấu hào hùng và hy sinh bi tráng như thế nào. Dĩ nhiên, tôi
đă khóc, khóc một cách tự nhiên cho dù “tuổi già hạt lệ như sương!”
Sau bao nhiêu năm t́m nhau, giờ th́ mới hay bạn ḿnh đă vĩnh viễn
nằm xuống và ở lại với mảnh đất Phan Rang trong những ngày cuối cùng
của cuộc chiến.
Năm 1965, giă từ mái trường Thiếu Sinh Quân thân yêu, tôi thực sự
bước vào cuộc chiến. Đơn vị đầu tiên trong đời chiến binh của tôi là
trại LLĐB Lộc Ninh, nằm cuối phi đạo dă chiến, đủ cho các loại máy
bay C.123, C119 và Caribu lên, xuống. Tất cả đều nằm lọt thỏm giữa
những cánh rừng bạt ngàn, xanh um trên nền đất bazan đỏ hơn màu máu.
Cũng giống như hầu hết các trại LLĐB khác vào thời đó, toàn nằm dọc
theo biên giới, hiếm có trại nào tọa lạc gần khu dân cư nên buồn
lắm. Ấy vậy mà chỉ chưa đầy 3 tháng, tôi lại được lệnh lên trực
thăng về tăng cường cho trại Chí Linh (Sông Bé) giữa ḷng chiến khu
Đ, cách Đồng Xoài chỉ hơn 10 cây số đường chim bay. Chưa hết, ở Sông
Bé được mấy tháng, tôi lại vác ba lô lên thẳng Phước Long (BCH B.14
LLĐB), tŕnh diện Đại Úy Lưu Yểm (Về sau ông làm tỉnh trưởng Phước
Long, rồi Biên Ḥa) và được điều phối về trại Bù Đốp. Đến khi, thành
lập trại Tống Lê Chân (B.16 LLĐB), tôi lại theo chân mấy đại đội
Biệt Kích Quân tăng cường qua đó một thời gian để làm hàng rào pḥng
thủ, bảo vệ cho công binh Mỹ san ủi mặt bằng, xây cất công sự...Cứ
thế, quanh quẩn măi với mấy cái trại biên pḥng, thuộc B.14, B15,
B16 cũng mất hết mấy năm. Sau Mậu Thân, tôi lại được quay trở về lại
Lộc Ninh
Lúc bấy giờ, trại LLĐB Lộc Ninh đă dời lên ở giữa sân bay, cách chi
khu Lộc Ninh 1 km, khu trại cũ dưới thung lũng được làm khu gia binh
do một trung đội BKQ canh gác, bảo vệ. Quân số trong trại bao gồm
một toán A LLĐB Hoa Kỳ (12 người), một toán A LLĐB VN (12 người) 2
Trung đội Trinh Sát, 4 Đại Đội BKQ (1 Đại đội toàn người Miên và 3
Đại đội có dàn chỉ huy là người Kinh, c̣n từ cấp Trung đội trưởng
trở xuống, hầu hết là người dân tộc Stieng). Tổng cộng tất cả hơn
400 tay súng, nhưng một nửa quân số luôn hoạt động bên ngoài, có khi
cách xa trại vài chục cây số là thường. Mọi sinh hoạt trong trại đều
diễn ra dưới những căn hầm bán lộ thiên với 2/3 nằm dưới mặt đất và
những giao thông hào kiên cố. Giữa năm 1968 trại bị Công trường 7 và
2 trung đoàn Q.762 Q.763 VC tấn công. Trận đánh khốc liệt này được
đài phát thanh Quân Đội và các báo tại Sài G̣n hồi đó gọi là trận Dạ
Chiến Lộc Ninh.
