Một lần gặp Anh

 Xa nhau bao nỗi nhớ thương
Xa nhau bao nỗi vấn vương trong ḷng
Con đường thiên lư băo giông
Lẻ loi vạn dặm t́m chồng, bơ vơ
Cho dù cực khổ vô bờ
Núi ṃn, sông cạn, vẫn chờ đợi nhau.


Phải nói là cái ngày mà miền Nam Việt Nam được gọi là giải phóng bởi chế độ Cộng sản, th́ người dân miền Nam cũng được giải phóng luôn sự tự do, sự no ấm của ḿnh.

Chồng tôi là một sĩ quan trong quân lực VNCH. Anh cũng như bao nhiêu đồng đội của ḿnh, đă bị lừa gạt bằng lời hứa mười ngày học tập để bị bắt giam trong những trại tù, được mệnh danh bằng một danh từ hoa mỹ “Trại cải tạo”, và nơi giam cầm th́ chẳng ai hay, mà ngày về cũng không ai biết.

Trong những năm đầu, chị em chúng tôi c̣n ngược xuôi t́m chồng khắp nơi, v́ lời hẹn mười ngày qua đă lâu, mà người đi th́ như bóng chim, tăm cá. Lâu dần, khả năng tài chánh không c̣n, chúng tôi đành chỉ biết đợi chờ và lời hẹn mười ngày như một lời thầm nhắn hẹn “chờ anh em nhé” trong thâm tâm chúng tôi mà thôi.

Đă hơn bốn năm rồi, bốn năm tôi chưa một lần được nh́n thấy anh, nhưng bằng giao cảm, tôi biết rằng anh vẫn c̣n tồn tại đó, vẫn là điểm tựa cho mẹ con tôi bám vào, để qua đi những ngày tháng khó khăn, khổ sở, rồi sau này, bằng những lần gửi quà cho anh tại bưu điện, bằng những lá thư mà chẳng cần mở ra, tôi cũng biết những ǵ anh đă viết.

Hôm nay cũng như mọi ngày ngóng thư anh, dù chẳng phải ngày nào cũng có thư, nhưng cứ đúng giờ đó là tôi lại chờ để nghe tiếng gọi của bác phát thơ ngoài cổng mà hy vọng: ”Số 5, có thư, số 9 có thư...”sao bây giờ đă quá 10 giờ rồi mà chả thấy bác đâu. C̣n đang buồn buồn th́ nghe tiếng bác từ đầu ngơ:”Số 8, lấy thư”. Tôi chạy vội ra cửa đứng chờ:

- ”Bác Tùng ơi, số 17 có thư không bác?”

- ”Có, bác vừa đưa lá thư cho tôi vừa nh́n tôi cười hóm hỉnh, thơ học tập đấy”.

Tôi run run cầm lá thư, cám ơn bác rồi hấp tấp vào nhà. Không hiểu sao cứ mỗi lần nhận được thư anh, là chân tay tôi run lẩy bẩy, trái tim đập liên hồi, v́ vui hay v́ sợ, tôi cũng không biết nữa, mặc dù lần nào cũng vậy, lời thư chỉ như những bài học mà tôi đă thuộc ḷng dù không cần mở thư ra, nhưng khi nh́n thấy nét chữ của anh là ḷng tôi lại xốn xang khó tả, và đọc nó cả ngày cũng không thấy chán, cứ có cảm giác như là anh ở bên cạnh ḿnh. Lá thư hôm nay h́nh như hơi dầy hơn một chút, tôi nh́n vào địa chỉ b́ thơ, vẫn là ḥm thư 25A TD63/NH trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Tôi xé vội lá thư, bên trong, ngoài tờ thư nhỏ như mọi lần, lại rớt ra một tờ giấy giống như một tờ biên lai, tôi nhặt lên và đọc, th́ ra đó là giấy báo thăm nuôi. Tôi ấp tờ giấy vào ngực và nước mắt tự đâu trào ra: Anh ơi, rốt cuộc rồi em cũng sẽ được gặp lại anh, chúng ḿnh sắp lại được thấy nhau rồi, Sơn ơi, em thật mừng quá. Đă bao năm rồi, kể từ ngày anh đi tŕnh diện học tập, chung quanh tôi, chị em, họ hàng, bạn bè, họ đều có những lần được thăm nuôi chồng, chỉ riêng tôi, mong chờ có được một lần đi thăm anh mà cứ như đợi chờ một phép lạ chả bao giờ xảy đến. Những lo sợ, những nghi vấn về những ǵ bất trắc xảy ra cho anh, luôn luôn ám ảnh tâm trí tôi: Anh đang ở đâu, anh có khỏe không, có bị thương, có bị đau, có bị sao không, đói, rét như thế nào?..Những nhớ thương về anh nhiều khi làm cho tôi thấy ḿnh giống như người bị bệnh tâm thần, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn.

Hôm nay có lẽ là ngày vui độc nhất của tôi kể từ ngày anh đi xa vắng. Gạt những ḍng nước mắt sung sướng vừa trào ra, tôi đọc lại một lần nữa tờ giấy phép thăm nuôi. Tôi chỉ có một thời gian ngắn để lo mọi thứ đi thăm anh. Biết bao việc phải làm, trước hết là phải lên phường xin giấy phép đi đường, sau đó phải tính toán tiền bạc cho những chi tiêu như sắm ít đồ dùng cần thiết, thuốc men, làm đồ ăn khô, mặn như lời dặn trong thư, lại c̣n phải dành một chút tiền cho anh tiêu, số tiền này sẽ dấu trong cái áo treilli mà tôi đă lót thêm một lớp bông g̣n bên trong, ở giữa hai lớp vải để anh mặc cho đỡ lạnh trong những ngày đông tháng giá. Ngoài ra c̣n phải có tiền để đăng kư đồ ăn thêm cho anh tại trại, tiền mua vé xe lửa khứ hồi và chút tiền để lại nhờ gia đ́nh trông coi các cháu, cùng tiền cho ḿnh pḥng khi cơ nhỡ lúc dọc đường đi. Cái ǵ cũng phải cần đến tiền, để có được số tiền như vậy, không phải dễ, nói có là có, tôi đă phải chắt chiu dành dụm thật lâu để mong có ngày sẽ sử dụng đến nó. Và cái ngày hôm nay mà tôi chờ đợi từng giây, từng phút đă đến. Sau khi đă thu xếp ổn thỏa mọi việc, tôi chỉ c̣n phải đi đăng kư mua vé xe lửa nữa là có thể an tâm cho chuyến ngược Bắc thăm anh lần đầu.

