Tác giả : Trần Trung Đạo
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ư nghĩa mà chúng ta đă biết, c̣n là
ngày để mỗi người nh́n lại chính ḿnh, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi
ḿnh đă làm ǵ cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành
của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau,
quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những
thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh
vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi
lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau
của ḿnh hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như ḿnh
đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm
trong tay thiểu số lănh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong
tay thiểu số lănh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân
dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn
lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không
có một con đường nào khác...*
Những ngày c̣n nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự ḿnh đặt ra “Tại
sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia
nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời
gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập
cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhăn “Made in USA”.
Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm
từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà
Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy
bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt
Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ
sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn,
chợ Vườn Hoa.
Phía trước ṭa thị chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay
trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày
chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng
liên có ṇng súng cao, những khẩu pháo ṇng dài, rất nhiều AK 47,
B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè
đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm c̣n có một chiếc xe tăng T54 được
trưng bày rất lâu trước ṭa thị chính. Không cần phải giỏi ngoại
ngữ, chỉ nh́n nhăn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung
Quốc và Liên Xô.
Nh́n viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính
trẻ miền Nam, giống như khi nh́n chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh
tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên
kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào
chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được
những đứa con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù
bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt,
chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán
hẹp, đôi mắt buồn hiu v́ nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác ǵ nhau. Dù “con
đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây
trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con
trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết v́ phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm
làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những
lính miền Nam c̣n sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn
gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong ḥa
b́nh để xây đắp lại mảnh đất họ đă “xin chọn nơi này làm quê hương”
sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và
hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân
miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắc. Tham nhũng, lạm quyền,
ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm
h́nh của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước
đă có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính
quyền và nhân dân miền Nam không dính líu ǵ đến đảng Cộng Sản miền
Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ
Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi
Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và
rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ
trước đă mọc và lớn lên trong mưa băo. Không chỉ miền Nam Việt Nam
mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều
quốc gia khác, dân chủ đă phải trải qua con đường máu nhuộm trước
khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết v́ viên thuốc
độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm bị giết ở
Quảng Ngăi đă uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của
hồi kư “Măi măi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đă uống viên
thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngă Ba Đồng
Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đă uống viên thuốc đó. Họ không
biết đó là thuốc độc. Không biết th́ không đáng trách. Nhà văn Dương
Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn
c̣n sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ
ngoài Bắc là chế độ man rợ v́ nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai
con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc
gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các
thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng. Tôi
sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng
CSVN chiến tranh đă xảy ra bởi v́ “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại
và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đă nhảy vào để thay chân
Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mỹ.”
Không ai h́nh dung “thuộc địa kiểu mới” h́nh dáng ra sao và đảng
cũng chưa bao giờ giải thích một cách rơ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn
từng là đế quốc, đă nằm trong ṿng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị
của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ư,
Anh, Ḥa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ
đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở
thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu
như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của
mà c̣n bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa
mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục
Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ
Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lănh đạo quốc gia biết mở
mắt nh́n xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai,
để lấy ḷng Mỹ, lănh đạo Thổ đă t́nh nguyện gởi 5500 quân tham chiến
bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.. Quân đội Thổ chiến đấu
anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực
lượng Thổ đă chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Ngày 18
tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO
và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu
Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát
biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản,
chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái vơ trang trong
nhiều mặt, kể cả sản xuất vơ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền
kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với Tổng Sản Lượng Nội Địa năm 2011
lên đến 5855 tỉ đô la nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách
quốc pḥng chỉ v́ Nhật dựa vào khả năng quốc pḥng của Mỹ và sự có
mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy
nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công
dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực
dân áp bức, một giới lănh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước
hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước
ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ
chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người
trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước
khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lănh đạo Cộng Sản, trên thế giới chưa có một giới lănh
đạo thể hiện ḷng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số,
đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo
chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống
nhất đất nước” và “ḥa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi kư hiệp
định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào,
hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17
tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đă nghĩ đến
chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế
giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân
Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù
không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lănh đạo CSVN
chỉ vẽ h́nh ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lư do để
chiếm toàn bộ Việt Nam bằng vơ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan
điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau cuộc chiến
Triều Tiên?
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất
máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối
cùng đă đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm
sau đó đă nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang
vinh, người tổ chức và lănh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng
Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ tŕ năm 1930 và được Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rơ:
"Vai tṛ lănh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai
đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong
kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng
và sau đó chuyển sang làm cách mạng xă hội chủ nghĩa.”