Vài tuần lễ sau khi trận chiến đi qua, có mấy xe Công Binh vào trại
ủi đất để làm vị trí cho Pháo Binh. Chúng tôi được thông báo là trại
sẽ được tăng cường 2 khẩu 105 ly. Chỉ một ngày sau khi vị trí hoàn
chỉnh, th́ một trung đội Pháo Binh thuộc Tiểu Đoàn 52/PB, Sư Đoàn 5,
kéo súng vào trại. Chỉ huy Trung đội này là Trung Úy Nguyễn Trí Thức
với 2 sĩ quan Tiền Sát Viên c̣n rất trẻ: Chuẩn Úy Ngô Văn Khiêm và
Chuẩn Úy Huỳnh Công Ni. Khỏi phải nói, có thêm một trung đội người
Kinh trong trại, chúng tôi vui biết chừng nào... Ngay buổi chiều hôm
đó, tôi đă sang vị trí của họ để làm quen. Ngô Văn Khiêm quê ở Chợ
Gạo, Mỹ Tho. Tánh t́nh hồn hậu, hay nói chuyện tiếu lâm và rất chân
t́nh nên dễ gần gũi. C̣n Huỳnh Công Ni gốc gác Đà Lạt, hiền lành
nhưng có cung cách một công tử, con nhà giàu. Kể từ đó, tôi với
Khiêm trở thành đôi bạn thân. Tối nào tôi cũng qua vị trí của Khiêm
ngồi tán gẫu đủ thứ chuyện trên đời. Có hôm nhậu lai rai, có hôm pha
cà-phê ngồi uống cho tới khuya. Không ít lần, đang ngồi với nhau th́
bị pháo kích. Tôi lao xuống giao thông hào chạy vội về vị trí. Chưa
đến nơi đă nghe tiếng 105 ly phản pháo, át cả tiếng đạn súng cối nổ
trên pḥng tuyến. Những lần như thế, mới mờ sáng Khiêm đă chạy qua
đánh thức tôi dậy, vừa nói, vừa cười: “Tao sang coi mày c̣n sống hay
đă chết.”
Ở Lộc Ninh, trời đă buồn lại càng buồn hơn nữa vào những ngày mưa.
Mưa làm cho mặt đất đỏ lầy lội, dính chặt như keo, nên chỉ c̣n ngồi
trong hầm nh́n ra khoảng không gian chật chội, nặng chĩu màu mây xám
xịt. Lúc bấy giờ, Huỳnh Công Ni đă có vợ, nên thường đem h́nh ra
khoe với chúng tôi. Con gái Đà Lạt lúc nào cũng chưng diện thật đẹp.
C̣n tôi và Khiêm th́ chưa đứa nào có được mối t́nh đầu. Khiêm kể:
-Hồi c̣n đi học ở Mỹ Tho, tao cũng
phải ḷng vài con bạn cùng lớp. Nhưng nhát quá, mới đứng gần đă run
nên không dám tỏ t́nh, đành để mấy em ôm cặp theo mấy thằng bạo
miệng, bạo mồm. Xong tú tài, th́ xếp bút nghiên vào Thủ Đức, ra
trường, đi làm pháo thủ toàn ở những nơi khỉ ho, c̣ gáy, thế là dang
dở đời trai.
Thứ bảy, chúa nhật, hôm nào không hành quân, tôi và Khiêm cũng rủ
nhau ra phố chợ Lộc Ninh vào quán A-Ĺn, bên bờ suối, ngồi uống
cà-phê. Đó là một phố chợ không đèn, hiu hắt với vài hàng quán lèo
tèo và một bến xe bụi bặm, loe hoe vài chiếc xe đ̣ cũ kỹ chạy đường
Lộc Ninh-B́nh Long. Dăy phố bên hông bến xe là tiệm thuốc tây Mặc
Khải (thân phụ của nhà văn nữ Thụy Vũ) Nhưng ở đây vào ngày cuối
tuần cũng rộn ràng bước chân của những cô thiếu nữ ở các làng cao su
thuộc đồn điền Cexo của Tây, đổ ra mua sắm. Thấy chúng tôi ngắm
nghía các em một cách say sưa, mấy anh em Hạ Sĩ Quan An Ninh
bên chi khu góp ư:
-Các xếp đừng đụng tới mấy em ở làng
2, làng 7, làng 9, làng 10, toàn là VC không đó. Mấy làng này nằm
ngoài ṿng kiểm soát của ḿnh nên đậu nhiều hơn xôi!
Thật ra có cho kẹo th́ chúng tôi cũng không dám đụng đến các em. Ít
khi nào chúng tôi c̣n nấn ná ngoài chợ khi trời sắp ngă về chiều. Cứ
kéo nhau vào trại là chắc ăn. Điều mà tôi với Khiêm thường nói với
nhau là nghĩ đến một ngày phải chia tay, mỗi đứa một phương trời.
Đời lính biết đâu mà hẹn trước!
Rồi một hôm, Chi Thông Tin Lộc Ninh tổ chức một đêm văn nghệ cây nhà
lá vườn. Đây là một sinh hoạt văn hóa hiếm khi diễn ra ở cái vùng
đất heo hút này. Trong số quan khách được mời có cả tôi và Khiêm. Đó
là một đêm vui mà tiết mục hấp dẫn nhất là các em nữ sinh trường
Trung học Lộc Ninh (Đệ nhất cấp) được các thầy cô dẫn đi làm khán
giả cổ động... Trong số đó có con bé Mai thật dịu dàng, xinh xắn và
dễ thương. Dường như Khiêm chẳng để ư đến những ǵ đang diễn ra trên
sân khấu, mà chỉ quay sang chiêm ngưỡng cô bé như bị hút hồn. Nó chỉ
Mai cho tôi, và nhở tôi t́m cách nói với cô bé, lát nữa có người
muốn đưa về, có được không? Tôi cứ tưởng ḿnh làm chuyện cầu âu cho
vừa ḷng bạn, nhưng không ngờ Khiêm và Mai quen nhau từ đó và tôi
nghiễm nhiên trở thành ông mai. Một ông mai mặc áo rằn ri, chân đi
giày bốt-đờ-sô. Giữa mùa mưa năm đó, Trung đội của Khiêm kéo súng về
đồi Đồng Long (An Lộc), thay thế vào đó là một trung đội khác. Sáng
sớm, tôi chạy qua chỗ Khiêm th́ thấy 2 khẩu 105 ly đă được móc vào 2
xe GMC. Hai chúng tôi chỉ kịp ôm nhau nói lời từ biệt trước khi tôi
dẫn một Đại đội Biệt Kích đi nằm đường, rải từ ngă ba Xóm Bưng đến
cầu Cần Lê trên quốc lộ 13, để an ninh lộ tŕnh cho trung đội của
Khiêm di chuyển. Gần trưa, tôi đứng ở đầu cầu Cần Lê, th́ Khiêm đi
qua, nó ngồi trên ca-bin chiếc GMC đầu tiên, cố tḥ đầu ra hét với
tôi:
-Mày ở lại mạnh giỏi, thế nào cũng
gặp lại nhau. Tao luôn nhớ mày.
Tôi quay mặt sang hướng khác, không nh́n đoàn xe đi qua. Xong nhiệm
vụ, tôi rút quân về. Buổi chiều ngồi một ḿnh uống cạn mấy lon bia
mà nhớ bạn đến nao ḷng. Ngày đó, làm ǵ có điện thoại di động như
bây giờ. Ngay cả điện thoại hữu tuyến cũng chỉ nối đường dây nội bộ
trong phạm vi trại mà thôi. Liên lạc xa chỉ trông cậy vào máy siêu
tần số với hệ thống quay đầu ḅ (dinamo) và một hiệu thính viên...
C̣n liên lạc ngắn th́ có máy ANPR C25. Chính v́ thế mà có nhớ nhau
đến mấy, tôi và Khiêm cũng không thể liên lạc với nhau. Mấy tuần
sau, tôi nhận được thư Khiêm, nó nói, về nằm với Pháo Đội trên đồi
Đồng Long, sát nách tỉnh lỵ B́nh Long nên cũng đỡ khổ. Gần cuối thư
nó viết: “Tao báo cho mày hai tin vui. Thứ nhất, tao và Huỳnh Công
Ni vừa làm đơn xin thuyên chuyển qua Pháo Binh Nhảy Dù, đơn đă được
chuyển đi. Thứ hai, Mai cũng vừa về B́nh Long trọ học (đệ nhị cấp).
Tao định sẽ cưới Mai làm vợ, nhưng không biết nhà người ta có chịu
gả con cho đám lính tráng như tụi ḿnh hay không?” Tôi đă đọc thư
Khiêm nhiều lần đến thuộc ḷng.Tháng sau, theo chân một cuộc hành
quân mở đường để đoàn công-voa của đồn điền cao su CEXO chở gạo lên
cho hơn 10 ngàn công nhân cạo mủ. Tôi về B́nh Long gặp Khiêm. Buổi
trưa, Khiêm, Mai và tôi rủ nhau vào một quán cơm ở chợ cũ, đầu con
dốc Đại Lộ Hoàng Hôn. Nh́n hai đứa nó khắng khít bên nhau trông rất
rất hạnh phúc và đẹp đôi khiến tôi cũng vui lây niềm vui của bạn. Ăn
cơm xong, chẳng biết đi đâu v́ tỉnh lỵ quá nhỏ, quá nghèo. Thế là
vào một quán cà-phê ngồi tâm sự. Mấy tháng sau, th́ Khiêm thư cho
tôi báo đă cùng với Ni qua Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù.
Năm 1970, tôi về Chiến Đoàn 3 Xung Kích Lưu Động (B.23 –Mike-Force ở
Long Hải. Chiến đoàn có 3 Tiểu đoàn Biệt Kích Quân Tiếp Ứng, quanh
năm đi hành quân xa. Tôi may mắn gặp Thiếu Tá Ngô Đ́nh Lưu, nhận ra
người miền Trung với nhau nên xếp cho về ban 5, suốt ngày chỉ quanh
quẩn ở hậu cứ. Thời gian này, Ngô Văn Khiêm được Tiểu Đoàn 1/PB Dù
cho đi học một khóa Chiến Tranh Chính Trị kéo dài hơn tháng tại trại
Lê Lợi, trong Biệt Khu Thủ Đô, đường Lê Văn Duyệt. C̣n Mai th́ theo
gia đ́nh về Sài G̣n ở Thanh Đa và mới bước vào Đại học Văn Khoa. Thế
là cuối tuần nào tôi cũng từ Long Hải vù về Sài G̣n, cặp kè với
Khiêm ra Thanh Đa đón Mai. Có khi vào rạp Rex coi xi-nê, có khi ra
Mai Hương ngồi ăn kem, chứ chẳng biết làm ǵ hơn ở cái đất Sài G̣n
hoa lệ mà chúng tôi th́ tiền lính-tính liền!
Giữa năm 1970, tôi từ giă cuộc đời Biệt Kích, quay về quê nhà ở
Quảng Trị. Cứ tưởng c̣n lâu mới gặp lại Khiêm. Cuối năm đó tôi nhận
được tin Khiêm lên B́nh Long làm đám cưới với Mai, nhưng tôi không
về được. Nào ngờ, đầu năm 1971, Khiêm tham dự hành quân Lam Sơn 719,
đánh sang Hạ Lào. Khi đơn vị của Khiêm triệt thoái về Đông Hà, tôi
đă đi t́m và gặp được cả Khiêm lẫn Ni và thêm một người bạn mới có
cái biệt danh là “Dưỡng Cà Lăm”. Lúc bấy giờ cả ba đă đeo lon Trung
Úy. Sau chiến dịch này, Huỳnh Công Ni xin về Pháo Binh Diện Địa,
thuộc Tiểu Khu Lâm Đồng. Tôi đưa Khiêm về nhà. Mẹ tôi hỏi nó muốn ăn
ǵ? Nó nói thèm canh chua miền Nam lắm. Mẹ tôi, một bà Mẹ quê miền
Trung chơn chất, ít khi bước ra khỏi lũy tre làng. Nay v́ chiến
tranh phải tản cư lên tỉnh, nên không biết canh chua nam bộ là thứ
ǵ. Thế là hai đứa ra chợ mua cá lóc, me chua và đủ món gia vị, đem
về tự nấu. Chẳng hiểu có ngon lành ǵ không mà Khiêm cứ khen lấy,
khen để. Chiều hôm đó, tôi và Khiêm về Huế. Hai thằng chui xuống một
chiếc đ̣ dưới chân cầu Gia Hội, kêu chủ đ̣ chèo ra neo giữa ḷng
sông Hương nằm tâm sự cứ như là nhân t́nh. Đó là lần đầu tiên tôi
nghe Khiêm triết lư về cuộc sống. Nó nói: “Chiến tranh ngày càng
khốc liệt. Cứ đánh hết trận này đến trận khác. Tao nghĩ thế nào cũng
có ngày ngă gục, không th́ cũng tàn phế, bởi đi đêm hoài phải có lúc
gặp ma. Tao học được ở đời lính hai điều. Thứ nhất là ư nghĩa 4 chữ
“ Cư-An- Tư Nguy” quá tuyệt vời trên phù hiệu của trường Thủ Đức.