Sáng ngày 6/1/1979, tôi cầm giấy tờ tới ga xe lửa Sóng thần để đăng kư mua vé. Tại nơi đăng kư đi Bắc, tôi không thấy có ai đứng đợi ở đây như những quầy đăng kư khác, tôi kiếm người hỏi thăm th́ được biết, muốn đăng kư vé th́ phải đến đây từ 12 giờ đêm để sắp hàng theo thứ tự. Quầy đăng kư chỉ làm việc đến 9 giờ sáng là ngưng:

- “Cô đến bây giờ quá trễ, đă 9 giờ 10 rồi, ngày mai quay lại đi, đó cái quầy đằng kia ḱa, cửa đă đóng rồi đó.”

Nh́n theo ngón tay anh ta chỉ, quả nhiên có một khung cửa nhỏ đă được đóng lại từ bao giờ. Cám ơn người con trai tốt bụng, tôi định ra về nhưng trong ḷng c̣n phân vân và thật lo lắng v́ chỉ c̣n có vài ngày nữa là đến ngày thăm nuôi rồi. Đă bao năm nay tôi chờ đợi cái ngày này, bây giờ tất cả đă sửa soạn xong hết, chỉ c̣n lấy vé nữa là đi, không lẽ bỏ sao? Tôi tính đi lang thang để hỏi thăm, nhưng không hiểu sao bàn chân tôi lại cứ đi dần về phía quầy, cánh cửa sổ ở quầy chợt mở ra, một người đàn bà đứng tuổi, đứng phía trong đưa tay ngoắc tôi và gọi:

- ”Cưng ơi, lại đây.”

Tôi ngơ ngác nh́n quanh ḿnh, chẳng có ai ngoài tôi ở khu vực này cả, tôi quay lại chỉ vào ḿnh ra dấu và hỏi: “Chị gọi em?”rồi tiến dần về phía bà. Người đàn bà cười:

- ”Không gọi em th́ gọi ai, đăng kư vé đi Bắc phải không? Sao giờ này mới đến? Thôi đưa giấy tờ đây chị làm cho.”

Bà quay sang người đàn ông, đội nón cối đứng bên cạnh, đang cho một cuốn sổ vào cặp:

- ”Ông anh, khoan đă, ghi cho cô em gái tôi một vé đi.”

- “Ô hay cái nhà bà lày, hết giờ rồi c̣n ghi ghi cái ǵ? Sao nộn xộn thế?”

- ”Một vé thôi mà, ông anh không muốn ghi th́ để tôi ghi cho.”

Vừa nói bà vừa lấy cuốn sổ trong tay tên nón cối và ghi giấy tờ của tôi vào mặc cho gă lải nhải cằn nhằn, sau đó bà trả giấy tờ đă đóng dấu đăng kư cho tôi:

- “Xong rồi đó cưng, đi mua vé rồi c̣n về với con đi, để tụi nó chờ tội nghiệp.”

Bà với tay đóng cánh cửa sổ nhỏ lại, vừa cười vừa nháy mắt với tôi, không kịp để tôi nói tiếng cám ơn với bà, tôi đành phải nói to tiếng cám ơn sau cánh cửa đóng. Cầm xấp giấy tờ trên tay mà tôi vẫn c̣n chưa hết ngơ ngác, chuyện xảy ra trong ṿng năm phút, như một phép lạ. Người đàn bà người miền Nam này là ai? Sao bà biết tôi gặp khó khăn mà giúp đỡ? Bà đă nhận lầm tôi với một người quen nào đó của bà? Cho đến bây giờ cái thắc mắc này vẫn c̣n vương vấn trong tôi, nhưng dù sao tôi cũng vẫn măi biết ơn bà, thật ḷng cám ơn người thiếu phụ vô danh, nhưng tốt bụng đó.
Có dấu đăng kư rồi th́ mới được mua vé. Tôi tới khu vực bán vé đi Bắc đă thấy người ta đứng, ngồi la liệt khắp nơi. Tôi xề xuống bên cạnh một bà cụ vấn khăn theo kiểu người Bắc, ngồi có vẻ nhàn nhă, đang nhai trầu bỏm bẻm, hỏi thăm:

- ”Xin phép cụ, cho con hỏi thăm, có phải mua vé đi Bắc ở đây không ạ?”

Bà cụ nh́n tôi, không trả lời câu tôi hỏi mà lại hỏi ngược lại:

- ”Đă đăng kư mua vé chưa? Đăng kư hôm nào?”

- ”Dạ rồi, mới bữa nay thôi.”

Vừa nghe tôi nói vậy, Một chị, ngồi kế bà cụ, vọt miệng:

-”Trời ơi, mới bữa nay hả? Vậy th́ c̣n khuya mới mua được vé, tụi này đăng kư mấy bữa rồi mà c̣n ngồi măi dưới này lận. Tui nói thiệt, về nhà đi ngủ c̣n sướng hơn, chờ đây biết chừng nào tới lượt, đó chị thấy người ta ngồi chờ đông không? Tui đâu có nói láo.”

Lại một lần nữa sự thất vọng và lo lắng lại trở lại với tôi. Tôi cám ơn mọi người, đứng lên và dợm bước đi, chợt có tiếng nói sau lưng:

-”Nếu cần th́ chị mua vé tầu đêm mà đi, nhưng chị đi có một ḿnh th́ cũng nguy hiểm lắm, nên cẩn thận.”