Mới đây, Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN, trong chuyến viếng
thăm Cu Ba, cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong
suốt quá tŕnh đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn
khẳng định: chủ nghĩa xă hội là mục tiêu, lư tưởng của Đảng Cộng sản
và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xă hội là yêu cầu khách quan,
là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.... Vào những năm cuối
thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xă hội hiện thực đă bị đổ
vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xă hội chủ nghĩa không c̣n, phong
trào xă hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào,
gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xă hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi
thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hănh
diện. Nhờ tài lănh đạo mà đảng CSVN đă tồn tại dù cả một hệ thống xă
hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đă phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt
kinh tế đă phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng
cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng
những được duy tŕ mà c̣n củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao
hơn. Dù ngoài miệng có hát bài ḥa hợp ḥa giải thắm đượm t́nh dân
tộc, bên trong, các chính sách của Đảng vẫn luôn kiên tŕ với mục
tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt
tiêu một cách tàn nhẫn.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy
mà cả các lănh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm
chỉnh thực thi các nguyên tắc lănh đạo độc tài sắc máu do đảng của
họ đề ra. Điều đó giải thích lư do giọng điệu của những cựu lănh đạo
Cộng Sản như Vơ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi
rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói
dễ nghe hơn nhiều so với thời c̣n trong bộ máy cầm quyền. Họ không
phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ v́ họ đă trở về
với vị trí một con người b́nh thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn
cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi c̣n
tại chức.
Giới lănh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn
luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then
chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lư và vận dụng một
cách khéo léo tâm lư quần chúng để phục vụ cho các chính sách của
đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng
cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền
Cộng Sản Trung Quốc khai thác ḷng căm thù chính sách quân phiệt của
Nhật đă xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản
liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo
khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đă khuyến khích hàng chục ngàn thanh
niên sinh viên Trung Quốc biểu t́nh suốt 3 tuần lễ trước ṭa đại sứ
Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lănh
đạo CSVN đă lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo
vệ tổ quốc”. Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên
giới Việt Trung phát xuất từ t́nh yêu quê hương trong sáng và đáng
được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự
chết v́ tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy,
cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lănh đạo CSVN đưa ra thực
chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam,
đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền
tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lư do khác để
đánh miền Nam.
Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở
hai miền đă phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị suy
vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc c̣ng
Trung Quốc mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi
ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây.
Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá
nửa đời, và ta đă tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà
không ở đâu khác chỉ v́ Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân
một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan
khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà c̣n
nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc
chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy năo hoàn toàn
hoặc biết ḿnh sai nhưng tự dối ḷng để tiếp tục sống cho hết một
kiếp người.
Cuộc đấu tranh v́ tự do dân chủ đất nước hiện nay, do đó, c̣n rất
khó khăn, đôi gánh non sông c̣n rất nặng và hành tŕnh tự do c̣n khá
xa xôi.
Sau 37 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Vơ Văn Kiệt nói, nếu
chưa qua đời, hôm nay vẫn c̣n buồn.
Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam
Cộng Ḥa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do
mà c̣n là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đă biết
ra sự thật, biết ḿnh bị lừa gạt, biết ḿnh đă dâng hiến cả một cuộc
đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba
phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng
những ḍng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể
qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn c̣n nguyên vẹn.
Như lịch sử đă chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có
vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn
Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lănh
thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả
năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng
cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc
chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân
quốc cũng như trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ư nghĩa mà chúng ta đă biết, c̣n là
ngày để mỗi chúng ta nh́n lại chính ḿnh, ngày để mỗi chúng ta tự
hỏi ḿnh đă làm ǵ cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận
hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác
nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể
những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo
gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và
đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi
đau của ḿnh hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như
ḿnh đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam
không nằm trong tay thiểu số lănh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không
nằm trong tay thiểu số lănh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do
chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một
điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc
và không có một con đường nào khác.
Ba mươi bảy năm là một quảng đường dài. Chúng ta đă hơn một lần trễ
hẹn với non sông, nhưng không phải v́ thế mà không c̣n cơ hội. Cơ
hội vẫn c̣n đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung
của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước
chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và
khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vở, c̣n biết nhận ra
nhau, c̣n biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống
khổ Việt Nam.
Trần Trung Đạo
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại