Tập Truyện Thuyền Đời
Passage to Freedom
Thuyền Đời - Đêm vẫn đen Audio
Đất nước tôi!
C̣n nhớ mùa xuân
Tết
Thuyền Đời - Cuộc đời Audio
Thuyền Đời -
Con thuyền Audio
Thuyền Đời - Xuân quê hương Audio
Ḍng sông quê hương - Ḍng Cửu Long
Ngày oan trái! -
Audio
Đất nước tôi -
Audio
Khi người tù trở về
Tiếng trống Mê Linh -
Audio
Chuyện cuối năm -
Audio
Màu áo cũ -
Audio
Mang theo quê hương
-
Audio
Trong
âm thầm c̣n nhớ ai! -
Audio
Sài G̣n là đây sao em!
- Audio
Chuyện trăm năm -
Trên quê hương
-
Audio
Chuyện
trăm năm - Một ngày -
Audio
Trăm đắng ngh́n cay -
Audio
Chiếc áo Bà Ba -
Audio
Giữa đồng xưa -
Audio
Áo trắng -
Audio
Gửi nơi cuối trời -
Audio
C̣n nhớ mùa xuân -
Audio
Từ một chuyến đ̣ -
Audio
Dêm thánh vô cùng
-
Audio
Khi mùa đông về -
Audio
Noel năm nào -
Audio
Khúc quân hành -
Audio
Cho ngàn sau -
Audio
Ngh́n trùng xa cách
-
Audio
Rồi
lá thay màu -
Audio
Con chim
biển 3 - T́m về tổ ấm -
Audio
Con
chim biển 2 - Trên biển khơi -
Audio
Con chim biển 1 - Tung cánh chim
-
Audio
Đốt sách ! -
Audio
Đi học
Sài G̣n
-
Audio
Thầy Chín - Audio
Đi buôn - Audio
Khi tôi về -
Audio
Làng tôi -
Audio
Sao em không đến
-
Audio
Anh đi! -
Audio
Vỉa hè đồng khởi
-
Audio
Ngày đại tang
Chuyện mất chuyện c̣n
Con chim Hoàng Yến
-
Audio
Nhớ cả trời Việt Nam
C̣n thương quê hương
tôi
Tôi muốn mời em về
Chuyện Tết
C̣n nhớ không em?
Trên đồi Tăng Nhơn Phú
-
Audio
Remember!
Cánh chim non -
Audio
Đốt sách
Buổi tựu trường
Đêm trắng
Nước mắt trong cơn mưa
Trăm đắng ngh́n cay
Con đường
tôi về
Hăy c̣n đó
niềm tin
Chiều ra biển
Những đứa con đẽ muộn
Một thời kỷ niệm
Băi tập
Bước chân Việt Nam
Người lính già
Để nhớ
Đi buôn
Ngày anh đi
Kỷ niệm xưa
Rồi tết lại đến
Bài thánh ca buồn
Tears of pride
We remember
Vui - Buồn … Ngày
hội ngộ 44 năm khoá 8B+C/72
Mùa hè đỏ lửa
Dư âm ngày hội ngộ
44 năm tại California
Có chuyến bay
Lời ca
Quỳnh Hương diển tích
Để nhớ để
quên
Cờ ḿnh!
Khắc chữ Tự Do
Mai cai hạ
Củ khoai ḿ
Khinh Binh 344
Tết
( Tượng Chúa Hài Đồng Ban Nhiều Ơn Lạ ) -- Trần Quốc Bảo --
Để chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà Rosalynn Carter, -
phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, - vào đầu tháng 11 năm 1979, Bộ Ngoại
Giao và An Ninh Mỹ đă phải âm thầm hoạt động trước nhiều tháng trời.
Mục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn Carter muốn đích
thân quan sát t́m hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên đất
Thái Lan, điều mà báo chí và các hăng thông tấn, truyền h́nh... đă
nhiều lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do Cộng
sản gây ra cho lịch sử nhân loại vào thời bấy giờ.
Chắc chắn ông Carter, vị Tổng Thống mà nụ cười luôn luôn đậu trên
môi, một lúc nào đó đă phải chau mày, suy tư về thảm họa kinh hoàng
của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại tị nạn Đông Nam Á.