Tôi quay lại cám ơn người mách nước. Lúc này thật t́nh tôi không hiểu tại sao lại phân biệt tầu đêm, tầu ngày. Và cũng không hiểu tại sao đi tầu đêm lại nguy hiểm hơn đi tầu ngày. Nhưng với tôi, đêm hay ngày không quan trọng, cái quan trọng là làm sao tôi có thể mua được vé, để đến được với anh mà thôi. Măi sau này khi đi thăm anh lần thứ nh́, tôi mới hiểu được nghĩa của tầu đêm và tầu ngày. Tầu đêm là tầu đi ra tới Bắc phải mất hai ngày, ba đêm, và khi tầu chạy tới khu vực giáp ranh của miền Trung và Bắc thường vào ban đêm, nơi rất có nhiều bọn cướp, khi là dân đói, khi là công an, bộ đội giả dạng làm cướp, nhất là ở những ga vắng người. C̣n tầu ngày đi ba ngày, hai đêm, an toàn hơn v́ tầu đi qua khu vực này lúc ban ngày. Ở quầy bán vé tầu đêm thật vắng khách, do đó tôi đă mua được vé dễ dàng.

Ngày 7/1/1979 tôi lên xe lửa tại ga B́nh Triệu, rời Sàig̣n, rời những đứa con thơ dại thân yêu, để t́m đến với anh. Ngồi trên xe, nh́n thành phố Sàig̣n đang lùi dần sau lưng mà nghe trong ḷng buồn, vui lẫn lộn. Vui v́ sẽ gặp lại được người chồng sau bao tháng năm xa cách, buồn v́ phải xa những đứa con thơ c̣n quá bé bỏng, đă thiếu thốn t́nh cha, đang cần sự ấp ủ thương yêu của người mẹ. Với tâm trạng đó, tôi ngồi trên tầu nh́n thành phố xa dần trong tiếng c̣i vang lên năo nuột.

Con tầu cứ lầm lũi đi, Thủ Đức, Biên Ḥa rồi Phan Thiết... Tới Nha Trang tầu dừng lại lấy thêm hành khách rồi lại tiếp tục đoạn đường.Tôi tựa đầu vào thành tầu, nh́n qua khung cửa sổ. Từng làng mạc, từng cánh đồng nối tiếp nhau vùn vụt trôi qua. Đất nước ḿnh trông thật b́nh dị, cuộc sống trông thật êm ả vô cùng, thế nhưng có ai ngờ đâu, trong cái b́nh dị, êm ả kia đă bị một loài thú đội lốt người cai trị, mang lại cho người dân sống trong đó biết bao nhiêu khổ sở, cay đắng và điêu linh.

Tôi nhắm mắt, cố gắng dỗ cho ḿnh một giấc ngủ trong tiếng śnh sịch của con tầu và tôi đă thiếp đi cho đến khi nghe được tiếng ồn ào, trầm trồ của những người bên cạnh:

-”Băi biển Đại Lănh đó, đẹp quá trời.”

Tôi mở bừng mắt ra, tầu đang đi ngang Tuy Ḥa, trước mắt tôi một phong cảnh đẹp tuyệt vời. Nước biển xanh, bờ cát trắng, những con sóng nhấp nhô, từng đợt, từng đợt xô nhau vào bờ, óng ánh như ngàn con rắn bạc lấp lánh dưới ánh mặt trời. Bầu trời th́ xanh thẳm, một vài cụm mây trắng đang lững lờ trôi, xa xa một phần của rặng núi Trường Sơn biên biếc nằm dọc theo bờ biển càng tạo cho khung cảnh nơi đây một vẻ hùng vĩ lạ kỳ: “Đất nước ḿnh đẹp thiệt.” Nh́n biển xanh, mây trắng, tôi lại chợt nghĩ đến anh, nghĩ đến những lần hai đứa đi Vũng Tầu, cũng biển xanh, sóng bạc, vui biết bao nhiêu, mà giờ đây chỉ c̣n ḿnh tôi bơ vơ đi t́m anh, chỉ c̣n ḿnh tôi lẻ loi với nỗi nhớ thương anh ră rời. “Anh ơi, em thật nhớ anh quá” và những giọt nước mắt lại âm thầm trào ra để lại nghe mằn mặn trên bờ môi.

Qua vài ga nhỏ, tầu không ngừng lại, để khi tới Quảng Ngăi mới từ từ dừng bánh. Ga Quảng Ngăi c̣n gọi là ga gà, v́ nơi đây đồ ăn bán cho khách phần lớn là gà: gà luộc, cháo gà, miến gà, phở gà, ngay cả ḿ cũng nấu bằng thịt gà. Tôi thường nghe nói vùng này là nơi “chó ăn đá, gà ăn muối” có nghĩa là nơi sinh sống khó khăn, nhưng không hiểu sao gà lại nhiều và rẻ thế? Nh́n những con gà đă luộc rồi, họ mời mua trông mới thật hấp dẫn làm sao, tuy không béo tṛn và vàng hườm như những con gà bán ở tiệm cơm gà Hồng Phát, Tân Định, hay trong những tiệm cơm Tầu, nhưng cũng vẫn làm cho tôi thấy thèm thuồng vô cùng. Mà thèm th́ thèm cũng chả dám mua v́ tài chánh không có khoản chi cho cá nhân ḿnh một món hậu hĩ như thế. Đă lâu lắm rồi, kể từ ngày CS cưỡng chế miền Nam, danh từ thịt gà h́nh như đă biến mất trong thực đơn của người dân Saigon th́ phải. Nghĩ cho cùng, đến cơm gạo c̣n chả có mà ăn th́ nói chi đến thịt, nhất lại là thịt gà. Những đồ ăn cao cấp như thế này và trong thời buổi này chỉ dành riêng cho đám quan ôn tham nhũng, đâu có phần cho người dân. Đang suy nghĩ lung tung, tôi bỗng nghe có tiếng đàn ông sau lưng ḿnh:

-”Bán cho chú một con gà đi, tầu sắp chạy rồi, nhanh lên.”

Tôi quay người lại, một anh bộ đội khoảng 40, 45 tuổi, đang cúi người ra ngoài cửa sổ để mua bán với một thanh niên cỡ tuổi 20. Anh thanh niên đưa con gà lên nhưng giữ một khoảng cách để anh bộ đội không thể lấy được:

-”Chú đưa tiền cho con trước đi, chú lấy gà rồi tầu chạy làm sao con lấy tiền?”

