Những bài viết của Bất Khuất

Tập Truyện Thuyền Đời  
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân  
Tết  
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời - Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long  
Ngày oan trái! - Audio
Đất nước tôi - Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh - Audio
Chuyện cuối năm - Audio
Màu áo cũ - Audio
Mang theo quê hương  - Audio
Trong âm thầm c̣n nhớ ai! - Audio  
Sài G̣n là đây sao em! - Audio
Chuyện trăm năm - Trên quê hương - Audio
Chuyện trăm năm - Một ngày - Audio  
Trăm đắng ngh́n cay - Audio
Chiếc áo Bà Ba - Audio
Giữa đồng xưa - Audio
Áo trắng - Audio
Gửi nơi cuối trời - Audio
C̣n nhớ mùa xuân - Audio
Từ một chuyến đ̣ - Audio
Dêm thánh vô cùng - Audio
Khi mùa đông về  - Audio
Noel năm nào - Audio
Khúc quân hành - Audio
Cho ngàn sau - Audio
Ngh́n trùng xa cách  -  Audio
Rồi lá thay màu - Audio
Con chim biển 3 - T́m về tổ ấm - Audio
Con chim biển 2 - Trên biển khơi - Audio  
Con chim biển 1 - Tung cánh chim - Audio
Đốt sách ! - Audio
Đi học  
Sài G̣n - Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về - Audio  
Làng tôi - Audio 
Sao em không đến - Audio  
Anh đi!  - Audio  
Vỉa hè đồng khởi - Audio
Ngày đại tang  
Chuyện mất chuyện c̣n  
Con chim Hoàng Yến - Audio 
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú - Audio
Remember!
Cánh chim non - Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa   
Trăm đắng ngh́n cay  
Con đường tôi về
Hăy c̣n đó niềm tin
Chiều ra biển  
Những đứa con đẽ muộn  
Một thời kỷ niệm  
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn  
Ngày anh đi  
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride  
We remember
Vui - Buồn … Ngày hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72  
Mùa hè đỏ lửa  
Dư âm ngày hội ngộ 44 năm tại California  
Có chuyến bay  
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ  
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết


 

 


 

 

 

 

 

 

 

CA HÁT VỚI MA

Chuyện kể của ông Năm.
Ngựi chép lại: Tràm Cà Mau.

Măi đến bây giờ, khi ngồi kể lại chuyện nầy, tôi vẫn không tin đă gặp ma. Con “Ma-T́m-Vàng” ở thành phố Yreka tại miền Bắc tiểu bang California. Thành phố cổ lỗ nầy được mọc lên vào năm 1851, khi cơn sốt t́m vàng cháy bỏng miền đất cơ hội của Mỹ, và dân t́m vàng ùn ùn đổ về đây. Cho đến ngày nay, dân số cũng chỉ có khoảng bảy ngàn ngựi.
Khi tôi tỉnh dậy trong bệnh viện của thành phố Yreka, và kể cho cô y tá nghe chuyện ǵ đă xẩy ra đêm qua, th́ cô tái mặt và tỏ vẻ e dè sợ sệt. Cô nói rằng, tôi đă gặp con “Ma-T́m-Vàng”. Cứ đúng ba năm, con ma xuất hiện môt lần, và ám hại du khách. Cảnh sát phải khiêng xác vào bệnh viện, may mắn th́ không can ǵ, xui th́ liệt nửa người, méo miệng, xui hơn th́ về nghĩa địa nằm.

Trước khi về hưu chừng sáu tháng, tôi lùng t́m một chiếc xe thùng, đặt mua từ Âu Châu, loại “Eurovan Camper”. Xe nhỏ, gọn, bốn bánh thôi, nhưng bên trong trang bị đầy đủ cho vài ba người có thể ăn ở được khi đi du lịch xa nhà. Có giường ngủ, bếp nấu, bàn ăn, ghế ngồi, tủ lạnh, máy điều hoà nhiệt độ mát và ấm, có cả pḥng tắm và bồn cầu vệ sinh. Thứ xe mà hăng sản xuất quảng cáo là “Một ông, một bà, một chó, một xe, và chẳng có việc làm.”

Tôi lái xe ra đi, thời gian giang hồ vặt nầy là vô hạn định. Đi cho đến khi hết vui, hoặc hết đi tiếp nổi, th́ quay về nhà. Khởi đi từ vịnh San Francisco lên hướng bắc, định qua tiểu bang Oregon, Washington, rồi băng dọc miền Tây Canada, và đi thẳng đến Alaska. Nơi nào phong cảnh đẹp, vui th́ đến, ở lại một vài hôm. Nơi nào có bạn bè th́ ghé thăm, hàn huyên, nói chuyện, ngâm thơ, uống trà, nhấp rượu. Không có thời khoá biểu, không có mục tiêu định sẵn. Cứ nhởn nhơ, thong thả, đi không cần đến, và đến không cần gấp.

Một người bạn nói rằng, đi chơi như thế nầy th́ cũng đă thú vị, nhưng nếu rủ thêm được một bà nào đó cùng đi theo, th́ cuộc hành tŕnh sẽ vui hơn gấp nhiều lần, và đỡ cô đơn. Tôi trả lời rằng, anh nói đúng. Mấy ngày đầu th́ có lẽ vui vẻ và lăng mạn lắm. Nhưng chừng một tuần sau, th́ sẽ cảm thấy vô cùng khó chịu, v́ bị chỉ huy, rằng “phải đi nơi nầy, không đi nơi kia, phải ăn tiệm nầy, không ăn tiệm kia, và bị nạt nộ, bị gắt gỏng, đủ điều, đủ thứ”. Ngoại trừ gặp được một người bạn gái hết sức dịu dàng, biết điều và nhường nhịn. Anh bạn tôi cười và nói đùa rằng, nếu ḿnh không đụng vào sợi dây lưng quần của họ, th́ họ lấy quyền ǵ mà gắt gỏng la mắng, chỉ huy ḿnh?

Thành phố cổ tích Yreka nằm trên lộ tŕnh. Không thể bỏ qua được. Tôi rẽ vào phố khi nắng đă nghiêng chênh chếch về hướng tây. Thả xe chạy chầm chậm, tôi đi quanh từ đường nầy qua đường khác. Nhà cửa thấp, xưa cũ cả hơn trăm năm, sơn màu loè loẹt. Ở ngơ vào thành phố, có bức tượng đồng to lớn, h́nh một ông râu ria xồm xoàm, đội nón rộng vành, mặc quần treo, đi giày ống, tay áo xắn cao. Ngồi chồm hổm trên phiến đá lớn, kiểu “ngồi nước lụt” của các anh chị cán bộ Cộng sản, hai tay ông cầm cái sàng to, đang đăi vàng. Bên cạnh ông là một con lừa đồng, lưng và hông nó chất đầy và treo ṭn ten đủ các thứ lỉnh kỉnh. Đây là biểu tượng của những kẻ đầu tiên đến khai phá và lập nên thành phố nầy.

Tôi vào khu phố cổ, cũng là phố chính. Đậu xe lại trên đường Miner. Có cảm giác như đi về quá khứ hơn trăm năm cũ. H́nh ảnh giống như trong những phim xưa, phim đen trắng mập mờ cà giật, xem nhức mắt. Tôi lội bộ loanh quanh khắp khu phố, chỉ có bảy phút là đă hết nơi đi.

Tôi ghé vào bảo tàng viện “quặng vàng” để xem. Cái “viện” nầy, không rộng hơn cái pḥng ngủ của tôi bao nhiêu. Nhưng tôi thích thú khi thấy và biết được các thứ vàng nguyên thủy, như vàng bụi, vàng cốm, vàng hạt đậu, vàng cục, vàng miếng, đủ các loại h́nh thể nhỏ to, có xù x́, có trơn láng… Miếng vàng nguyên thuỷ to nhất, với h́nh thể giống như cục phân chó bị đạp dẹp. Tôi thầm nghĩ, sau năm 1975, vớ được một mớ vàng nầy, th́ dư sức đóng tiền cho toàn gia đ́nh cả hơn chục người đi vượt biên.

Vào một quán cà phê, bên trong trang hoàng bằng các dụng cụ t́m và đăi vàng ngày xưa. Tôi ngồi gác chân lên ghế nhâm nhi từng ngụm đắng, và cứ tưởng tượng như ḿnh là một kẻ phóng đăng giang hồ đi t́m vàng ngày xưa. Cứ tưởng tượng cho vui, không tốn thêm một xu.

Dù trong xe có đủ thức ăn sẵn, nhưng tôi cũng đi quanh t́m một quán đặc biệt, để thưởng thức cái cảm giác và hương vị đi về quá khứ gần trăm năm rưỡi xa xưa. Món bánh ḿ với thịt ḅ nướng than theo kiểu cũ, ăn ngon, đậm đà. Tôi kêu thêm mấy ly rượu, ngồi nhâm nhi, nh́n tranh cao bồi treo trên tường, nghe nhạc rè rè từ chiếc máy hát quay tay. Tôi thầm nghĩ, ḿnh may mắn, đến Mỹ vào thời sau nầy, đă văn minh, đầy đủ tiện nghi, lại có an toàn. Nếu đến đây vào trăm năm trước, th́ không chừng đă bị mấy tay cao bồi bắn nát thây từ lâu rồi.

Tôi để trí năo mơ mộng, ngồi ĺ uống bia t́-t́ cho đến khi chủ quán lịch sự nhỏ nhẹ cho biết đă đến giờ đóng cửa. Tôi loạng quạng đi ra, quên mất phương hướng, không nhớ ḿnh đă đậu xe nơi đâu, đường nào. Nhưng cứ yên tâm, v́ cái phố nhỏ như thế nầy, th́ đâu cần chi nhớ chỗ, đi quanh thế nào cũng t́m ra xe. Tôi quành hai ṿng, khi đi qua viện bảo tàng về quặng vàng, dưới bóng đèn vàng vọt lờ mờ, tôi thấy một ông ǵa ngồi trên băng đá, tay ôm đàn, hát nhạc đồng quê với giọng khàn khàn.

Ông già nầy râu ria tua tủa như chổi chà, tưởng như chưa bao giờ cắt tỉa, đội nón rộng vành, mang quần vải dày có dây treo, đi giày ống, cổ quàng cái khăn có thắt xéo. Giữa đêm muộn, đường xá vắng hoe, sao ông cụ ngồi đàn hát một ḿnh, có tâm sự chi buồn chăng? hay là cũng đă say xỉn rồi? Tôi ṭ ṃ đứng lại nghe tiếng đàn đánh nhịp cho câu hát. Tiếng hát buồn rười rượi với giọng khàn giữa đêm khuya:

-“Nhớ thương em làm tan nát tim anh. Đau đớn ḷng anh. Nhớ thương con, con c̣n thơ dại. Thôi em nín đi, nín đi, đừng khóc nữa. Anh hôn em đây. Anh lên đường. Anh ra đi, chỉ một thời gian ngắn thôi. Ráng sức đào, xới, t́m. Nhẫn nại, chăm làm. Rồi sẽ trở về. Ôi vàng California, vàng California. Anh sẽ về. Anh sẽ về. Rồi em sung sướng như công nương. Anh mua cho em váy xoè màu huyết dụ, mua cho em nón rộng có gắn lông công, đôi giày cao gót số tám…”

Tứng từng tưng, tứng từng tưng. Tiềng đàn đệm nhịp dập dồn. Ông cụ hát gào tiếp:

-“Ta lội sông đăi vàng, ta xẻ núi moi vàng. Ta đội nắng lửa trên lưng. Chôn chân trong tuyết cóng. Vàng ơi là vàng ơi. Vàng ở khắp nơi, mà sao t́m măi không ra, đăi măi không thấy. Vàng ơi, vàng ơi. Vợ con thương nhớ ơi, ở nơi xa xôi nước mắt có ướt đẫm khăn buồn mỗi đêm, mỗi đêm…”

Tưng tưng tứng từng tưng.

Ông cụ khoát tay về hướng tôi, nói:

-“Nầy, bằng hữu từ đâu đến? Có phải đi đào vàng không? Hà hà, giấc mơ đẹp tuyệt vời, nhưng e rồi cũng tan thành mây khói mà thôi. Hăy ngồi xuống đây, uống cùng ta một vài chén rượu giao hữu, cho ấm t́nh tương ngộ hôm nay.”

Trăng lưỡi liềm lờ mờ chênh chếch trên trời cao. Tôi thấy hứng chí, bèn ngồi xuống bên cạnh ông cụ, đưa tay đón chén rượu, nốc một hơi uống cạn. Cả hai cùng cười, t́nh thân đến rất mau qua chén rượu. Sao mới gặp mà tôi thấy như đă thân t́nh từ tiền kiếp.

Ông cụ nói tiếp:

-“Hát với tôi, chúng ta cùng hát cho tàn đêm nay mới thôi. Hát cho khản cổ, hát cho hết hơi, hát cho nguôi buồn nhớ, cho xoá bớt dĩ văng đau đớn, nhọc nhằn, gian khổ.”

Tôi cười nói:

-“Thưa ông anh, hát th́ hát, nhưng buồn đau th́ không. Tội chi mà buồn. Cứ vui hoài. Được cũng vui, mà mất cũng vui, có th́ vui nhiều, mà không cũng cứ vui. Ray rứt khổ đau không giải quyết được ǵ cả.”

Tôi gân cổ lên hát theo ông già, ông hát câu nào, tôi hát theo câu đó. Tay ông vẫn liên tục đệm đàn rào rào và vỗ mặt đàn rầm rầm làm nhịp. Ông liên tục hát những khúc nhạc đồng quê ngày xưa, thời của những kẻ đi t́m vàng. Vang vang âm điệu xót xa của vợ chồng khi phân ly, của ngày tháng lao lực nhọc nhằn, của nỗi tuyệt vọng cùng cực. Cứ hát hết một bài, th́ uống mấy hớp rượu trong b́nh bằng da.

Ông cụ hỏi tôi từ đâu đến đây. Tôi cho biết từ San Francisco tới. Ông cụ cười khà khà, nói:

-“Trước khi có cơn sốt t́m vàng vào năm 1849, th́ San Francisco chỉ là một làng nhỏ hẻo lánh, chừng vài trăm dân cư. Thế mà hai năm sau. Dân t́m vàng ùn ùn đổ đến, nhà cửa xây cất thêm không kịp. Trung b́nh mỗi ngày, có ba chục căn nhà mới. Một thửa đất xây nhà, trước đó giá chỉ 16 đô-la thôi, mà chưa được hai năm sau, tăng lên đến 46 ngàn đô-la. Không tin nỗi. Lúc đó, mỗi ngày, cũng trung b́nh có hai vụ giết người. Hừ, San Francisco của anh! Ở làm chi nơi ấy? Không biết bây giờ giá cả nhà cửa ra sao. Coi bộ anh không phải là dân Tàu? Di cư đến Mỹ từ bao giờ? Đến đây t́m vàng?”

-“Đúng, tôi không phải Tàu, gốc Việt Nam. Đến Mỹ đă ba mươi năm. Tôi không t́m vàng, mà lại đi t́m tự do.”

-“Trốn tù vượt ngục đi t́m tự do? Tôi không biết Việt Nam là xứ nào, ở đâu trên thế giới. Ông bạn phạm tội ǵ mà bị kêu án tù?”

-“Không có tội ǵ cả. Cũng đă được tha ra khỏi nhà tù. Nhưng chế độ quá sức cay nghiệt, tàn ác. Đời sống bất ổn, đầy lo âu. Không thấy ánh tương lai, và sống mà không bằng chết, nên chúng tôi liều mạng ra đi. Gian nan và nguy hiểm, cực khổ vô cùng, không kể xiết. Tôi đi ra biển, gần hai tuần lênh đênh với sóng gió, băo tố, đói khát. Có hàng trăm ngàn đồng bào tôi đă chết giữa biển khơi.”