Không một bản tường thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những
nhận xét của chính vợ ông, bà Rosalynn.
Vậy nên nhiệm vụ của 14 người trong “Phái đoàn tiền sát” được cử qua
Thái Lan đầu tháng 10-1979 thực là quan trọng. Phái đoàn sẽ đến Thái
Lan như những người du lịch, sẽ t́m hiểu và ghi nhận trước tất cả
mọi khía cạnh của vấn đề; một bản phúc tŕnh tỉ mỉ về tị nạn sẽ được
thiết lập với những nhận xét và đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới
thăm của bà Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ chỉ là duyệt lại các điều mà
bà đă biết từ trước.
Riêng tôi, một trong 14 nhân viên của phái đoàn tiền sát, tôi hoàn
toàn không hay biết mảy may ǵ về mục tiêu, mục đích của cuộc ra đi
này. Tôi lại cũng mù tịt về mọi lănh vực ngoại giao và an ninh của
Mỹ. Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều mà chính tôi cũng
phải ngạc nhiên. Trong 14 người, th́ 11 là Mỹ chính hiệu “con nai
trắng”, c̣n 3 ngoại kiều là một cô Cam-bốt, một giáo sư Thái Lan và
tôi là Việt Nam.
Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất tếu. Tôi có anh bạn trong
“Hội Nhà Thờ Bảo Trợ”, tên John, anh này là cựu sĩ quan, trước từng
ở Việt Nam hai năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi. Ngẫu nhiên nay gặp
lại nhau, anh rất khoái tôi. Thường thường tụi tôi có các buổi họp
mặt weekend là có John. Anh ta cũng ngồi xếp bằng tṛn quanh mâm
nhậu, bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các
tay tổ trong băng độc thân vậy. John nói được một ít tiếng Việt, ăn
được nước mắm, khoái món phở tái, chả gị ... và đôi khi chúng tôi
nhậu khan với nhau bằng khô mực nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô
nhai khô mực ra rít lắm.
Bởi cái chỗ thân t́nh ấy nên tụi tôi coi John như một người bạn chí
thiết. Một lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi, ngoài tiếng Mỹ có
ai biết nói tiếng Lào không? Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra
một tràng tiếng Lào líu lo líu lường... làm cho cả bọn cười ḅ. Thật
t́nh, tôi có học được một ít tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ
Lào, lâu không nói th́ nay cũng đă quên nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi
th́ được, chớ c̣n phiên dịch thông ngôn th́ không nổi.
Thế mà nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời lên Văn pḥng Ngoại
giao. Người tiếp tôi chính là John. Anh ta nói muốn dành cho tôi cơ
hội để về thăm miền Đông Nam Á trong nhiệm vụ tiền sát như đă nói
trên. Tôi thú thật với John tôi quá kém về Lào ngữ. Nhưng anh ta
trấn tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi
sẽ giúp tôi, và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch
tiếng Việt nữa.
Chúng tôi đă đến Thái Lan như những du khách, và đă nhờ Hồng Thập Tự
địa phương đưa đến các trại Tạm cư Tị nạn. Hai trại lớn mà chúng tôi
đă ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc cách Bangkok trên
300 dặm) hiện khi đó có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-kaeo
nằm trên quốc lộ số 8 cách Bangkok 650 dặm về phía Đông, chứa tới
200 ngàn dân Căm-bốt tị nạn.
Có ai tưởng tượng được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại tạm
cư thôi mà con số những người tị nạn Căm-bốt đă lớn lao đến thế
không? Hàng trăm ngàn người đó đang sống vô cùng thiếu thốn, đói khổ
và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng cây, những lều lá xiêu vẹo mà
họ gọi là cái nhà. Thiếu thực phẩm, thuốc men, quần áo. – Một vài
h́nh ảnh khiến ta có thể tưởng như lớp người đó đang sống ở thời
thượng cổ, thời đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở lỗ. Sau này khi
bà Rosalynn Carter đến viếng thăm đă phải thốt lên: “Thật quả là thê
thảm, những cảnh tượng này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đă làm
cho tôi xúc động kinh hoàng.” (“It’s like nothing I ‘ve ever seen,
it’s emotionally overwhelming”).