-”Tao đưa tiền mà mày không đưa gà cho tao th́ sao?”

-”Ḱa tầu chạy rồi đó, thôi chú nắm cái đầu gà đi, rồi chú đưa tiền th́ con buông con gà ra, lẹ lên.”

Lúc đó tầu đă bắt đầu chầm chậm lăn bánh, Anh thanh niên vừa chạy theo tầu vừa nói. Anh bộ đội nghe lời cầm cái đầu gà và đưa tiền ra trả. Anh thanh niên đă lấy tiền rồi mà vẫn giữ khư khư con gà không chịu buông. Tầu đă bắt đầu chạy nhanh hơn mà hai người vẫn c̣n giằng co nhau với con gà:

-”Mày đă lấy tiền rồi sao c̣n không buông tay?”

Anh bộ đội vừa la vừa cầm cái đầu gà, cố gắng giật mạnh về phía ḿnh. Mọi người trên tầu đang quan sát hai người, bỗng “phịch” anh bộ đội ngă ngửa ra phía sau, trên tay c̣n lủng lẳng cái đầu gà đă có vết cắt nơi cổ tự bao giờ. Tất cả bật cười ồ lên. Anh bộ đội đứng dậy, nét mặt đầy vẻ sượng sùng, cầm cái đầu gà ném về phía anh thanh niên lúc đó đă cách khá xa con tầu, đang đứng cười với vẻ đểu cáng pha lẫn chế riễu. Buông một tiếng chửi thề tức giận, anh bộ đội quay về chỗ ngồi với vẻ hầm hầm. Nh́n màn hài kịch đó, tuy buồn cười nhưng tôi lại thấy tội nghiệp cho cả hai, cả người bị lừa lẫn kẻ đi lừa. Chung quy chỉ tại cuộc sống của người dân quá khốn khổ, quá đói rách dưới ách gông cùm CS mà con người đă đánh mất đi lương tâm, đă t́m mọi thủ đoạn để lừa đảo lẫn nhau hầu có thể sinh tồn.

Con tầu cứ lầm lũi đi, từng ga lại từng ga, từng làng lại từng làng, con tầu cứ đi đi măi để mang tôi lại gần anh hơn. Tới Huế, tầu ngừng lại khá lâu để lấy thêm nhiên liệu và để nhân viên nghỉ ngơi đôi phút. Rút kinh nghiệm từ sự kiện lừa đảo ở ga gà, tôi không dám mua bán ǵ, dù đă được những người bạn đi trước mách bảo nên mua ít quà khi ra tới Hànội bán lại sẽ có lời như sữa bột, đường phổi, mè xửng ...tôi cũng chỉ dám mua vài bịch đường phổi và kẹo gương cho chồng mà thôi, lớ quớ không biết mà bị lừa th́ chết, c̣n tiền đâu mà đi thăm chồng.

Tầu lại tiếp tục lên đường, gần qua Thừa Thiên để vào địa phận Quảng Trị, đột nhiên tôi thấy hai bên đường trắng xóa những ṿm tṛn tṛn như những chiếc bát úp, nhiều thật nhiều.Tôi nghe có những tiếng nói ở chung quanh tôi:

-”Chỗ này là quốc lộ kinh hoàng, dân di tản vào Nam chết biết là bao nhiêu ở chỗ này. Những ṿm trắng trắng là mồ đó...!”

Tôi nh́n những nấm mồ đó mà trong trí tưởng tượng ra một cảnh hăi hùng, cảnh người chết nằm la liệt khắp nơi.
Tôi rùng ḿnh, nhắm mắt lại và thầm khấn:
-”Xin quư vị hăy yên nghỉ, cầu mong hương hồn quư vị sớm về chốn an lành nơi Thiên đàng, nơi cơi Phật.”

Xa xa, cổ thành Quảng Trị, sừng sững trong không gian bao la như nhắc nhở với mọi người về những chiến tích oai hùng của những người chiến sĩ VNCH, đă quyết chiến và đă hy sinh một cách oanh liệt, hào hùng để bảo vệ tổ quốc khỏi rơi vào tay bọn quỷ đỏ bạo tàn, để ngọn cờ vàng măi ngạo nghễ tung bay trên thành cổ, thế nhưng giờ đây, những chiến tích đó, những hy sinh đó đă chỉ c̣n là một dĩ văng ngậm ngùi của người dân Việt mà thôi:

Thành Cổ đó muôn đời ghi dấu
Thành tích oai hùng quân lực Việt Nam
Thủy Quân Lục Chiến, Dù chiến đấu
Bên Biệt Động Quân anh dũng vô vàn


Con tầu vẫn đi, càng về miền Bắc, sự nghèo đói càng được thể hiện rơ nét hơn trên những lớp nhà tranh rách nát, trên những cánh đồng xơ xác, tiêu điều, trên những con người gầy c̣m, cằn cỗi. Trời đă vào tối, tôi đang thiu thiu ngủ, chợt nghe có tiếng la to của một người đàn ông ngồi ở cuối toa:

-”Có cướp, đóng các cánh cửa sổ lại.”