Nhưng từ khi học được câu này th́ chưa bao giờ “ Cư An” mà chỉ toàn
là “Tư Nguy”. Thứ hai là khẩu hiệu “Nhảy Dù – Cố Gắng hết sức khiêm
nhường. Quả thật, không ngày nào là không cố gắng, cố gắng không
ngưng nghỉ mà chẳng biết cái ǵ đang chờ ḿnh ở phía trước! Thôi th́
cứ tiếp tục cố gắng, cố gắng đến cùng vậy”. Rồi Khiêm nhắc đến Mai,
đến cái tương lai thật đơn sơ mà hai đứa mơ ước. Tôi nghe mà thương
nó lắm, bởi cảm giác như bạn ḿnh chẳng khác nào một con ngựa hồng
sắp mỏi vó! Sáng sớm hôm sau, hai đứa lại chia tay, lại hẹn ngày gặp
lại. Khiêm ra Đông Hà với đơn vị đang tái phối trí, c̣n tôi về Quảng
Trị.
Mùa hè đỏ lửa 1972, tôi làm phóng viên chiến trường, hết theo chân
các đơn vị TQLC, đến Nhảy Dù tiến về Cổ Thành. Một lần biết được
Pháo đội của Khiêm đang chốt vị trí tại một băi cát bên phải quốc lộ
1, gần ngă 3 Hải Lăng, Lúc bấy giờ Khiêm đă lên Đại Úy, giữ chức vụ
Pháo đội trưởng Pháo đội A, Tiểu đoàn 1 Pháo binh Dù. Chúng tôi ngồi
ăn trưa trong tiếng nổ ́ ầm liên tục, rung chuyển cả mặt đất. Tiếng
đạn 130 ly từ trên núi rót xuống, tiếng 105 ly của Khiêm bắn đi yểm
trợ cho các cánh quân đang tiến về Cổ Thành. Ai mà yếu bóng vía và
không giỏi chịu đựng, chỉ cần ở đây vài phút là đă run như cầy sấy.
Vậy mà Khiêm và các chiến binh can trường vẫn sống một cách hào hùng
hết ngày này, sang tháng khác trong hoàn cảnh như thế.
Khiêm hỏi tôi bà già và các em đang ở đâu? Tôi cho Khiêm biết tất cả
đều b́nh an và đang sống ở khu tản cư Non Nước, Đà Nẵng. Quả thật,
trong chiến tranh, người dân Quảng Trị cũng gian truân chẳng kém ǵ
đời lính. Họ liên tục có những cuộc bỏ phiếu bằng chân để lựa chọn.
Bất chấp bom đạn trên đầu, cứ t́m nơi nào có bóng dáng người lính
VNCH mà đến...
Sau bữa cơm, tôi thấy nét mặt Khiêm đượm buồn, cho dù sạm nắng và
dày dạn phong sương rất nhiều. Khiêm nói:
- Báo cho mày biết, tao sắp làm cha.
Ngày trước, chẳng ngán ǵ đường tên, mũi đạn, bất quá “áo bào thay
chiếu anh về đất” là cùng. C̣n bây giờ, khi biết ḿnh sắp có con th́
hơi lạnh cẳng! Thôi th́ cứ phó thác cho số phận.
Ngưng một lát, Khiêm đứng dậy móc trong túi quần trận ra đưa cho tôi
một xấp tiền. Nó nói tiếp:
- Đường từ đây về Huế rất an toàn,
tất cả đều nằm trong sự kiểm soát của ḿnh, ngoại trừ pháo kích th́
không biết đâu mà lần. Lát nữa tao cho tài xế lái xe jeep đưa mày về
Huế. Đó là lệnh, mày không được căi. Mày không nên ở đây đêm nay.
Tao gởi mày 5. ngàn. Cho mày 2 ngàn, coi như tao rửa lon Đại Úy trễ
với mày. Gởi bà già 3 ngàn cho tao yên ḷng. Tao ở giữa chiến trận
th́ để tiền trong túi mà làm ǵ. Mày cứ tiêu giùm tao...”
Tôi xiết chặt tay Khiêm và nắm lấy thật lâu. Tự nhiên tôi trào nước
mắt, chỉ thốt được một câu:
-Tao thương mày quá Khiêm ơi!
Khiêm nh́n tôi cố cười gượng:
- Đ.m tinh thần Biệt Kích của mày đâu rồi? Ngày xưa tao ngưỡng mộ cái ngang tàng của mày lắm mà. Sao bây giờ lại yếu đuối thế!
Đó là lần cuối cùng tôi gặp Khiêm!
Cho dù thỉnh thoảng tôi vẫn ghé lại hậu cứ Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh Dù,
nằm sát Tiệu Đoàn 9 trong trại Hoàng Hoa Thám để hỏi tin tức và biết
chắc nó vẫn chân cứng, đá mềm trên khắp nẻo chiến trường.
Sau ngày 30/4/1975, tôi hy vọng Khiêm sẽ trở về, nhưng chờ hoài
chẳng thấy. Một thời gian sau, tôi khăn gói đi vào trại tù, nơi được
gọi là trại cải tạo! Ṛng ră 10 năm lao lư, mỗi lần có số anh em từ
trại khác chuyển đến, tôi đều dọ hỏi, nhưng cũng chẳng có ai biết
Khiêm ở đâu. Năm 1985, tôi ra trại. Lại tiếp tục t́m kiếm. Bấy giờ
tôi lại hy vọng bạn ḿnh đă nhanh chân di tản được sang Mỹ, v́ nghe
nói Nhảy Dù và TQLC đi nhiều lắm. Cho đến khi có internet, tối nào
trước khi tắt máy đi ngủ, tôi cũng gơ vào Google “Đại Úy Ngô Văn
Khiêm pháo đội trưởng pháo đội A tiểu đoàn 1 pháo binh sư đoàn nhảy
dù” và lần nào mạng cũng cho kết quả “Không hiển thị”.
Thế rồi, một buổi tối đầu tháng 7/2014, tôi đă hồi hộp đến nghẹn thở
khi thấy tên Khiêm xuất hiện trên mạng, trong bài viết mang tựa đề
“Cải táng những chiến sĩ mũ đỏ đă vị quốc vong thân ngày 16/4/1975
tại phi trường Phan Rang-tỉnh Ninh Thuận”. Người viết muốn thông báo
cho bà con, bạn bè, thân hữu của Trung Tá Sơn, Thiếu tá Tựu và Đại
Úy Khiêm là đă t́m được nấm mồ tập thể, chôn hài cốt của 3 anh em có
cấp bậc cao nhất và một số chiến hữu khác dưới chân Núi Ngỗng, xă
Ninh Sơn. Tháng 3/2013, một ngôi miếu nhỏ được xây dựng tại đó, sau
38 năm những cánh hoa dù về an nghĩ giữa ḷng đất mẹ mà không ai
nhang khói! Ư chừng để tránh phiền toái, tác giả bài viết kư tên là
Cà Tèm với số điện thoại khuyến măi: 01886423011. Mừng quá, tôi bấm
ngay số điện thoại của Cà Tèm nhưng chỉ nghe tổng đài trả lời “số
thuê bao đă tạm khóa, xin quư khách gọi lại sau”.
Thất vọng, nhưng tôi vẫn kiên tŕ gọi mỗi ngày 3 lần: sáng,
trưa,chiều... Rồi gần 10 ngày sau, một buổi sáng tôi nghe chuông đổ.
Đầu máy bên kia một giọng đàn ông lớn tuổi vang lên. Tôi giới thiệu
ngay ḿnh là bạn chí cốt của Ngô Văn Khiêm, rất xúc động khi đọc
được tin này và rất cảm kích trước việc đi t́m xác đồng đội của anh
em. Người đàn ông nói, anh ta cũng là chiến sĩ mũ đỏ và quê quán tại
Phan Rang. V́ quá thương chiến hữu mà mấy chục năm qua cứ lùng sục,
t́m kiếm để lo cho đồng đội một nấm mồ mới thấy yên ḷng. Sau đó, Cà
Tèm cho tôi số điện thoại thường dùng và tên thật của anh. Tôi hỏi
Cà Tèm, hiện nay Khiêm có c̣n thân nhân nào không? Cà Tèm nói có,
chị Mai vợ của anh đang ở Úc. Dù đă có gia đ́nh mới nhưng hôm xây
miếu cho anh Khiêm, chị cũng gởi tiền về. Tôi lại hỏi Cà Tèm có cách
nào liên lạc được với Mai không? Cà Tèm nói sẽ gọi đt cho người em
chồng hiện nay của Mai đang định cư ở Sài G̣n. Nhờ anh ta chuyển
ngay cho Mai tên và số đt của tôi. Nếu cần th́ Mai sẽ gọi. Cà Tèm
cúp máy. Tôi tưởng nếu có th́ cũng phải chờ một vài ngày Mai mới gọi
cho tôi, bởi đă mất liên lạc với nhau hơn 40 năm rồi c̣n ǵ. Ấy thế
mà chỉ một tiếng đồng hồ sau, chuông điện thoại của tôi reo, đầu máy
bên kia giọng một người phụ nữ đứng tuổi nói trong xúc động:
- Có phải anh Tường không? Em là Mai
vợ anh Khiêm ở Úc gọi về cho anh đây.