Nếu muốn viết về chuyến đi Thái Lan của tôi th́ sẽ có một chuyện
dài, nhưng tôi không thể đưa lên báo bản phúc tŕnh chỉ dành riêng
cho vị Đệ Nhất Phu Nhân đọc. Ở đây, tôi muốn kể lại một câu chuyện
nhỏ- một kỷ niệm mà măi măi tôi không thể quên.
Buổi chiều hôm đó, sau những giờ đă làm việc khá mệt mỏi, chúng tôi
chia nhau bánh ḿ và thịt hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái Căm-bốt
trong phái đoàn) gọi tôi:
- Anh có muốn đi coi “Ông Thần Con Nít” không?
Tôi vừa nhai bánh vừa cười, hỏi đùa:
- Có Ông Thần Con Nít hả? Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần Bế-by ấy
tới đây, tụi ḿnh chụp h́nh phỏng vấn, chớ đi nữa th́... mệt quá
rồi.
Saleng nghiêm sắc mặt:
- Anh chớ nói dỡn, Thần Con Nít thiêng lắm, Thần đă cứu nhiều người
ta và đă đưa họ đến đây tị nạn.
Tôi hỏi một hơi:
- Sao cô biết? Thần con nít là Ông Thần ǵ ? ở Đâu? Cứu ai? Chuyện
đầu đuôi ra sao?
Saleng liếc xéo tôi:
- Bộ anh muốn ghi vô biên bản phúc tŕnh hả? Muốn biết th́ đi! Đi
tôi dẫn tới cho coi.
Tôi uống cạn ly cà phê rồi ngoắc John cùng đi theo. Chúng tôi lên
một ngọn đồi nhỏ, chung quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở chen chúc
dưới các lùm cây tàng lá. Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước mắt
trong suốt mấy ngày nay đă làm chúng tôi nh́n quen rồi. Các em nhỏ,
phần lớn là ở trần truồng, gầy g̣, xanh xao và bệnh hoạn. Các ông
già bà cả ngồi trầm lặng như những pho tượng. Nhiều cặp mắt lo âu
nh́n về phía chúng tôi, không biết họ đang nghĩ ǵ. Nhưng có điều
chắc chắn là nếu ai bảo họ trở lại với quê hương Cộng sản của họ th́
họ lắc đầu cương quyết phản đối ngay.
Saleng dừng lại ở đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất – trên
một tảng đá, tôi thấy có bầy biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây
nhang, có một cặp nến đỏ và mảnh vải trắng viết chữ Miên chằng chịt
như một đạo bùa.
Một bầy trẻ con chừng 20 đứa ốm o đang cầu kinh và ca hát chung
quanh. Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại gần đứng nh́n. Đến gần
bàn thờ, tôi và John đă ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà
Saleng đặt tên cho, chính là tượng “Chúa Hài Đồng nằm trong máng
cỏ”. Tượng bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị bể
nên bàn chân Chúa mất một nửa.
Rất tự nhiên, John và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé trần
truồng. Chúng tôi làm dấu Thánh Giá. John hát lên một bài ca Sinh
Nhật bằng tiếng Mỹ, tôi cũng ca tiếp bài “Đêm đông lạnh lẽo Chúa
sinh ra đời...” Cử chỉ cung kính của chúng tôi trước vị Thần Con Nít
đă phút chốc gây cảm t́nh với các em bé và bà con cô bác tị nạn
Căm-bốt. Số đông đă bu lại quanh chúng tôi có tới năm sáu chục
người. Họ nói chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ thông dịch cho
chúng tôi hiểu. Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới thiệu với
chúng tôi một bà già tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Ḅboul. Câu
chuyện ly kỳ “Thần Ḅ-Boul” đă sẩy tới cho hai mẹ con bà, đầu đuôi
thế này:
Ông Lam-Pranak, vị đại úy thời Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát năm
1975. Hai đứa con trai của ông đă bị trói tay chân, ném vô lửa thiêu
sống, trước mắt ông, trước lúc chúng bắn ông. Vợ ông và 4 đứa con
khác trốn về tỉnh Kompong Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị
bắt. Miên cộng nhốt năm mẹ con bà Pranak cùng với khoảng 400 người
khác thuộc “chế độ cũ” trong một Nhà Thờ Chánh Ṭa đổ nát ở tỉnh nhỏ
Khum Samrong. Chính tại nơi đó, con gái út của bà, em bé Ḅboul, đă
t́m thấy tượng Chúa Giêsu Hài Đồng nằm trong máng cỏ. Thoạt đầu, em
chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi như một búp-bê. Nhưng rồi bà mẹ em đă
nghiệm thấy dường như có một uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng
trong Búp-bê Thần này. Cứ mỗi lần Ḅboul bị đau ốm, mà em được ôm
lấy Búp-bê Thần th́ em liền được khỏi bịnh. Rồi nhiều em nhỏ khác bị
nhốt trong Nhà Thờ đau ốm cũng đă được ơn cứu chữa ấy. Chí đến các
người lớn bệnh hoạn cũng đă được khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và
ḷng sùng kính tôn thờ tự nhiên dâng lên. Trước con mắt nḥm ngó dữ
dằn của bọn lính Miên cộng, những người tù khốn khổ trong Nhà Thờ đă
không dám lập nên một bàn Thờ cho Vị “Chúa Con Nít” của họ. Đền đài
của Chúa Giêsu Hài Đồng nơi đây chính là cái túi vải rách rưới đeo
trên lưng em bé Ḅboul, một đứa trẻ gầy g̣ bẩn thỉu. Đến nỗi chính
danh hiệu cao cả của Chúa cũng chẳng ai biết nữa. Đoàn người tù tội
đă dùng ngay tên em bé để gọi Chúa Giêsu Hài Đồng, bây giờ tên Ngài
là “Thần Ḅboul”.
Nhiều đêm, cửa Nhà Thờ mở ra, những họng súng chĩa vào, vài tên Miên
cộng tḥ đầu vô gọi tên một số người. Những người bị gọi đi trong
đêm sẽ không bao giờ trở lại. Họ đến quỳ gối bên em bé Ḅboul, hôn
tượng Chúa Giêsu Hài Đồng:
- Lậy Thần của Ḅboul, bây giờ con sắp đi vào cơi chết, con muốn khi
chết đi được Thần của Ḅboul thương con, đem con về cơi Trời với
Thần!
Cầu nguyện xong, họ hôn em Ḅboul và ra đi vĩnh biệt, trong khi đó
Ḅboul vẫn ngủ say sưa không biết ǵ cả. Số tù nhân vô tội vơi xuống
lần lần.
Một đêm nọ, bà Pranak bị gọi tên. Bà choáng người như bị sét đánh,
gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt rồi bà cầu nguyện:
- Lậy Thần của Ḅboul, xin cứu con, xin cho con được sống với bốn
đứa nhỏ này, cha nó đă bị bắn, hai anh nó đă bị đốt lửa; xin Thần
hăy cứu con để chúng nó c̣n có mẹ, và để mẹ con chúng con suốt đời
thờ lạy Thần.
Bà hôn các con rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng...
Chừng hơn 2 tiếng đồng hồ sau, cánh cửa hậu Nhà Thờ bỗng hé mở. Bà
Pranak len lén ḅ vào. Bà th́ thào với các con:
- Mẹ và nhiều người bị đẩy xuống một cái hố, tụi nó xả súng bắn càn
rồi lấp đất lên, và bỏ đi. Mẹ không bị trúng đạn, moi đất chui lên
được về đây với các con. Đúng là Thần của Ḅboul đă cứu mẹ!
Năm mẹ con lại ôm nhau khóc... và tạ ơn Thần. - Việc bà thoát chết,
ṃ mẫm đêm khuya trở lại Nhà Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như việc
lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở, cho đến bây giờ, bà Pranak
vẫn không hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực tin rằng đó
chính là Thần Ḅ-Boul ra ơn cứu mạng
Ngày chế độ Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo chạy
đă thảy đại vô Nhà Thờ 3 trái lựu đạn. Bé Ḅboul thất kinh, cầm
tượng giơ ra ngăn cản. Lạ thay, cả 3 qủa đạn đều tịt ng̣i lăn long
lóc trên nền Nhà Thờ. Một người trong toán tù đă liều ḿnh nhặt vứt
ra ngoài. Khi qủa lựu đạn cuối cùng ném ra khỏi cửa sổ, cả 3 đă phát
nổ dữ dội khoét thủng một lỗ ở chân tường, và do đó đoàn tù đă thoát
ra rồi tản mác, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua Thái Lan tị
nạn.