Hai tiếng “có cướp” làm mọi người trong toa như bừng tỉnh, tiếng sầm sập rơi xuống của các cánh cửa gỗ đồng loạt vang lên.
Tất cả những người đàn ông đều đứng bật dậy, họ với tay lấy ra những gậy gộc, xích sắt...không biết đă để sẵn tự bao giờ, rồi th́ kẻ chạy ra canh ở hai đầu toa, người th́ gác ở chỗ các cửa sổ, sẵn sàng trong t́nh trạng tác chiến. C̣n nhóm đàn bà, người già và con nít th́ nấp ở giữa hai hàng ghế, vừa lo giấu giếm chút tài sản, vừa đề pḥng trường hợp bất trắc mà ứng phó. Vẻ mặt ai nấy đều căng thẳng và lo lắng. V́ là lần đầu tiên đi xa một ḿnh nên tôi rất sợ, ngồi chúi bên đám hành khách mà người cứ run lên bần bật, lại nhớ đến lời cảnh cáo của người thanh niên trên sân ga lúc đi mua vé tầu. Chuyện ǵ sẽ xảy ra đây? Rồi nghĩ đến chồng, đến lũ con thơ chờ mẹ ở nhà, nếu rủi có ǵ không may, tôi thật không dám suy nghĩ tiếp, chỉ c̣n biết run run những lời cầu xin ơn trên cho tai qua nạn khỏi mà thôi. Thật may mắn thay, toa tầu của tôi đă được an toàn ra khỏi vùng hắc ám đó và mọi người lại lục đục trở về chỗ ngồi. Tuy vậy mọi người vẫn c̣n bàn tán và chuyện đánh cướp của những lần trước lại được kể lại. Th́ ra một số lớn khách trên tầu là dân buôn hàng chuyến Bắc Nam, thảo nào cách họ hành động và xử lư mọi việc thật thành thạo và lẹ làng vô cùng. Sau đó chúng tôi được biết toa tầu nằm cách chúng tôi bốn toa, v́ ít khách nên đă bị bọn cướp nhảy lên, nhưng không thiệt hại ǵ, v́ chỉ là những tên cướp lẻ, không phải là đám cướp có tổ chức, có súng ống như một vài lần nào trước đó. Nói đến súng ống là mọi người biết ngay là chỉ có bọn công an hoặc bộ đội mà thôi. Nhà nước CS nuôi chúng đói rách quá, chúng phải ăn cướp để mà sống. Nên “cướp đêm là bộ đội, cướp ngày là công an” dưới chế độ CS không phải là chuyện lạ lùng ǵ, chỉ khổ cho người dân đen thấp cổ, bé miệng phải chịu thiệt tḥi. Trong chuyến đi này, ngoài những việc xảy ra mà tôi đă được chứng kiến, c̣n một điều mà tôi cứ thắc mắc hoài là dọc đường đi đă nhiều lần tàu chúng tôi bị những đứa trẻ, có khi cả những thanh niên, đứng dọc hai bên đường ném đá lên tầu, những cục đá thật to, đập rào rào vào thành cửa sổ của toa tầu, họ ném đá một cách thích thú, vô tội vạ, không cần biết có ai v́ những cục đá này mà bị thương hay không. Chắc do v́ có kinh nghiệm của nhiều lần trước mà chúng tôi đă được khuyến cáo, là thời gian tầu chạy qua những khu vực này, tất cả các cửa sổ toa tầu đều phải kéo lên để bảo đảm an toàn cho hành khách. Mọi người trong tầu ai nấy đều bất măn v́ hành vi vô giáo dục của bọn người này. Nhưng nói cho cùng sống dưới một chế độ bị cai trị bởi một lũ mặt người dạ thú th́ những hành động này chẳng đáng ǵ so với những việc làm vô nhân đạo của bọn đầu sỏ chế độ CS. Chúng c̣n tàn nhẫn, vô lương hơn nhiều.

Tầu đă vào ga Thanh Hóa, hành khách lại mua mua, bán bán như chưa hề xảy ra chuyện ǵ. Cam Thanh nổi tiếng từ lâu, nh́n những trái cam họ mời mua thấy ngon lành quá, tôi đă tính lấy tiền ra mua đem vô cho chồng, nhưng lại nhớ h́nh như lúc ở ga gà, có ai đó đă nói chuyện về ga Thanh Hóa th́ phải:

-”Mua bán ở ga này phải cẩn thận, họ dối trá lắm, cam họ mời mua, ăn tại chỗ th́ ngon, mua về nhà th́ toàn cam hư, ở trong khô như giấy. Gị lụa, bánh chưng ăn tại chỗ th́ là thịt, là nếp thiệt, mua về lại là gị bột, bánh chưng gói bằng cát, thật dă man!”

Thế là con bé lại nhát gan, nhịn thèm, nhịn thuồng để khỏi bị mắc lừa.
Khi tầu đến ga Phủ Lư th́ trời bắt đầu vào đêm. Một số chị có chồng cùng trại với anh, ngày mai được thăm nuôi nên đă xuống đây. Tôi c̣n phải chờ thêm một ngày nữa, vả lại tôi có hẹn với người nhà ở Hànội ra đón nên tôi theo tầu ra thẳng Hànội.
Khi tầu đỗ tại ga Hàng Cỏ th́ đă quá khuya, tôi một ḿnh h́ hục vần hai bao tải lớn đồ ăn thăm nuôi, từng bước một, ra khỏi ga. Ngay ở bên ngoài cửa nhà ga, tôi đă thấy có một số người với hàng hóa chung quanh, kẻ ngồi, người nằm hỗn độn. Hỏi thăm mới biết là người ḿnh, cũng đi thăm nuôi “cải tạo”. Ban đêm chờ ở đây “Khách sạn Hilton Hàng Cỏ”, sáng mai mới dám xuất phát, tối mà đi một ḿnh mỗi người, mỗi ngả rất nguy hiểm.
Thấy tôi chờ hoài mà người nhà không đến, một chị nói:
-”Thôi đừng chờ nữa, ở lại đây với tụi ḿnh cho vui, chứ đi một ḿnh bây giờ không tốt đâu, thủ đô Hànội cướp giựt như rươi đó. C̣n chờ họ đón, chắc ǵ họ đến vào giờ này.”

Tôi cám ơn chị và tự dọn cho ḿnh một “pḥng” trong khách sạn ngàn sao này. Ngồi tựa vào bờ tường nhà ga, tôi ngắm nh́n Hànội về đêm.
Cũng nơi này, hai mươi lăm năm về trước, gia đ́nh tôi đă từng sống, tuổi thơ của tôi cũng đă từng trôi qua trong yên b́nh. Thế rồi hiệp định Genève chia đôi đất nước, gia đ́nh tôi cũng như cả triệu người dân miền Bắc, đau ḷng rời bỏ quê cha đất tổ, lên đường vào Nam tránh hiểm họa CS. Cứ tưởng cái họa CS sẽ ngừng ở vĩ tuyến 17, ai ngờ đâu nó đă vượt lằn ranh Bến Hải tiến về miền Nam khiến oán hờn dâng ngập trời, biển Đông hận sôi sóng. Và hôm nay đây, tôi đă phải lang thang nơi này, trở về cái thành phố ngày xưa, nơi đă từng ấp ủ, nuôi dưỡng cái tuổi thơ êm đềm của tôi ngày nào, với một tâm trạng nhung nhớ, lo âu cho thân phận của chồng tôi, người tôi yêu thương nhất trên đời:

-”Anh ơi, anh có biết em đang ngồi bên lề đường ga Hàng Cỏ mà nhớ về anh thật nhiều hay không? Sơn ơi, sao mà buồn thế này, sao mà nhớ anh thế này!”

Biết bao giờ chúng ḿnh không phải
Nhớ thương nhau đến ră rời tim
Và em anh không c̣n vất vả
T́m kiếm anh chốn chẳng nên t́m

Mùa Đông ngoài Bắc này thật lạnh, những cơn gió cứ rít lên từng hồi trên mái nhà ga, trên các cành cây trơ lá. Tôi cuốn chặt chiếc áo len vào ḿnh và nép người giữa hai bao tải đồ ăn cho đỡ lạnh. Dù mệt mỏi, chúng tôi cũng không ngủ được, chúng tôi th́ thầm tṛ chuyện với nhau trong lúc đợi chờ thời gian trôi qua chầm chậm. Trời đă sáng dần, mọi người lục đục sửa soạn hành lư, để rồi lại bắt đầu một cuộc hành tŕnh khác.
Rời nhau trong bịn rịn, quyến luyến, chúng tôi chúc cho nhau mọi điều thuận lợi, tốt lành. Dù chỉ gặp nhau có một đêm, nhưng v́ cùng hoàn cảnh, chúng tôi cũng thấy thân thiết và thương nhau vô cùng:

-”Hẹn gặp lại ở Sàig̣n nhe...”

Tôi thuê một chiếc xích lô để về nhà người cô ở phố Hàng Bài, gần hồ Hoàn Kiếm. Xích lô ở miền Bắc cũng nghèo nàn như con người ở đây. Chỗ ngồi không có nệm, chỉ là một tấm ván cứng ngắc, mỗi khi qua ổ gà th́ thật khổ cho người khách bị ê ẩm cả người. Bác xích lô bắt chuyện:

-”Cô ở trong Nam ra thăm học tập hả? Nh́n cách ăn mặc của các cô là biết ngay, trông đẹp hơn các bà các cô ở ngoài này nhiều. Ở đây ai trông cũng giống nhau cả, thấy chán cả mắt! Tôi cũng từng có chở mấy cô ở trong Nam ra đây thăm chồng, ai nấy đều lễ phép và lịch sự lắm. Cô ra đây mấy lần rồi?”

-”Dạ, ba lần, họ hàng cháu ở ngoài này nhiều lắm.”

Tôi nói láo v́ không muốn bị gạt như mấy người bạn đi trước. Họ dặn tôi:
-”Ra Bắc, đi xích lô th́ phải coi chừng, thấy ḿnh không biết đường họ bắt bí đ̣i giá cao, đôi khi c̣n đưa đến chỗ vắng để cướp đồ nữa đó.”

Nhân v́ nói đến cách ăn mặc của phụ nữ Hànội, tôi mới để ư. Quả nhiên không sai, người nào giống như người nấy, cũng có cái quần đen ngắn trên mắt cá chân thêm vào chiếc áo sơ mi trắng ngà, cùng với những cái bím tóc lủng lẳng phía sau lưng. Ngoại trừ những người già th́ có chiếc khăn mỏ quạ màu nâu hoặc màu đen, chít đầu, trông thật nhàm chán và mất thẩm mỹ. Đă vậy phần lớn, thân h́nh con gái ǵ mà cứ tṛn ủng ra, chả trách ở miền Nam đă có một câu vè tả chân cho gái Hànội;

Gái Sàig̣n như nhành dương liễu
Gái Hànội như củ khoai môn
Trai Sàig̣n như chim oanh vũ
Trai Hànội như khỉ trên rừng
Chim oanh vũ đậu nhành dương liễu
Khỉ trên rừng gậm củ khoai môn.

Nghĩ tới đây tôi muốn bật cười v́ h́nh ảnh ngộ nghĩnh của chú khỉ đang gậm củ khoai môn.
Hànội của năm 1979 không có ǵ thay đổi lắm so với Hànội năm 1954, ngày mà gia đ́nh chúng tôi ra Hải Pḥng để lên tàu thủy vào Nam. Ngoại trừ một vài nơi như những trường học và tu viện của nhà ḍng đă bị trưng thu để trở thành bệnh viện, như bệnh viện Việt-Đức, bệnh viện Việt-Xô...C̣n lại thành phố h́nh như cũ kỹ hơn, nghèo nàn hơn, buồn nản hơn. H́nh ảnh các cô gái tha thướt trong tà áo dài Lemur, khoác những chiếc khăn san đủ mầu phất phơ trong chiều lộng gió, bên cầu Thê Húc, trên phố Godard hay những thiếu phụ đài các với bới tóc mượt mà trễ tràng sau lưng đă không c̣n nữa, mà Hànội bây giờ chỉ c̣n có “Dép quai râu giẫm nát đời son trẻ, mũ tai bèo che khuất cả tương lai” và khắp nơi nơi, đâu đâu cũng chỉ là nón cối, đuôi sam mà thôi. Hànội cái nôi của “đỉnh cao trí tuệ” là như vậy đó.

Sau một ngày ở lại Hànội, đi mua sắm thêm chút đồ ăn và đồ dùng cho chồng, cùng đi thăm lại những nơi ngày xưa tôi đă từng sống, từng đi học, để kiếm t́m chút kỷ niệm xa xưa của thời thơ ấu, tôi đă được hai cha con người chú cho quá giang lên Phủ Lư nhân dịp họ đi lấy hàng về Hànội bán. Tại đây tôi lại phải kiếm phương tiện để lên Ba Sao mới tới được trại tù của chồng tôi. C̣n đang t́m người hỏi thăm, th́ thấy một chị nữa cũng đang kéo lê trên đường hai bao tải nặng nề, nh́n là biết ngay người cùng cảnh ngộ, tôi vội vàng chạy tới phụ chị:

-”Chị cũng đi thăm nuôi, anh ấy cũng ở Hà Nam Ninh?”

-”Dạ, ông xă tôi là thiếu tá thủy quân lục chiến, trước tù ở Vĩnh Phú, mới chuyển qua đây gần một năm...”

Hai chị em vừa nói chuyện, vừa kiếm người để vào Ba Sao, chợt một chiếc command car dừng ngay trước mặt, người tài xế bộ đội nghiêng người ra hỏi:
-”Các chị ơi, lên Ba Sao phải không, em chở cho.”

Tôi ngơ ngác nh́n anh ta chưa kịp trả lời th́ anh ta đă tiếp ngay:
-”Các chị cho em mỗi người một đồng nhớn, em sẽ chở các chị đến tận trại học tập, các chị đừng lo, em đă chở nhiều chị như thế này rồi, không sao đâu, chỉ có một đồng nhớn thôi mà.”

-”Một đồng nhớn là ǵ?”

-“Là mười đồng ấy, em vào Ba Sao đón thủ trưởng, nhân tiện có xe đây, em kiếm thêm chút cháo, chị giúp em, chị em ḿnh cùng có lợi. Em khuân đồ lên xe cho các chị nhé.”

Mới đầu tôi từ chối v́ mười đồng với tôi quá đắt, nhưng sau nghĩ lại, đi xe hơi đỡ vất vả hơn xe thồ, lại nhanh nữa vả lại tôi nghĩ có hai người chắc an toàn hơn nên sau khi hội ư với nhau, chúng tôi bằng ḷng. Lúc ngồi trên xe, tôi thấy lần thăm anh kỳ này tôi gặp được rất nhiều may mắn, có lẽ v́ tôi là một đứa con gái khờ khạo như nhận xét của anh, mà được ông trời đăi ngộ chăng, rồi lại thấy ḿnh ngồi chễm chệ trên xe jeep mà tự cười thầm :”Ḿnh vợ tù mà oai thiệt, được đi xe của thủ trưởng Việt cộng lại c̣n có lính cung cung kính kính mới chết chứ.” Nghĩ đi rồi nghĩ lại, lại thấy buồn: “Nếu thời thế không thay đổi th́ chuyện được ngồi xe jeep đối với bà như thế này có ǵ là lạ đâu, bây giờ th́ cho chúng mày hầu bà cho bơ ghét.”
Tới nơi xe ngừng ở chân núi, anh lính vừa khuân đồ của chúng tôi xuống vừa bảo:

-”Các chị xuống đây rồi thuê mấy người tù h́nh sự đang làm việc ở gần đây, họ chở đồ lên núi cho, em lên trên đó không được”.

Tôi cám ơn và trả tiền cho anh bộ đội. Nhớ lời những người bạn đi trước dặn ḍ, tôi hỏi thăm dân gần đó chỗ bán gạo để mua thêm cho chồng. Với chỗ gạo này hy vọng anh sẽ có được một khoảng thời gian không bị đói ḷng, sau đó tôi thuê mấy người tù h́nh sự sắp măn án được làm việc ở ngoài, chung với dân, chở đồ lên núi bằng xe cải tiến.

V́ đăng kư thăm nuôi quá trễ nên chiều hôm đó chúng tôi và một vài chị nữa phải ngủ lại “nhà khách” qua đêm, sáng ngày mai mới được gặp chồng.

Tôi trằn trọc măi, không thể nào ngủ được, phần v́ lạ chỗ, phần v́ nhớ đến anh, đến ngày mai chúng ḿnh mới gặp nhau, không biết bây giờ anh như thế nào nhỉ, gầy ốm hay già đi? Tôi ngồi dậy, quấn tấm chăn vào người đi ra đầu thềm nhà, ngồi xuống nh́n chung quanh. Trên cao ánh trăng chiếu những tia sáng nhợt nhạt xuống vùng thung lũng mù sương, ánh trăng thật lạnh và những ngọn gió đông cũng thật buốt. Tôi ngồi đó trong vùng tối nhạt nḥa để nhớ đến anh, nhớ thật nhiều, thương anh thật nhiều và cũng buồn cho thân phận hai đứa thật nhiều.

Chợt nghe thấy mặn ở bờ môi
Chợt thấy bơ vơ giữa núi đồi
Ước ǵ, em ước ǵ anh đến
Ấp ủ vai gầy một chút thôi

Vâng, đêm nay, chỉ ḿnh em bên thềm nhà khách, đối bóng ḿnh và bóng trăng trong cái giá lạnh thê lương của một mùa đông miền Bắc mà thấm thiết cái nỗi khổ anh đă phải chịu đựng trong bao nhiêu năm nay, em thật thương anh lắm, anh có biết không?

Trăng không xanh, mà lạnh năo nùng
Cái lạnh trong ḷng kẻ nhớ mong
Một người yêu dấu, ngàn xa cách
Mà nhớ, mà thương đến nát ḷng
Ngày mai hai đứa mới gặp nhau
Rồi lại chia tay, lại hẹn sầu
Em về, mang mảnh hồn tê tái
Anh ở, coi thường kiếp khổ đau

Trời chưa sáng rơ, chúng tôi đă dậy để lo sửa soạn cho buổi thăm nuôi, sắp xếp lại các đồ ăn, đồ dùng cho thứ tự gọn ghẽ, để khi các anh mang vào trong trại sẽ dễ dàng hơn. Xong công việc tôi và cô bạn ra bên thềm “nhà khách” ngồi chờ các anh. Một nhóm bốn cô gái từ trong trại đi ra, thấy chúng tôi, các cô đến làm quen:

-“Mấy chị ngồi chờ các anh ấy hả, chưa tới giờ đâu, tám giờ các anh ấy mới được ra cơ. Chị ơi, chúng em nghe nói các chị trong Nam biết bói bài tú lơ khơ hay lắm, chị có biết bói không bói hộ chúng em với”

-”Bài Tú Lơ Khơ là bài ǵ tụi tôi đâu có biết.”

Một cô ch́a ra bộ bài tây trong tay:
-”Tú lơ khơ là bài này đây“

-”À, là bài tây, tôi ...”

-”Chị biết bói bài hả, chị bói cho tụi em đi.”