Quá xúc động, tôi hét lên trong máy:
- Mai ơi, Mai khỏe không?
- Em khỏe. Mấy chục năm qua, em cũng nhiều lần ḍ hỏi tin tức về anh nhưng không có ai trả lời chính xác.Anh Tường ơi, tội nghiệp Khiêm lắm. Những ngày tháng cuối cùng không hiểu linh tính thế nào mà Khiêm thường nói với em:
“Nữa, anh chết đi, anh sẽ kiếm cho em một người chồng tử tế. C̣n thằng nào không đường hoàng anh sẽ không gả em đâu.” Rồi Khiêm lại mang hết đồ đạc về nhà và dặn ḍ em, chiến tranh chừng cũng sắp kết thúc, anh sẽ về sống măi măi bên em.”
Ngưng một lát, dường như để nén cảm xúc, Mai nói tiếp:
- Suốt đêm 16/4/1975, em không thể
chợp mắt một phút nào cả. Ḷng cứ nóng như lửa đốt. Mấy ngày sau, có
một người y tá thuộc đơn vị của Khiêm, tên là Phan Bá Em đến nhà cho
em biết. Sáng hôm đó, bên ḿnh hầu như đạn dược, lương thực đă cạn
kiệt và VC đă tràn vào phi trường. Trung Tá Trần Văn Sơn, Lữ đoàn
phó, Lữ đoàn 2 Dù bị trúng một băng đạn vào người, ngă gục tại chỗ.
Kế đó, Thiếu tá Đặng Đ́nh Tựu cũng bị trúng đạn pháo kích và tử
trận. C̣n Khiêm th́ bị thương nặng ở bụng và ở chân. Vừa lúc đó, có
một chiếc máy bay chở đồ tiếp tế ra và bốc thương binh về. Khiêm
được đưa lên máy bay và y tá Em băng bó tạm thời.
Lúc bấy giờ, y tá Em cũng bị thương nhẹ ở tay. Nhưng rồi, phi trường
bị pháo kích nặng, máy bay không cất cánh lên được. Ông Em nói với
Khiêm : “Đại úy bị thương nặng, không đi được, phải nằm lại thôi.
C̣n em, trong t́nh h́nh này phải rời đây ngay.” Khiêm nắm tay người
y tá và dặn, “cậu cố gặp vợ con tôi, kể cho họ biết. Nói là tôi yêu
thương vợ con lắm. Thôi cậu đi. Chúc may mắn” Thế là Khiêm không bao
giờ về nữa! Những ngày cuối tháng 4/75, chiến trường Long Khánh bùng
nổ dữ dội, em rất muốn ra Phan Rang t́m anh Khiêm, nhưng đường xá
chưa lưu thông. Đến ngày 4/5, em ra Phan Rang, đến phi trường th́
gặp đám bộ đội c̣n trẻ canh gác ở đó cho biết. Đơn vị dọn dẹp phi
trường và thu gom xác chết vài tuần trước đă di chuyển di nơi khác.
C̣n họ mới đến vài ngày nay nên không biết ǵ cả. Hai tháng sau, em
trở ra Phan Rang 10 ngày cứ t́m kiếm, hỏi han khắp nơi, nhưng đành
chịu thua. Sau đó, v́ cuộc sống, em khai chồng chết và nhờ có học
mấy năm văn khoa, em được họ cho học một lớp sư phạm ngắn hạn, rồi
phân phối về dạy trường Trung học Giồng Ông Tố. Đến năm 1982, em gặp
anh Hứa Duối, nguyên Đại Úy, Đại đội trưởng 204, Quân cảnh Dù. Anh
Duối trong thời gian đi tù cải tạo th́ gia đ́nh tan nát. Tụi em đă
dắt d́u nhau vượt biên sang Úc và đă sống với nhau 32 năm, có được 2
đứa con, đứa nào cũng ngoan và học hành đến nơi, đến chốn. Riêng
cháu Sơn, con anh Khiêm, năm nay đă 42 tuổi rồi và rất thành đạt ở
Úc. Quả thật, anh Khiêm đă phù hộ cho em gặp được người chồng tốt,
vừa là đồng đội cũ của anh. Anh Duối là một người đàn ông hết mực tử
tế với gia đ́nh...