Bé Ḅboul lạc gia đ́nh, một ḿnh chạy nhủi ở trong rừng, hết ḷng
cầu xin, hai ngày sau th́ gặp lại được mẹ và anh em như cũ.
Khi năm mẹ con đắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính là chỗ
quân đội hai nước canh pḥng biên giới, đang gh́m nhau rất cẩn mật.
Bé Ḅboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn đầu cho gia đ́nh đi ngang qua
hai trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên-cộng và lính gác
Thái đều ôm súng ngủ kh́. Câu chuyện thuật lại tưởng như khôi hài và
hoang đường vậy.
John tỏ ra đặc biệt chú trọng đến mọi chi tiết của câu chuyện. – Anh
hỏi và Saleng thông ngôn:
- Cho đến nay, Chúa Hài Đồng c̣n tiếp tục làm phép lạ không?
Bà Pranak trả lời:
- Không! không phải phép lạ, Thần của Ḅboul không làm phép lạ ra
lửa, ra ánh sáng đâu. Thần chỉ cứu người thôi. Ai cầu xin Thần sẽ
được, nhưng phải ở hiền, ở tốt, đừng có dữ dằn, ai yêu thương người
ta, Thần của Ḅboul mới cho ơn. Thần c̣n cho ơn nhiều nhiều, phải
tin Thần th́ mới được chứ!.
Tôi ngạc nhiên đến sững sờ nh́n bà Pranak, có phải bà vừa đọc một
đoạn Thánh Kinh nào đó cho tôi nghe không? Tôi nh́n kỹ mặt bà, gương
mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi. Bà
quê kệch, xấu xí và rách rưới hôi hám nữa, nhưng tâm hồn bà dường
như tràn ngập Niềm Tin và sự vui mừng.
Bốn đứa nhỏ của bà cùng với lũ trẻ tị nạn khác đang xúm quanh John
nhai kẹo cao-su. John nhờ Saleng giảng dịch cho chúng hiểu sơ lược
về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Ḅboul chính là Thánh tượng Ngài.
Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào việc nhai kẹo nhiều hơn là
lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.
Khi chúng tôi từ biệt bà con tị nạn để về lều, John chưa kịp nói lời
Good Night th́ một thanh niên chạy tới rối rít lên:
- Đem Thần của Ḅboul tới mau, xin cứu vợ tôi, nó sắp đẻ rồi, chẳng
có cô mụ bác sĩ ǵ ráo, khéo nó chết mất! Lạy Thần, xin cho vợ con
của con được sống.
Tượng Chúa Hài Đồng được rước đi tức khắc. Chúng tôi cũng cấp tốc
trở về lều. Khi John trở lại với một bác sĩ th́ mọi sự đă xong. Một
em bé tị nạn đă sinh ra bằng yên, Người sản phụ đang thiu thiu ngủ,
và người chồng đang quỳ dưới đất chắp tay lạy Chúa Hài Đồng như tế
sao.
Bà Rosalynn Carter, sau này khi đến thăm trại, đă bồng đứa bé đó
trên tay và ứa lệ nói rằng: “I want to go home as fast as I can and
mobilize people and do all we can to help the people here”. (Tôi
muốn trở về Mỹ càng sớm càng tốt để vận động dân chúng làm tất cả
những ǵ chúng ta có thể làm được để giúp dân chúng nơi đây.)
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
quocbao_30@yahoo.com
2022-2023
2021
2020
2018-2019
2017
2016
2015
2014
2013
2012
Hồi ức -
Một thời chinh chiến
No Easy Day - Ngày Vất Vả
Nụ cười đầu
năm
Luận về nghệ
thuật lănh đạo
Lá cờ
vàng ba sọc đỏ
Nhìn lại cuộc chiến Triều Tiên 1950 – 1953
T́nh h́nh Việt Nam sau Hiệp Định Geneve
Những trang sử hào hùng của HQ/QLVNCH
CSVN hứa hẹn nhân quyền...
Âm mưu cưỡng chiếm Hoàng Sa của TC
Bài viết
hay về nước Mỹ
Đại
Tá Võ Văn Xét - Thân phụ BK Vơ Khắc Hiệp
33
Chuyện
"THẦN B̉BOUL"
Ông già Noël mắt
một mí
Christmas in the communist re-education camp
Không món quà nào
hơn
Kẻ đào ngủ
Quốc Học
Tưởng nhớ Việt Dũng
Bài
thánh ca buồn
Những mảnh đời trên một chuyến "Xe Đ̣"
Mùi áo lính
Ngàn đời
nhớ anh
Kư ức
vùng Hỏa Tuyến
Ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi
Mầy c̣n
nhớ không?
Tiếng
Việt ḿnh ngộ quá!
Về thăm cố hương
SEAL của Mỹ bắt giữ thủ lĩnh hàng đầu của
Hamas
Một thoáng mùa thu về trên xứ Huế
Con
người thực Anthony Fauci
Một giọt dầu loang
Sau khi chết, chúng ta về đâu?
Giỗ cho 300000 quân sĩ đă chết trong chiến
cuộc VN
Phút cuối
Tân Lâm
Lễ viếng mộ 81 tử sĩ Nhảy Dù
Người Nhật/Người Lào & Người Việt
Chuyện chú A Tỷ và Tiểu Thanh
Sự thật về lực lượng Hamas
Người việt nam hèn hạ
Giết cho
đủ chỉ tiêu!
Một
nét chữ, một đời người
Chàng lính binh nh́ bị khiển trách v́ giày
bẩn
Lần đầu
nhập trận
Nói tiếng Anh kiểu này...
Những món nợ phải trả
Cờ Vàng 3
sọc đỏ - Ngọn cờ đại nghĩa của dân tộc Việt
Hồng nhan
Cô Lành về Quảng Nam
Những
người 50-80 tuổi nên đọc
Những mùa Trung Thu
Đường vào Học Viện Không Quân Hoa Kỳ
Mỹ
vào VN ‘lần hai’ và
các bài học cho hôm nay
Việt kiều mới ở xứ người
Trả lời câu hỏi về cuộc bại trận của QLVNCH
QLVNCH 1968 - 1975
Hỏng rồi tiếng nước tôi!
Dốt hay nói
chữ
Tiến tŕnh bầu cử
tại Hoa Kỳ
Những ngày tháng cũ
Người hùng chỉ huy trận chiến Long Tân vừa
qua đời
Thảo tím
Lại nước mắm
Ngu như lợn
Long Tân Day
Kỷ niệm 50 năm chiến tranh Việt Nam
Tưởng nhớ Anh Vân - Quách Tố Vương
Gửi trứng
cho ác
Hoàng Ngọ
Số phận nào cho kẻ thua trận?
Nghệ thuật chôn sống
Lữ Đoàn III Nhảy Dù Quảng Trị năm 1972
Để thấy vợ ḿnh dễ thương hơn nhiều..
Trường xưa
Đường chiến binh
Nhà khoa học gốc Việt được vinh danh...
Giấc mộnh kinh hoàng
Nhạc sĩ Từ Cộng Phụng
Thư số 141a gửi ngư2i ơlính QĐNDVN
Đêm truy điệu
Bà già Ba Tri
Một đời Kỵ Binh, hiên ngang, lẫm liệt
Sự ra đời của ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ
Thương tiếc một bác sĩ quân y
Đài Tưởng Niệm Chiến Tranh ở Melbourne,
Úc,,,
Câu Chuyện Về Jacky Ly
Nhớ lại một ngày vui
Người ta
đi
lính mang
lon
Đắng
cay
của
một
người
tù
Để
thấy thương vợ nhà hơn
Cuối
cuộc hành tŕnh
Áo
học tṛ và áo trận
Câu
chuyện ngày xưa
Đừng bao giờ...
Những
âm thanh tuổi thơ
Vài nét về QLVNCH và ngày Quân Lực 19/6
Tháng sáu trời mưa
Thanh Tâm Tuyền,
giữa ḷng cuộc đời
Người lính Mỹ nay ở đâu?
Giọt hạnh phúc trong đáy ly!
Đói !
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong ở thủ đô Mỹ
Nhân lễ Chiến Sĩ
Trận Vong Mỹ, nhớ....
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong,’ tưởng nhớ chiến sĩ VNCH
Nói phét!