Ông cụ nhổ toẹt một băi nước bọt xuống đất, nói với giọng mai mỉa:

-“Hai tuần trên biển, có đáng là bao mà kêu ca! Không bằng chút xíu xiu của bạn bè tôi, khi đi thuyền từ miền Đông qua miền Tây nước Mỹ để t́m vàng. Mua vé tàu thủy từ New York, đi xuống hướng Nam Cực, ṿng qua Argentina, rồi đi ngược lên hướng Bắc, để đến San Francisco. Anh biết phải đi bao lâu không? Trung b́nh là sáu tháng, mà có khi đi cả một năm trời mới tới nơi. Anh biết thời tiết trên biển vùng đó rồi chứ? Băo tố triền miên, sóng gió dữ dằn. Rất nhiều thuyền bè bị giông tố nhận ch́m, có đi mà không có đến. Sáu tháng đến một năm lênh đênh trên biển cho sóng gió vùi dập, ngất ngư, ói ra mật.

Khiếp nhất là t́nh trạng ở không, tháng nầy qua tháng kia chẳng có việc chi làm cho quên thời gian, quên buồn chán, sầu khổ. Chỉ có nằm mà mơ mộng đến vàng là an ủi mà thôi. Ăn uống thiếu thốn. Ăn toàn thức ăn đă hư thối, bột đă mốc, đầy gịi bọ. Không có chất tươi. Nước uống tồn trữ quá lâu, đă có mùi hôi, tanh nhớt. Từ đó mà sinh dịch tả, hành khách chết vô số, xác vất xuống biển. Đi th́ đông, mà đến th́ c̣n chẳng bao nhiêu. Ôi, mănh lực của vàng. Nó giết chết vô số ngựi mơ mộng giàu có.”

Tôi băn khoăn hỏi:

-“Thế th́ sao không đi qua kinh đào Panama, có mau hơn không?”

Ông cụ đáp:

-“Ông bạn không biết chi cả. Hỏi câu ngớ ngẩn. Thời đó làm chi có con kinh đào nầy? Nhưng cũng có rất đông đảo kẻ t́m vàng, muốn rút ngắn thời gian hải hành gian khổ, đi thuyền xuống Panama, rồi dùng đường bộ, băng từ Đại Tây Dương để đến bờ Thái B́nh Dương đón thuyền lên San Francisco. Những người nầy tưỏng là khôn ngoan, mà không qua được mệnh trời. Đoạn đường bộ băng qua Panama tuy ngắn, nhưng họ không chịu đựng được khí thiêng nước độc của rừng nhiệt đới, muỗi ṃng, sâu, vắt. Họ bị sốt rét, dịch tả mà chết rất nhiều trước khi đến được bờ Thái B́nh Dương.

Những kẻ may mắn c̣n sống sót, th́ gặp vấn nạn khan hiếm thuyền bè chịu chở họ từ đó đi lên San Francisco. Họ phải nằm lại mà chờ. Đông đảo người cắm trại chờ, sinh ra ô uế, thiếu vệ sinh, lại chết v́ bệnh. Nhiều khi chờ đến hàng ba hoặc bốn tháng, mới có thuyền ghé lại, chịu chở cho họ đi với giá cả vô cùng cắt cổ. Từ Panama đến San Francisoc phải trả đến 500 hoặc 1.000 đô-la cho một người vào thời đó. Số tiền khổng lồ. Phải cắn răng mà đi. Ai không có tiền th́ nằm chờ măi. Những khi thuyền đă quá chật, trả bao nhiêu họ cũng không cho đi. Và vô số người khác, nóng ḷng, không chờ được, dùng thuyền không đủ tiêu chuẩn ra khơi, chết ch́m giữa biển. Bọn anh vượt biển, đâu có gian nan đến thế nhỉ?”

Tôi nghe mà cảm thương, nhưng cũng bực ḿnh. Đáp rằng:

-“Gian khổ như thế th́ quả khủng khiếp. Nhưng người ta đi t́m vàng, t́m giàu có. Ra đi hiên ngang, chính thức, không ai cấm cản bắt bớ. C̣n chúng tôi, đi t́m tự do, ư nghĩa cao cả và thiêng liêng hơn nhiều. Không có thuyền nào của chúng tôi đủ tiêu chuẩn ra khơi cả. Và nỗi nguy nan nhất là bị lùng bắt trên bờ, nên ra đi lén lút. Bị bắn giết bởi công an xứ tôi. Không đủ xăng dầu, không đủ nước uống và thực phẩm, máy móc đơn sơ. Lại bị bọn Thái Lan cướp bóc, ủi ch́m thuyền, hăm hiếp, bắt cóc đàn bà con gái về bán cho các nhà thổ. Thời gian vưọt biển khó khăn không lâu, nhưng đầy gian nguy lo lắng.”

Ông cụ hỏi:

-“Tại sao nhà nước các anh đối xử hà khắc với dân chúng vậy? Họ có cùng một màu da, tổ tiên, gịng máu hay không? Tại sao?”

Tôi lúng túng, không biết phải trả lời ra sao. Chỉ lắc đầu, và ḷng buồn khủng khiếp khi nghĩ rằng, có lẽ trong lịch sử, chưa có giai đoạn nào nhân dân bị ức chế, áp bức, kềm kẹp bằng giai đoạn vừa qua. Đời sống bị xáo trộn, bất ổn cùng cực. Tàn tệ hơn cả chục lần khi Tàu đô hộ, Tây cai trị.

Tôi thở dài nói tiếp:

-“Nhiều ngựi trong chúng tôi, đi đường bộ, băng qua đất Kampuchia, để vào Thái Lan, chịu không biết bao nhiêu gian nguy, hiểm trở, và chết chóc cận kề gang tấc. “

Ông cụ cười gằn:

-“Nầy nhé, tôi kể cho anh nghe kinh nghiệm bản thân về cuộc hành tŕnh đựng bộ băng qua hai ngàn dặm, tức hơn ba ngàn cây số đường ṃn, từ miền Đông qua miền Tây nước Mỹ. Qua đồi, qua núi, vượt sông vượt suối, đi bộ giữa núi rừng khô khan, giữa sa mạc cháy bỏng, giữa giông tố mưa gió, đi cả sáu tháng ṛng ră may ra mới tới nơi. Chết chóc không biết bao nhiêu mà kể.”

Tôi ngắt lời:

-“Tại sao người ta rủ nhau đi t́m vàng đông đảo thế? Tin tức từ đâu? Sao không đi bằng tàu thủy, mà đi bộ cho khổ?”

Ông cụ thở dài, nh́n lên trời cao, lắc đầu nói:

-“Ban đầu, có người tên là James Marshall, t́m ra một hạt vàng dưới suối, nhỏ bằng nửa hạt đậu tại miền Bắc Sacramento của California. Tin đó loan truyền ra, người ta xuống suối đăi được khá nhiều vàng vụn. Rồi nhiều ngựi bắt chước, bỏ cả công ăn việc làm, đi đăi vàng. Dân chúng các vùng lân cận kéo về nơi nầy t́m vàng. Đến nỗi đồn điền của nhà cự phú nông nghiệp Sutter có hơn bốn trăm nhân công cũng không c̣n một ngoe. Nông trại phải bỏ hoang. Bị dân t́m vàng dẫm nát hoa màu, phá tan chiến luỹ lấy gỗ dựng cḥi, đốt làm cũi. Nghe đâu sau nầy ông Sutter sạt nghiệp, đi ăn xin.

Người ta đồn rằng, vàng nằm lềnh khênh trên mặt đất như cát sạn, tha hồ mà xúc, hốt, không đóng một xu thuế, không giới hạn. Cứ tự do mà khai thác. Ban đầu dân miền Đông nước Mỹ hoang mang, không biết thật hay giả, nhưng khi Tổng Thống Mỹ thời đó là James Polk xác nhận là có vàng ở California, th́ báo chí thổi phồng thêm. Như một cơn sốt, như một bệnh dịch. Thiên hạ bàn tán ồn ào. Bàn trong khi làm việc ở sở, trên cánh đồng, trong tiệm ăn, quán cà phê, giữa đường, trên phố, cả trong khi đi lễ nhà thờ, và cả trong mâm cơm gia đ́nh. Cha mẹ, vợ chồng, con cái, bạn bè, làng giềng, đều cũng náo nức luận bàn về vàng California. Ai ai cũng mơ mộng ra đi, chỉ chịu khó một hai năm thôi, là có vốn lớn làm ăn, thoát khỏi nghèo khó. Công chức bỏ việc, lính tráng trả lại súng ống quân trang, thợ thuyền bỏ nhà máy, thương gia bỏ tiệm, nông dân bỏ ruộng đồng. Thiên hạ gom góp tiền bạc để mua xe, mua ngựa, ḅ, trang bị đi về miền Tây hốt vàng. Cơn sốt t́m vàng nầy lan ra cả thế giới, dân cư từ các xứ Anh, Đức, Pháp, Mễ, Chilê, Tàu, v.v…, cũng t́m đủ mọi cách để đến California hốt vàng”

Tôi thắc mắc:

-“Có thật ngựi ta t́m được nhiều vàng không?”

-“Có. Những người đầu tiên t́m ra được khá nhiều vàng. Mỗi ngày có thể kiếm được khoảng 25 đô-la, tương đương với tiền công một tháng khi ở quê nhà. Nhưng, xui thay, chừng đó tiền cũng chỉ vừa đủ mua một bữa ăn thôi. V́ thức ăn hiếm hoi, đắt đỏ, tại v́ mọi người đều bỏ việc đi t́m vàng.”

Tôi cắt ngang lời ông:

-“Nếu thế, th́ ḿnh mở tiệm ăn bán cho người t́m vàng, cũng mau giàu mà đỡ nhọc nhằn hơn không?”

-“Đúng, đúng. Giá như anh ở thời đó, với ư tưởng nầy thôi, cũng đủ thành giàu có triệu phú rồi đó.”

-“Có ai phất lên thành giàu có nhờ cung ứng dịnh vụ cho người t́m vàng không?”

Ông cụ dài giọng:

-“Nhiều. Nhiều vô số. Kẻ đầu tiên là ông Sam Brannan, một lái buôn, thồi phồng chuyện có vàng ở Sacramento. Ông thu mua tất cả cuốc xẻng, búa ŕu, dĩa kim loại có thể dùng để đăi vàng. Rồi ông chạy khắp rong thành phố San Francisco, dong cao một b́nh vàng vụn, hô hoán ầm lên rằng, vàng đă t́m ra, tha hồ mà hốt. Thiên hạ ùn ùn đi mua cuốc xẻng, dĩa kim loại để đi đải vàng. Giá một cái dĩa kim loại trước đây vài xu thôi, mà chỉ trong hai ngày, tăng lên đến 15 đô la. Hơn tiền công lao động nửa tháng. Ông nầy đánh hơi được nhiều món hàng hoá cần thiết khác, mua đi bán lại cho dân t́m vàng, trở thành giàu nứt vách. Một quả trứng thôi, giá cũng 50 xu, bằng nửa ngày lương.

Một người tài công có thuyền phà chở khách sang sông trên đường ṃn từ Đông sang Tây, chém với giá cắt cổ, 16 đô la để đưa một con ḅ qua sông. Phà chở đầy, lím mạn, sợ lắm. Qua sông mà hồn viá lên mây, mọi người liên tục cầu nguyện. Sách vở ghi lại rằng, một mùa hè, một chiếc phà nầy có thể kiếm được đến 65 ngàn đô la. Không phải bịa, hoặc phóng đại đâu.

Ông Levi Strauss, vào năm 1853, biết dân đào vàng ngâm ḿnh dưới nước, lê lết trên đất đá, cọ xát nhiều. Ông nầy lấy vải bố dày, may thành quần bán cho dân đào vàng, rất được ưa chuộng v́ bền, chắc, tốt, và sau nầy thành nổi tiếng khắp thế giới với danh hiệu quần Jean Levis.

Ông John Stubaker chuyên đóng xe cút kít, đă mở xưởng sản xuất xe thùng bốn bánh, bán cho người t́m vàng, để băng đại lục, cũng trở nên giàu có, và sau nầy trở thành cơ xưởng sản xuất xe hơi nổi tiếng.

Hai ông Williams Fargo và Henry Wells thấy dân t́m vàng gặp nhiều khó khăn bất trắc trong việc tàng trữ và vận chuyển vàng và tiền bạc. Bị bọn bất lương cướp bóc, trộm cắp, và hại đến tính mạng nữa. Hai ông nầy nghĩ ra lối làm ăn lương thiện, chuyên chở an toàn, gởi tiền bạc bảo đảm, được uy tín cao. Họ chuyển luôn cả thư từ. Nhờ đó mà giàu có, trở thành ngân hàng nỗi tiếng Wells Fargo có khắp nước Mỹ ngày nay.”

Ngưng một chốc, ông cụ ho khan, rồi tợp ngụm rượu. Nói tiếp:

-“Không phải chỉ bọn con buôn thực tế kiếm ra tiền làm giàu, mà cả những văn nhân, thi sĩ cũng hốt được vô số tiền. Như ông Brett Harte chuyên viết về chuyện của những kẻ đi t́m vàng, về bọn cướp bóc vô lại, chuyện của các giới đĩ điếm. Sách bán chạy như tôm tươi, thu tiền vào như nước.

Có cả ngàn chuyện khác, như tiếu lâm mà có thực, những ngựi nầy đă nh́n ra các khía cạnh khác trong thế giới t́m vàng mà trở thành giàu có. Họ không hề đụng đến cái cuốc, cái xuổng, hoặc cong lưng, nhúng chân xuống nước đăi vàng.”

Tôi cầm bầu rượu, tu thêm mấy hớp. Đêm lạnh, chất rượu mạnh như đốt ấm thân thể. Ông cụ lại dạo đàn, tôi tiếp tục hát theo ông. Một lúc sau, bỗng ông cụ đặt đàn xuống, ôm mặt khóc hu hu, rồi nói:

-“Nghĩ đến đoạn đường bộ gian khổ đă đi qua, mà cầm ḷng không được, phải phát khóc. Tuổi già, trái tim thành mềm yếu như đàn bà, nên mau nước mắt.”

Cụ gạt nước mắt, và kể tiếp rằng, chính cụ đă khởi hành từ Philadelphia năm 1850, đi trên con đường ṃn từ miền Đông qua miền Tây dể t́m vàng. Tôi nghĩ rằng, có lẽ cụ say nên lẫn lộn. Nhưng chuyện của cụ mạch lạc và chính xác như những điều tôi đă biết qua sách vở. Cụ nói:

-“Ngày đó, từ miền Đông qua miền Tây chưa có đường sá, cầu công, đ̣ phà, quán xá, làng mạc. Tôi đă đi bộ hai ngàn dặm, trên con đường ṃn băng núi đá, đồi đất, bụi bờ, rừng cao, đèo sâu, sông suối. Nhiều sa mạc mênh mông, cháy bỏng, không nước, không cây cỏ.

Vào đầu tháng tư năm đó, tôi theo đoàn người t́m vàng ùn ùn từ Bắc xuống, gặp những đoàn khác từ hướng Nam đi lên từ nam lên. Chúng tôi đổ về thành phố Saint Louis của tiểu bang Missouri. Tôi chất lên tàu hơi nước đi trên sông Missouri nào là xe-g̣n, dụng cụ, hành lư, đủ thứ. Tàu đi về hường tây. Nhưng đi được hai trăm dặm, th́ phải xuống bộ, v́ không c̣n đường sông đi về hướng tây nữa. Các thành phố, các làng ven bờ sông, bùng lên ồn ào, đông đúc chật chội. Đường sá đầy người, la, lừa, ḅ, ngựa. Và tiếng thợ rèn đập búa đinh tai nhức óc từ sáng đến khuya, họ đang sửa bánh xe g̣n, bịt móng chân thú vật. Hàng ngàn trại vải được mọc lên trên các cánh đồng hoang ven làng. Hàng trăm tiệm bán hàng thành lập, để cung cấp các nhu cầu thiết yếu cho dân t́m vàng.

Phải đi trong mùa hè và Thu, v́ phải chờ cho cỏ mọc đủ lớn dọc đường, để làm thức ăn cho thú kéo xe. Đi sớm, th́ không đủ cỏ, và chết dọc đựng là chắc. Đi muộn, tuyết xuống, mùa đông không có cỏ, cũng chết. Để dự trù cho cuộc hành tŕnh dài trên sáu tháng đó, mỗi người phải đem theo tối thiểu là 200 cân Anh bột ḿ, 150 cân thịt heo ba rọi, 10 cân cà phê, 20 cân đựng và 10 cân muối. Như thế, cứ một gia đ́nh khoảng bốn người ra đi, th́ phải dem theo cả ngàn cân thực phẩm cho cuộc hành tŕnh 2000 dặm đi bộ chậm chạp gian khổ đó.”

Cụ già ho một tràng dài. Tôi ngồi im lặng một lúc. Sau đó tôi khơi lại câu chuyện:

-“Thế th́ người ta đi xe loại ǵ, và dùng thứ gia súc nào để kéo xe để có thể đi xa như vậy?”

Cụ nói:

-“Chúng tôi đi xe “g̣n” loại nhỏ, có mui trùm bằng vải quét sơn. Do ḅ kéo. Hai bánh sau to, hai bánh trước nhỏ, để dễ di chuyển, xoay xở. Chỉ có ḅ mới thích hợp với cuộc hành tŕnh ngàn dặm gian khổ như thế nầy mà thôi. Bởi v́ ḅ không cần cỏ tươi, tạp ăn, ngoan, dễ sai khiến, mạnh, có sức kéo lớn, có thể băng qua śnh lầy, qua bờ bụi, vượt sông, chịu được điền kiện khí hậu khắt khe. Hơn nữa giá ḅ không cao. C̣n ngựa, lừa, la, th́ không đủ sức để làm cuộc hành tŕnh gian khổ lâu dài như vậy.”

Tôi ngắt lời:

-“Thú vật c̣n không chịu được gian khổ, th́ con ngựi làm sao chịu nỗi?”

Cụ thở dài tiếp:

-“Bởi thế nên con người mới chết chóc dọc đường không biết cơ man nào mà kể. Khi ngày khởi hành thuận tiện, th́ từng đoàn xe nối đuôi nhau san sát. Có lẽ xa lộ kẹt xe ngày nay, c̣n khá hơn thời đó. Người ta tưởng như một thành phố xe ḅ di động từ đầu chân trời cho đến cuối chân trời, không dứt, từ ngày nầy qua ngày khác.

Khi ra đi, mang theo nhiều hành trang quá, xe nào cũng chất chật cứng, cao nghệu. Lại đèo thêm nhiều thùng nước trước và sau xe. Cho nên chỉ mới khởi hành được vài ba dặm, th́ người ta đă phải quăng bớt đồ đạc, thức ăn, cho nhẹ mà đi. Do đó, trên nhiều dặm đường, có la liệt ngổn ngang đồ đạc quăng bớt. Người trong các thành phố kế cận, nhặt được cả nhiều xe đầy nhóc bột ḿ, thịt nguội, và nhiều vật dụng linh tinh khác.

Tệ nhất là nhiều ngựi cả đời chưa hề biết đánh xe ḅ, xe ngựa bao giờ, nên điều khiển súc vật loạng quạng, thúc ngựa, ḅ đâm đầu vào cây, vào bờ bụi và lao xuống hố nữa. Phí của. Vỡ mộng làm giàu.

Xe nào cũng muốn tiến tới phía trước để bớt hít bụi mù do xe cuồn lên. Phải bịt mũi, miệng, đeo kính che mắt mà đi. Chiều xuống, khi cắm trại, t́nh trạng c̣n bết bát tệ hại hơn. Ai cũng dành chỗ tốt nghỉ ngơi. Chen chúc nhau cắm trại. V́ quá đông người, quá chật chội, nên t́nh trạng vệ sinh rất tồi tệ. Nhiều xe đào hố xí để giải quyết tiêu tiểu bên cạnh trại của đám khác. Gây bệnh tật, và chết chóc.

Nếu đi một hai ngày, có lẽ thấy vui, lăng mạn, chứ sáu bảy tháng như thế, th́ là một nỗi chán ngán ghê gớm. Phải có nghị lực, kiên nhẫn để chịu đựng. Nhưng viễn tượng hốt vàng vàng trước mắt, lôi kéo, cuốn hút, làm quên bớt nỗi gian nan.

Những xe đi trước, xài phí cỏ hoang cho súc vật ăn, làm các đoàn đi sau thiếu cỏ, phải đánh ḅ ra xa cả nhiều dặm đề t́m cỏ. Một thời gian sau, dọc đường ṃn không c̣n củi để đốt nấu ăn. Khó khăn lắm mới t́m ra củi. Mỗi chiều khi bắt đầu cắm trại, th́ phải đi gom cây lá vụn để nhóm lửa. Vất vả lắm, v́ ai cũng t́m củi như ḿnh. Rồi phải dùng phân ḅ khô mà nấu.

Làm bánh ḿ cũng không phải dễ. Khó mà không nhồi luôn côn trùng, bụi bặm vào bánh. Nướng bánh cho chín, là một việc đại khó khăn, bánh bên ngoài th́ cháy đen mà bên trong th́ c̣n sống nhảo nhẹt. Ăn bánh ḿ với thịt heo ba chỉ ngày nầy qua ngày khác, ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, cũng chỉ món đó, ăn mấy tháng dài liên tiếp, ngấy tận óc, mà phải nuốt, để có sức. Nhiều lúc không đủ củi đun, phải ăn thịt heo ba chỉ chưa nướng chín. Khi nào kiếm ra được con chim cút, hoặc thịt ḅ rừng là sung sướng hạnh phúc lắm.

Chỉ nghĩ lại thôi, cũng đủ khiếp đảm. Trầm ḿnh trong sa mạc nắng như đốt, nhiệt độ gần một trăm độ F, từ ngày nầy qua ngày kia, mồ hôi nhễ nhại, bụi bám đầy da thịt, ngứa ngáy, không được tắm rửa trong mấy tháng ṛng ră, không thay áo quần cả nhiều tháng. Hôi hám như súc vật chết. Đến nỗi người da đỏ không đám đến gần v́ mùi quá thúi. Họ cho rằng, người da trắng là môt chủng loại dă man, ăn ở thiếu vệ sinh, hôi hám. Khi bọn họ mắng nhau rằng “Mầy là đồ da trắng” th́ kẻ bị mắng, cảm thấy bị xúc phạm tột độ, nặng nề.

Khi đi, không ai nghĩ được nước là cần thiết nhất, v́ tưởng có thể lấy thêm dọc đường. Nhưng không phải vậy, v́ có những sa mạc mênh mông nóng như lửa, khô cằn, cho nên phải uống cả những thứ nước hư thối, đă biến vị, bởi vậy cho nên đau bụng, kiết lỵ, thổ tả, thành bệnh măn tính. Đă lao lực quá đô, yếu sức sẵn, và cứ bị một trận tiêu chảy, là có thể đi luôn. Nhiều người đang khoẻ mạnh, chỉ vài giờ sau là chết. Bệnh tiêu chảy giết chết bọn chúng tôi nhiều nhất. Những năm thời tiết xấu, có đoàn chết mất hai phần ba nhân số.

Tất cả đều phải đi bộ, rất hiếm người được ngồi trên xe. Đi ṛng ră nhiều tháng dài, dưới nắng, mưa, gió bụi. Đi cho ră chân ra. Xe ḅ cứ từ từ mà đi. Nếu có ai mệt quá, ngă quỵ bất thần vào bánh xe, th́ cũng không thắng kịp. Xe cán càn lên, và chết là chắc. Có kẻ bị cán nát đầu kêu rôm rốp, thật khiếp.

Nhiều người bị sấm sét đánh chết, cháy xém, nhiều người bị thương la liệt v́ những cơn mưa đá hạt to bằng trái cam từ trời cao ném xuống. Mưa gió quật ướt loi ngoi, lạnh lẽo, v́ không nơi trú ẩn khi qua đồng trống. Trong xe cũng bị dột, thấm, làm hư hỏng thức ăn, đồ đạc.

Dọc con đường ṃn, rải rác phơi xương, sọ người và cả phần tay chân lổn ngổn, có khi thấy đầu lâu tóc c̣n cài cây lược. Đó là phần c̣n lại của những người chết, được vùi nông, vùi qua loa để kẻ c̣n sống tiếp tục lên đường. V́ huyệt cạn, nên thú rừng đào bới, ăn xác chết. Có kẻ đau yếu, chưa chết, cũng đem chôn luôn, và có khi bỏ lại bên vệ đựng, v́ thế nào họ cũng chết. Không thể ngồi lại mà khóc than. Không c̣n sức để chờ, để đào cái hố đủ sâu, v́ kẻ chết, thế nào cũng chết, kẻ sống, phải lo giữ mạng sống, không có th́ giờ đề khóc lóc, để uỷ mị, để chần chờ. Có lần, tôi được cắt cử ở lại để chờ người bạn bị bệnh chết, trong khi chờ đợi, tôi đào huyệt sẵn để tiết kiệm thời giờ, chôn xong th́ vội vă chạy theo đoàn.

Mỗi ngày, phải thức dậy khi trời c̣n tối om, để ăn sáng, quàng ách súc vật, chuẩn bị lên đường khi tờ mờ. Đi, đi măi, buổi trưa tạm dừng lại chừng một giờ để ăn trưa, nghỉ ngơi, rồi tiếp tục cho đến khoảng sáu giờ chiều, th́ dừng lại cắm trại. Đậu xe đậu ṿng quanh để dồn gia súc vào giữa. Không phải v́ sợ dân Da Đỏ tấn công.

Ṛng ră trong sáu tháng, năm giờ sáng là phải thức dậy lên đường, đi mười giờ liên tiếp, cực nhọc lắm mà mỗi ngày đi chỉ được chừng 15 dặm thôi. Nhiều đoạn đựng rất dài, hoàn toàn khô khan, không có nước, người ta đă khát cháy họng, lưỡi xám x́, khô ḍn áo quần, thân thể, có kẻ đă lăn đùng ra chết khô.

Nhiều kẻ bán-buôn đánh hơi được, cho xe chở nước đi ngược đường ṃn, đón đoàn người đi t́m vàng đang khát cháy cổ, và lên cơn sốt v́ thiếu nước. Họ bán một ly nước 1 đô, hoặc 10 đô, có khi lên đến 100 đô nữa. Cũng phải mua mà uống để sống c̣n, để hy vọng đến California t́m vàng. Những kẻ hết tiền, đành chịu chết khát dọc đựng.

Không phải chỉ nước mới đắt. Bột ḿ khi ra đi, mua một thùng tô-nô (khoảng 200 lít) giá chỉ 4 đồng, mà trên đường đi, giá tăng lên 1 đồng một lon sửa ḅ nhỏ. Thứ ǵ cũng đắt khủng khiếp. Một lon đường 1.50 đô, lon cà phê 1 đô.”

Nghe ông cụ kể đoạn đường gian khổ băng qua nước Mỹ mà tôi ớn lạnh, nghẹt thở. Tôi van ông:

-“Thôi, thôi ông anh ơi, đừng kể nữa, nghe mà ớn quá. Th́ ra, California nầy được xây dựng bằng mồ hôi, xương, máu, thịt, của tiền nhân đi t́m vàng. Chúng tôi từ xa xôi đến đây, hưởng dụng các phương tiện có sẵn, do công khó nhọc nhằn của những người đi trước. Không là bà con, gịng họ, tổ tiên, mà nước Mỹ đă mở rộng ṿng tay bao dung đón chúng tôi. Trong khi người anh em cùng tổ tiên miền Bắc th́ truy sát, đày đọa, ruồng rẫy, áp bức, khắc nghiệt. Biết thế, th́ tôi khoan về hưu đă, đem hết sức tàn của ḿnh ra làm việc, phụng sự, để đền đáp phần nào ân nghĩa bao la nầy.”

Ông cụ đưa b́nh rượu cho tôi bảo uống thêm đi. Ông nói:

-“Đừng suy nghĩ ǵ cả. Ở xứ nầy mà anh không gian lận thuế, th́ cũng đă là trả lại phần nào ân nghĩa cho xứ sở rồi.”

Sau vài hớp rượu, tôi lại ṭ ṃ hỏi thêm:

-“Đi băng qua nước Mỹ, các ông không sợ bị dân Da Đỏ tấn công sao? Hồi nhỏ xem chiếu bóng, thấy dân Da Đỏ hay giết hại người vô tội. Mỗi khi thấy Da Đỏ bị đánh bật lui, th́ bọn con nít chúng tôi vỗ tay reo mừng hớn hở. Phim cao bồi cho chúng tôi có cảm tưởng người Da Đỏ tàn ác, dă man, khát máu.”

Ông cụ nổi giận, to tiếng:

-“Bậy bạ. Các anh không hiểu ǵ cả. Đúng là khi ra đi, chúng tôi rất ngại bị người Da Đỏ tấn công. Nhưng trái lại, dân Da Đỏ rất tốt, giúp đỡ tận t́nh khi người t́m vàng có tai họa. Họ giúp kéo xe sa lầy ra khỏi vũng bùn, cứu người chết đuối, lùa súc vật chạy lạc. Giao thiệp giữa Da Trắng và Da Đỏ rất thuận thảo. Họ trao đổi thuốc lá, súng đạn, áo quần, để lấy thức ăn hoặc ngựa.

Và chính ngựi Da Trắng tấn công và giết chóc người Da Đỏ trưóc. Vào năm 1854, môt con ḅ của đoàn người đi lạc vào một bộ lạc Siuox, họ không biết, bắt giết và ăn thịt. Bọn t́m vàng đến báo cáo với Trung Úy Grattan đóng ở đồn Laramie gần đó. Ông nầy đem theo 28 binh sĩ đế để trừng phạt Da Đỏ. Người Da Đỏ biết lỗi, v́ tưởng lầm ḅ hoang, xin lỗi, và đề nghị đền lại bằng một con ngựa, giá cũng đă có lời cho bọn Da Trắng. Nhưng trung Uư Grattan không chịu, ra lệnh bắn giết dân Da Đỏ. Vị Trưởng Tộc Da Đỏ ra lệnh đừng đánh lại, và nói rằng khi đă trả thù xong, th́ bọn lính sẽ bỏ đi. Nhưng trung Uư Grattan tiếp tục bắn, giết chết vị Trưởng Tộc. Dân Da Đỏ phải chống cự lại, bắn nhau, kết quả có 21 trong 29 người lính đến trừng phạt bị giết chết.

Chiến tranh bùng nổ từ đó. Kéo dài trong mấy chục năm sau. Chỉ v́ một con ḅ lạc, sự lầm lẫn của thổ dân, và sự tàn ác của trung uư Grattan, mà biết bao nhiên ngựi vô tội mất mạng. Có nhiều cuộc tàn sát ngựi Da Đỏ xảy ra trong những năm sau đó. Cuối cùng, người Da Đỏ hết chịu nỗi, phải vùng dậy chiến đấu quyết liệt hơn để sống c̣n.

Cũng chỉ trong vài năm đầu, những đoàn viễn hành đă tàn phá cả đồng cỏ, đốt hết cây củi trên đựng đi, và tận diệt lũ ḅ rừng. Đến nỗi, trên vùng thảo nguyên dài hai trăm dặm, dọc đựng ṃn, ngổn ngang xương ḅ rừng, thịt ḅ rừng hư thối. Nh́n vào thật bất măn. Làm cho nhiều bộ lạc Da Đỏ lâm vào cảnh thiếu thức ăn, đói khó.

“Đó, lỗi ở bọn Da Trắng chúng tôi.”

Mệt, say, và trong ḷng buồn quá, tôi đứng dậy, cáo từ, xin ra về. Ông cụ nắm áo tôi kéo lại, nói:

-“Khoan đă. Bầu rượu chưa cạn. Dễ chi trong đời anh có được mấy đêm vui như hôm nay. Ngồi xuống đây đă nào.”

Nghe ông cụ nói thế, tôi lại hừng chí lên, và ngồi xuống, cầm cây đàn của ông mà đánh tưng tưng, lắc lư gào to, hát lời vu vơ. Ông cụ cũng vổ tay làm nhịp, và hát theo đuôi. Đêm vắng phố nhỏ tịch mịch, lời hát của chúng tôi vang vang rất rơ ràng. Hát khan cả cổ, tôi cầm bầu rượu mà tu liên tiếp mấy hơi. Tôi hỏi:

-“Ông anh có c̣n sức để kể tiếp câu chuyện t́m vàng không?”

Ông cụ tằng hắng, và nói:

-“Tôi đến California vào năm 1850 th́ vàng khơi khơi trên mặt đất đă cạn kiệt. Cách đăi vàng bằng tay không c̣n hiệu quả nữa v́ vàng hiếm hoi, người ta phải dùng kỹ thuật tân tiến hơn mới khai thác được. Phải có nhiều người, cùng lập thành tổ hợp. Đắp đập, ngăn sông, chuyển gịng nước để t́m vàng dưới đáy sông. Đào sạt núi, sập đồi. Rồi cũng hết vàng. Họ không đủ tiền để đầu tư lớn.

Những công ty lớn có đủ kỹ thuật và dụng cụ khai thác vàng vô cùng hữu hiệu, họ dùng kỹ thuật ṿi xịt nước vào sườn đồi, sườn núi. Ṿi xịt mạnh đến có thể giết chết ngựi đứng cách xa chừng 30 thước tây. Kỹ thuật dùng ṿi xịt nước tàn phá thiên nhiên rất khủng khiếp. Sông ng̣i, núi đồi California biến h́nh, thay dạng, không c̣n chút ǵ h́nh thể của thời xưa. Phải mất ba mươi năm sau mới có đạo luật cấm sử dụng kỹ thuật xịt ṿi nước xói đất t́m vàng. Bí lối, chúng tôi chỉ c̣n con đường duy nhất là đi làm cu-li cho các công ty lớn đó.

Cái không khí thân thiện nồng nàn t́nh bằng hữu và rộng răi ban đầu mất dần, thay vào là cáu kỉnh, dữ dằn với nhau. Vỡ mộng làm giàu và thất vọng, người ta đâm ra cờ bạc, phóng túng. Đánh bài may ra có thể gặp vận hên, vớ được một mẽ lớn mà không phải cực nhọc, ngâm ḿnh lặn lội bờ sông. Nhưng kinh nghiệm xưa nay, chẳng có ai v́ hoàn cảnh tuyệt vọng, dùng con đựng bài bạc để giải quyết khó khăn, mà không lún sâu vào vũng lầy của nợ nần, lừa gạt, cướp bóc, và có khi đưa đến tự tử nữa. Cướp bóc bị tù tội, bị treo cổ. Một tử tội viết lời nhắn lại cho kẻ t́m vàng rằng:

-“Nhân dịp nầy, tôi muốn viết đôi hàng cho những người hy vọng t́m ra vàng để trở thàng giàu có rằng: Tôi và bạn Charley của tôi, bị kết án treo cổ vào 5 giờ chiều nay v́ tội cướp…”

Hai tay ông cụ bưng mặt, im lặng một lúc, cụ tiếp lời:

-“Tôi cũng là một trong những người vỡ mộng, ra đi th́ hứa hẹn với vợ con đủ điều. Đến đây, cố gắng hết sức, làm việc không ngơi nghỉ, không kể ngày đêm, không ngại cực nhọc. Mỗi ngày hơn mười tiếng đồng hồ, gập cong người trên gịng nước, nắng như lửa đốt trên lưng, lạnh cóng tay, cóng chân, dầm ḿnh trong sông buốt giá. Cực nhọc mấy năm dài mà không nên cơm cháo ǵ, càng ngày nợ nần càng thêm chồng chất. Nhưng rồi tự bảo, cứ nấn ná thêm một thời gian nữa, không chừng sẽ gặp vận may. Và cứ nấn ná măi, kéo dài thêm thởi gian, cho đến khi quá lâu, không thể quay trở về quê quán với hai bàn tay không và thêm một số nợ nần chưa trả nổi. Tôi không dám liên lạc với gia đ́nh nữa, và ở lại luôn nơi đây. Làm việc vất vả, cũng chỉ là vắt mũi bỏ miệng. Rồi chết trong nghèo khó và bệnh hoạn vào năm 1875, khi vừa đúng 50 tuổi.”

Nói đến đây, ông cụ ôm mặt khóc hu hu. Tôi nghĩ ông cụ say, nên nói sảng. Tôi dỗ dành, bảo đừng khóc nữa, v́ ông c̣n sống, và tôi cũng c̣n sống, c̣n biết uống rượu, ca hát. Tôi rút khăn giấy chậm nước mắt cho cụ, và dúi cây đàn vào tay ông, bảo ông hát cho quên buồn. Ông lại gảy đàn, tiếng đàn vang vọng rầu rĩ giữa đêm khuya. Rồi chúng tôi hát lớn như hai gă điên trong tiếng đàn đệm, tiếng vỗ thùng đàn rầm rầm. Mùi rượu nồng nàn toả ra từ hai cái miệng đang gào hát.

Sau một hồi ca hát vu vơ, ông cụ và tôi uống cạn không c̣n một giọt cái bầu rượu bằng da mà ông đeo bên hông. Ông cụ móc trong bao da ra một viên sạn nhỏ màu vàng lờ mờ, và bảo tôi:

-“Giữ hạt vàng nầy làm kỷ niệm buổi sơ giao. Hẹn gặp nhau bên kia thế giới”

Tôi lúng túng v́ không có món quà nào trao đổi, bèn kéo chiếc nhẫn khoen vàng từ ngón tay ra, dúi cho ông cụ và nói nhỏ:

-“Cũng để làm kỷ niệm”

Trăng tàn, trời lạnh buốt, xa xa vẳng tiếng gà gáy. Ông cụ đứng dậy, phủi mông, vác đàn lên vai, và không biết từ đâu, một con ngựa lửng thửng đi đến. Ông không bắt tay từ giả, nhảy lên ngựa rồi thong thả đi về hướng xa lộ. Tiếng vó ngựa lóc cóc gơ trên đường nghe mồn một. Bóng ông mờ dần, khuất trong đêm. Tôi thấy hoa mắt, chóng mặt, đau thắt trong bụng, tay chân tê cóng, và gục xuống bất tỉnh nằm dài trên đường.

Sau nầy tôi được cho biết rằng, buổi sáng cảnh sát t́m thấy tôi nằm gục bên hè đường trước viện bảo tàng vàng. Tim đă ngừng đập, được đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sống lại.

Nằm bệnh viện hai hôm, tôi thấy sức khỏe gần như đă hoàn toàn hồi phục, được xuất viện vào khoảng gần trưa. Tôi đi t́m xe và phân vân không biết có nên đi tiếp hay tạm quay về. Khi tôi đến nơi đậu xe, th́ thấy người ta đang định câu xe của tôi đi, v́ đậu quá lâu ngoài đường, nơi phố chính. Trên kiếng xe, có nhiều giấy phạt chồng chất lên nhau. Tôi vội vă ngăn cản người câu xe. Cho ông biết, tôi bị tai nạn vừa ra khỏi bệnh viện. Tôi kể sơ cho ông nghe câu chuyện đêm trước, ông trợn tṛn mắt và nói:

-“Anh đă gặp con “Ma-T́m-Vàng” đấy. May mắn lắm mới không đi đong cái mạng cùi”.

Tôi cười mỉa mai, và leo lên xe mở máy chạy ra hướng xa lộ. Khi đến công viên có bức tượng của người đang đăi vàng bằng đồng, bên con ngựa, tôi giật ḿnh thắng xe dừng lại, thấy h́nh tượng nầy có nét hao hao giống với cụ già mà tôi đă cùng hát và uống rượu đêm hôm trước. Tấp xe vào lề đường, tôi đi thẳng đến gần sát bên tượng. Trán đổ mồ hôi khi tay tôi đụng vào đáy túi quần. Có cái ǵ cồm cộm. Tôi lôi ra một viên vàng cốm bằng nửa hạt đậu, lóng lánh phản chiếu ánh nắng.

Tôi sực nhớ viên vàng mà cụ già trao cho làm kỷ niệm. Thế mà tôi cứ tưởng nhậu say, làm tôi thấy ảo giác. Tôi giật ḿnh, ớn lạnh nh́n vào cái dĩa đăi vàng của bức tượng, thấy có chiếc khâu nhẫn vàng. Tôi cầm lên, nh́n vào mặt trong của cái khâu, có chữ khắc tên tôi rất rơ ràng. Tôi nh́n kỹ hơn vào bức tượng, đúng là khuôn mặt, dáng điệu của ông cụ đă cùng tôi ca hát. Hốt hoảng, tôi ném trả lại viên vàng vụn vào cái dĩa đăi vàng của bức tượng, một tiếng ‘keng’ vang vọng. Tôi chạy mau ra xe, mở máy vọt đi thật mau. Cố quên đi những ǵ đă xảy ra hai hôm vừa qua. Nhưng trong tai tôi, như c̣n nghe mồn một các bài hát của cụ già. Tôi nghĩ rằng, chắc tôi chớm bệnh thần kinh, thấy ảo giác, chứ bây giờ là thế kỷ 21 rồi, làm chi mà có ma quỷ./.

Tràm Cà Mau

 

 

 


VĂN CHƯƠNG

2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013 
2012

Truyện Ngắn

Hồi ức - Một thời chinh chiến 
No Easy Day - Ngày Vất Vả


Nụ cười đầu năm  
Luận về nghệ thuật lănh đạo  
Lá cờ vàng ba sọc đỏ 
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953  
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve  
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH  
CSVN hứa hẹn nhân quyền... 
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC  
Bài viết hay về nước Mỹ  
Đại Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp 33  
Chuyện "THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài thánh ca buồn  
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"  
Mùi áo lính  
Ngàn đời nhớ anh  
Kư ức vùng Hỏa Tuyến  
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi  
Mầy c̣n nhớ không?  
Tiếng Việt ḿnh ngộ quá!  
Về thăm cố hương  
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của Hamas 
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế  
Con người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang  
Sau khi chết, chúng ta về đâu?  
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến cuộc VN
Phút cuối Tân Lâm  
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù  
Người Nhật/Người Lào & Người Việt  
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh  
Sự thật về lực lượng Hamas  
Người việt nam hèn hạ  
Giết cho đủ chỉ tiêu!  
Một nét chữ, một đời người 
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày bẩn  
Lần đầu nhập trận  
Nói tiếng Anh kiểu này...

Những món nợ phải trả  
Cờ Vàng 3 sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt  
Hồng nhan  
Cô Lành về Quảng Nam 
Những người 50-80 tuổi nên đọc  
Những mùa Trung Thu  
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ 
Mỹ vào VN ‘lần hai’ và các bài học cho hôm nay  
Việt kiều mới ở xứ người  
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH  
QLVNCH  1968 - 1975 
Hỏng rồi tiếng nước tôi!  
Dốt hay nói chữ
Tiến tŕnh bầu cử tại Hoa Kỳ  
Những ngày tháng cũ  
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa qua đời 
Thảo tím  
Lại nước mắm  
Ngu như lợn  
Long Tân Day  
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam  
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương  
Gửi trứng cho ác  
Hoàng Ngọ 
Số phận nào cho kẻ thua trận?  
Nghệ thuật chôn sống 
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972  
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..  
Trường xưa

Đường chiến binh  
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...  
Giấc mộnh kinh hoàng  
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng  
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN 
Đêm truy điệu  
Bà già Ba Tri  
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt  
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ 
Thương tiếc một bác sĩ quân y  
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne, Úc,,, 
Câu Chuyện Về Jacky Ly  
Nhớ lại một ngày vui  
Người ta đi lính mang lon  
Đắng cay của một người tù  
Để thấy thương vợ nhà hơn  
Cuối cuộc hành tŕnh 
Áo học tṛ và áo trận
Câu chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền, giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?  
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!  
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới biết ai là bạn...! 
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh Danh..  
Nhật Bản trong tôi
 
Tôi viết cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"  
50th Anniversary of the Vietnam War
 
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN  
Bản án tử h́nh
Ḍng sông, ḍng đời  
Một thành phố mất tên  
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng  
Tuẫn tiết 
Những kẻ xa quê
Hồi đó tụi mày ở đâu?  
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975  
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú  
Ca hát với ma 
Gă bất cần 
Những thống khổ bi hùng  
Những h́nh ảnh không in ra được  
Thầy đồ 
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công  
40 năm t́m bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!  
Trường Sa tháng 4 năm 1975  
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”  
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975  
Người lính năm xưa  
Tướng VNCH tù trên 17 năm  
Hai lá thư 
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù 
Huynh đệ chi binh
An Dương  
H́nh ảnh một buổi chiều  
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!  
Nhà già... chào mi!  
Tôi là người nước nào?  
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố  
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng  
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao  
Trên đồi gió  
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ  
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ  
Đồi xưa, núi cũ  
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu  
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA  
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng  
Chặng đường quê hương  
Máu đào nước lă  
Những quả ổi cuối mùa  
Đời đi dạy tại Canada  
Tiếng Việt Sài G̣n cũ  
Tác giả 'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay giận thớt chém cá ?  
Chế Lan Viên Gato!  
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết  
Để tang cho sách  
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại  
Mẹ Việt Nam 
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi  
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...  
Trầm Tử Thiện - Người chép sử lư vong...  
Mâu thuẫn quân sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN  
Tử sĩ Hoàng Sa  
Hương vị ngày xuân  
Nhớ lại cái tết năm xưa  
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba que”
Mùa xuân hạnh ngộ
Sài G̣n của tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh  
Xuân về, nhớ Quê Hương  
Đời đi dạy  
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...  
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém 
Khi vợ vắng nhà  
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc  
Thạch Lam  
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng  
Tâm sự của một Việt kiều
Gánh hoàng hoa  
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng  
Hồi c vngười Cha btù  
Tiếng Anh dm!  
Nằm chơi  
Chứng nhân một sự kiện lịch sử  
Ngộ đạo đất trời  
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ  
Ông già đạp xích lô  
Chuộc lương tâm  
Đất nước lạ lùng  
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn  
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...  
Sài G̣n của tôi sẽ trở lại…  
Ông già bán trứng  
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân  
Câu chuyện ngày xưa  
Chiếc Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa  
Nén hương ḷng  
Đám Cưới …chi lạ  
Bông lúa cúi đầu  
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN  
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!  
Nhiễm Virus Corona 2019 
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...  
Xao ḷng bởi một từ "Em"  
Hiệp định Genève (20-7-1954)  
Mơ ước b́nh thường  
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp  
Viết cho người sắp ra đi...  
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia ?  
Môt chuyến đi Hawaii  
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại Little Saigon

Cái miệng  
Phá thai là giết người 
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa  
Những người năm cũ 
Ngày tự phụ  
Màu mắt hoàng hôn  
Paris có ǵ lạ không em?  
Không quên người chiến sĩ QLVNCH  
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân  
Nước mắt giữa Trùng Dương 
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông 
Người tù kiệt xuất  
Câu chuyện về một lá thư  
Ra biển gọi thầm 
Nỗi buồn ngày 30 tháng tư  
Tháng Tư....  
Bài ca của người du tử  
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ  
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975  
Hai người lính Dù  
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975 
Xe tăng Nga làm được ǵ ?

Giă từ vũ khí  
Giờ phút cuối cùng  
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...  
Những tấm chân t́nh 
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử 
Hải quân Ukraine chiến đấu  
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng  
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt  
Kư hiệu học và "lơ là lơ láo"  
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số  
Thu, hát cho người và giai thoại  
Thương về Ukraine  
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022  
Đời lính  
Vinh quang trên chiến hào  
Sự thành công của người Việt tị nạn  
Một chuyến công tác Cam Ranh  
Lá đại kỳ An Lộc  
Chém chết một người là kẻ sát nhân  
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100  
Sứ mệnh văn hóa  
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN  
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào  
Xuân Sang- Xuân Sến 
Năm Cọp nói chuyện… Bia 
Đêm xuân trên vùng biển chết 
Thương chùm Hoa Khế  
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca khúc "gái xuân"  
Thức tỉnh  
Tử sĩ Hoàng Sa  
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa  
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam  
26 truyện thật ngắn  
Tuổi già viễn xứ  
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”  
Chiến dịch B́nh Tây  
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng  
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam  
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH  
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu nhất
Lạc giữa mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”