Nghe Mai kể, ḷng tôi buồn vui lẫn lộn. Cuối cùng, tôi cũng biết rơ
tin tức của Khiêm. Th́ ra, gần 40 năm qua, bạn tôi đă nằm lại ở một
nơi đèo heo hút gió vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến. Một
cuộc chiến với hồi kết thúc thật bẽ bàng...! Bây giờ là tháng bảy âm
lịch. Một buổi tối ngồi trong quán cà-phê với mấy người bạn trẻ. Tôi
đem câu chuyện t́nh bạn của tôi và Khiêm trong thời chinh chiến với
đoạn cuối c̣n nguyên vẹn cảm xúc kể cho họ nghe và quyết định vài
hôm nữa sẽ ra Núi Ngỗng, Phan Rang để đốt cho Khiêm và anh em nằm
lại ở đó một nén nhang. Nào ngờ những người bạn trí thức trẻ đó
không những hết sức ủng hộ mà c̣n muốn theo chân tôi trong chuyến đi
này một cách nhiệt t́nh. Thế là cùng nhau bàn bạc, chọn ngày 9/8
(13/7âm lịch) khởi hành sằng xe lửa. Theo đúng kế hoạch, 4 chú cháu
chúng tôi, bao gồm 2 kỹ sư điện là Hồ Cao Anh Tuấn và Nguyễn Bá Tuệ,
cùng với bác sĩ Đoàn Nguyễn Hoài Lê rời Ga Sài G̣n lúc 9 giờ tối. 6
giờ sáng hôm sau ra tới Phan Rang, nhờ Cà Tèm dẫn đường lên Núi
Ngỗng. Cúng xong, chúng tôi xuống băi biển Ninh Chữ nằm ghế bố nghỉ
ngơi, chờ đến tối ra ga Tháp Chàm quay về lại Sài G̣n.
Trở lại chuyện đi t́m hai cốt bạn, từ
Phan Rang, chúng tôi theo quốc lộ 27 hướng lên Đà Lạt 20 cây số. Rẽ
phải, vào một con đường đất ngoằn nghèo, chạy qua những sườn đồi trơ
trụi, tha hồ gió cát mịt mù. Mới 9 giờ sáng mà nắng đă như thiêu,
như đốt, giữa vùng đất cằn không một bóng cây xanh. Đi thêm 3 cây số
nữa là tới một ngôi miếu nhỏ, sơn màu xanh da trời, nằm chơ vơ trên
một miếng đất trống, bên phải một con đường ṃn. Đó là nơi an nghỉ
của Khiêm và một số đồng đội của nó. Tội nghiệp bạn tôi, khi c̣n
sống th́ lặn lội ở những nơi rừng sâu, núi thẳm gần như suốt thời
trai trẻ. Khi nằm xuống, cũng ở một nơi đèo heo hút gió mà ngủ giấc
ngàn thu! Nơi đây, ngày không một bóng người qua lại, đêm thiếu vắng
cả ánh đèn dầu leo lét. Bạn tôi nằm dưới chân một ḥn núi cô đơn,
mang dáng dấp một con ngỗng trời, đầu hướng ra biển đông th́ thầm
sóng vỗ.
Chúng tôi dọn lễ vật đă chuẩn bị sẵn. Thắp nhang, rót rượu, đốt
thuốc mời nhau, chẳng khác ǵ những bữa tiệc, tương phùng , lính
tráng ngày xưa! Cho dù giờ đây, Khiêm chỉ c̣n là một nắm xương tàn,
dưới nền ngôi miếu nhỏ. Nhưng tôi tin linh hồn của Khiêm và những
anh em nằm lại nơi đây, đă được những con ngỗng thiêng ở chân núi
này chở theo những cánh hoa dù bay thẳng về trời từ lâu.
Đoàn Kế Tường.
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”