Thuyền đắm giữa khơi
Khi sa cơ mới
biết ai là bạn...!
Quốc hội TB Florida ban hành Nghị Quyết Vinh
Danh..
Nhật Bản
trong tôi
Tôi viết
cho anh - Người "Chiến sĩ áo đen VNCH"
50th Anniversary of the Vietnam War
Quân Đội Úc trong chiến tranh VN
Bản án tử
h́nh
Ḍng sông, ḍng đời
Một
thành phố mất tên
30 Tháng Tư, lời xin lỗi muộn màng
Tuẫn tiết
Những kẻ xa
quê
Hồi đó tụi mày ở
đâu?
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Giờ phút cuối cùng của đồi Tăng Nhơn Phú
Ca hát với ma
Gă bất cần
Những
thống khổ bi hùng
Những h́nh ảnh không in ra được
Thầy đồ
Truyện về lính - Tự truyện của một phi công
40 năm t́m
bạn
Một mối đau chung, nhiều lối nh́n khác biệt!
Trường Sa tháng 4 năm 1975
Ngày Quân Đoàn I “tan hàng”
Thảm họa di tản từ Miền Trung Tháng Ba 1975
Người
lính năm xưa
Tướng VNCH tù trên 17 năm
Hai lá thư
Tiểu sử Lữ Đoàn 1 Nhẩy Dù
Huynh đệ
chi binh
An Dương
H́nh ảnh một buổi chiều
Mẹ! Hiền phụ của ông Bảo!
Nhà
già... chào mi!
Tôi
là người nước nào?
Giờ phút …hấp hối cuả 1 thành phố
Chuyện xưa đến nay vẫn đúng
Cuộc đời và sự nghiệp ca sĩ Quỳnh Giao
Trên đồi gió
Con nhà nghèo trở thành hàn lâm kỹ thuật Mỹ
Vị Tổng Thống giữ chức vụ lâu nhất Nước Mỹ
Đồi xưa, núi
cũ
Đoạn đường kỷ niệm thời thơ ấu
Người điệp viên giỏi nhất của VNCH & CIA
Cái nh́n mới về VNCH
Cơn ác mộng
Chặng
đường quê hương
Máu đào nước
lă
Những
quả ổi cuối mùa
Đời đi dạy tại Canada
Tiếng
Việt Sài G̣n cũ
Tác giả
'Dư âm' qua đời ở tuổi 95
Giận cá chém thớt hay
giận thớt chém cá ?
Chế Lan Viên
Gato!
Thắp nhang sao mà vẫn căm thù người chết
Để tang cho
sách
Đồi Charlie: Người đi, linh hồn ở lại
Mẹ Việt Nam
Trước thềm xuân hoà b́nh
Cái áo của thầy tôi
Hiệp định Paris 1973 - 2023 - 50 Năm nỗi đau...
Trầm Tử Thiện -
Người chép sử lư vong...
Mâu thuẫn quân
sự và chính trị Mỹ về cuộc chiến VN
Tử sĩ Hoàng Sa
Hương vị
ngày xuân
Nhớ lại cái tết năm xưa
Bài viết dành cho kẻ mở miệng là tiếng “Ba
que”
Mùa xuân
hạnh ngộ
Sài G̣n của
tôi
Viết về một người bạn vừa nằm xuống
Vĩnh
biệt nhạc sĩ Ngọc Chánh
Xuân
về, nhớ Quê Hương
Đời đi dạy
Hãy để Cha sống những ngày cuối cùng ...
Trạng Quỳnh và loại dân khí thấp kém
Khi vợ vắng
nhà
Kết quả bầu cử tiểu bang Victoria, Úc
Thạch Lam
Người chị cao cả Phạm Thị Thàng
Tâm sự
của một Việt kiều
Gánh
hoàng hoa
Chiếc huy hiệu hoa sen trên đại lộ kinh hoàng
Hồi
ức
về
người Cha
bị
tù
Tiếng Anh
dễ
ồm!
Nằm chơi
Chứng nhân một sự kiện lịch sử
Ngộ đạo đất
trời
Xứ khỉ khọn
Sài G̣n thoáng nhớ
Ông
già đạp xích lô
Chuộc lương
tâm
Đất nước lạ lùng
Những giọt mưa trên vùng đất khô cằn
Chân dung văn nghệ sĩ Việt...
Sài G̣n
của tôi sẽ trở lại…
Ông già
bán trứng
Melbourne: Kỷ niệm Chiến Thắng Long Tân
Câu
chuyện ngày xưa
Chiếc
Rolex ân nghĩa
Giở trang nhật kư, nhớ về bạn xưa
Nén hương
ḷng
Đám Cưới …chi lạ
Bông lúa
cúi đầu
Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến VN
Ngày vui khó quên
Cộng sản là thế đấy!
Nhiễm Virus
Corona 2019
GS Nguyễn Ngọc Huy & Lm Cao Văn Luận tiết lộ...
Xao
ḷng bởi một từ "Em"
Hiệp định Genève (20-7-1954)
Mơ ước
b́nh thường
Phi công Việt là anh hùng nước Pháp
Viết cho người sắp ra đi...
Đôi lời về Cung Tiến Nhạc Sĩ hay Kinh Tế Gia
?
Môt chuyến đi Hawaii
Vinh danh người vợ tù chính trị VNCH tại
Little Saigon
Cái miệng
Phá thai là giết
người
Cha tôi, người lính Việt Nam Cộng Ḥa
Những người năm cũ
Ngày tự phụ
Màu mắt
hoàng hôn
Paris
có ǵ lạ không em?
Không quên người chiến sĩ QLVNCH
Tản mạn Huế
Nước mắt chiều xuân
Nước mắt giữa
Trùng Dương
Cuộc đời & sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
Người tù kiệt xuất
Câu chuyện về một lá thư
Ra biển gọi
thầm
Nỗi
buồn ngày 30 tháng tư
Tháng Tư....
Bài ca
của người du tử
Lời sau cùng nói với tuổi trẻ
Quên sao được ngày 30 tháng 4 – 1975
Hai người lính Dù
Văn Học miền Nam tự do 1954-1975
Xe tăng Nga làm được ǵ ?
Giă từ vũ khí
Giờ phút cuối cùng
Văn Quang, người vừa khuất nẻo Sài G̣n...
Những
tấm chân t́nh
An Lộc & Ukraine chiến trường lịch sử
Hải quân Ukraine chiến đấu
Trông gịng sông Vị
Ngày xa Đà Nẵng
Chuyện của một cựu binh Mỹ gốc Việt
Kư
hiệu học và "lơ là lơ láo"
V́ sao chiếc áo cần có 5 cúc ?
Duyên phận và mệnh số
Thu, hát cho
người và giai thoại
Thương về Ukraine
Liên hội BĐQ Texas mừng xuân Nhâm Dần 2022
Đời lính
Vinh quang trên chiến hào
Sự thành công của người Việt tị nạn
Một chuyến công tác Cam Ranh
Lá đại kỳ An
Lộc
Chém chết một người là kẻ sát nhân
Chuyện xưa của tôi và bạn bè kbc 4100
Sứ mệnh văn
hóa
Thư số 124a gởi NLQĐNDVN
"Người vợ" là một vĩ nhân
Tết với TPB VNCH và mong ước tuổi xế chiều
Khó quên cái Tết năm nào
Xuân Sang- Xuân Sến
Năm Cọp nói chuyện… Bia
Đêm xuân trên vùng biển chết
Thương chùm Hoa Khế
Tôi đậu bằng … lái xe !
Về ca
khúc "gái xuân"
Thức tỉnh
Tử sĩ Hoàng Sa
Hồi kư trận hải chiến Hoàng Xa
Khi bài thơ Hoàng Sa vượt vĩ tuyến 17 vô Nam
26
truyện thật ngắn
Tuổi già
viễn xứ
Nguồn gốc của cách nói “nam tả nữ hữu”
Chiến
dịch B́nh Tây
Trận hải chiến giữa HQ VNCH và HQ Trung Cộng
Truy lùng cục miền Nam trên lănh thổ
Kampuchia
10 địa danh nổi tiếng trong âm nhạc miền Nam
Trả lời vài câu hỏi về cuộc bại trận của
QLVNCH
Cậu bé chăn trâu trở thành đại điền chủ giàu
nhất
Lạc giữa
mùa xuân
Một Thoáng “AT ... TEN”