Thế là họ rối rít đẩy tôi vào trong nhà. Một ư nghĩ chợt đến:”Tại sao ḿnh không lợi dụng mấy người này để xin thăm thêm giờ, biết đâu được, đi từ Nam ra Bắc vất vả bao nhiêu, nếu được thăm thêm cũng bơ cho công chờ đợi hơn bốn năm không một lần gặp mặt.” Nghĩ vậy nên tôi xem bói cho họ. Chưa xem xong cho người thứ hai th́ tôi nghe có tiếng lao xao ngoài cửa. Tôi ngó ra:

-”Có lẽ các anh ấy ra tới đó, thôi để khi khác...”

Vừa nói tôi vừa nhẩy xuống giường hấp tấp chạy ra cửa, quả nhiên các anh đang sắp hàng từ trong trại đi ra. Một cô chạy theo tôi:

-”Chúng em đợi chị sau buổi thăm nuôi, chị nhớ coi cho tụi em đấy.”

Lúc này tôi đâu c̣n tâm trí mà hiểu cô ấy muốn nói ǵ, tôi ừ đại cho xong chuyện.
Các anh đă tới gần, tôi lách người ra khỏi đám người đang nhốn nháo đợi người nhà, đưa mắt cố t́m anh. Anh kia rồi, nước mắt tôi trào ra. Anh của em đó ư? Cái người lính hào hoa ngày nào bây giờ như thế sao? cái con người gầy g̣ hốc hác, đen đủi này là chồng em sao? anh ơi, tôi nhào người ra ôm chặt lấy anh, nước mắt ràn rụa, ṿng tay này, hơi ấm này đă bao năm nay tôi chờ đợi. Anh d́u tôi vào pḥng thăm nuôi. Tôi ước muốn thời gian ngừng trôi để tôi măi măi được ở trong ṿng tay anh. Nhưng tiếng nói của người nữ trung úy công an đă tách chúng tôi ra:

-”Các anh ngồi một bên, người nhà một bên, thời gian thăm là 30 phút.”

Ba mươi phút thăm nuôi này cho quăng thời gian chờ đợi hơn 4 năm quả là quá ít ỏi cho tôi, tôi cố gắng kể cho anh nghe thật nhanh, thật ngắn và đầy đủ tất cả những ǵ về các con, về gia đ́nh, v́ tôi biết nếu tôi không làm vậy th́ những cảm xúc đang chất chứa trong ḷng sẽ bị trào ra theo ḍng nước mắt, và tôi sẽ không nói được ǵ. Anh ngồi nghe tôi với cặp mắt đỏ hoe, anh không khóc, nhưng tôi biết trái tim anh thật đau. Tôi muốn nắm lấy đôi bàn tay anh đang để trên bàn kia để trao tất cả t́nh yêu đậm đà nhất của tôi cho anh, nhưng không được, tôi đành nh́n anh để thu lấy tất cả h́nh ảnh yêu thương này vào trong trái tim ḿnh. Rồi anh kể cho tôi nghe sơ đời anh sống, nước mắt tôi cứ ràn rụa như không thể ngừng. Anh bảo:

-”Nghe anh này, đừng khóc nữa, phải giữ ǵn sức khỏe để c̣n lo cho các con, lo cho mẹ, cho bố thay anh v́ anh không biết bao giờ anh sẽ trở về..và...”

-”Em biết rồi, và em sẽ đợi chờ anh trở về phải không? Vâng em sẽ chờ, em sẽ chờ mà, anh tin em đi, em sẽ chờ đến khi nào anh trở về mới thôi, anh sẽ về, nhất định thế, anh sẽ về với em, với các con, em tin thế anh ơi.”

Tôi đă cố gắng không khóc nữa, cố gắng nuốt vào tận trong ḷng những giọt nước mắt đớn đau, đă nghe lời để anh đừng buồn.
Thời gian qua thật mau, đă đến lúc anh phải vào trại, lợi dụng lúc ra cửa, đông người nhốn nháo, anh ôm tôi thật chặt, và kín đáo hôn nhanh lên môi tôi. Nụ hôn này đến chết tôi cũng không thể quên.

Nh́n theo bóng anh đẩy chiếc xe cút kít, bước thấp bước cao, xa dần, tôi nghe trong tim một luồng buốt nhói dâng tràn, nhớ anh lắm anh ơi, thương anh lắm anh ơi. Sơn ơi.

Quay vào pḥng đóng thêm tiền ăn cho anh, sau đó khi tôi sửa soạn đi về, th́ một cô trong đội văn hóa đến gần th́ thầm:
-”Chị ơi, chị ở lại coi bói cho tụi em, em có xin với chị trung úy trại trưởng cho chị sáng mai thăm anh thêm một lần nữa.”

Nghe được thăm thêm tôi mừng quá:
- “Thật hả, được rồi tôi sẽ ở lại nhưng tôi c̣n người bạn đi cùng, cô có thể nói cho chị ấy cùng thăm thêm không?

-”Chắc được, chị trung úy c̣n ở bên kia, em qua nói ngay bây giờ“

Nhờ tài coi bói cho mấy người trong ban văn hóa của trại, mà tôi có hạnh phúc được thăm anh thêm một lần nữa. Lần này chỉ có mấy người chúng tôi đó là vợ chồng chị bạn, và vợ chồng tôi.

Có hợp rồi sẽ có tan, tôi nh́n theo bước anh quay vào mà tim như ră rời trăm mảnh, biết đến bao giờ ḿnh lại có lại nhau đây. Sơn ơi, em yêu anh thật nhiều, anh có biết không?

Hai đứa chúng tôi rời Ba Sao mà bước chân như ngập ngừng không muốn đi, như có ǵ níu kéo, như có ǵ cản ngăn. Anh ơi, có phải v́ t́nh yêu, có phải v́ thương nhớ mà bước chân em nghe nằng nặng, nghe vướng víu không nỡ rời hả anh? Nước mắt như đong đầy, tâm hồn như rạn nứt. Hai đứa đi bên nhau không đứa nào nói một câu, ḷng nặng đầy tâm sự, bước từng bước thất thểu như những bóng ma vật vờ.

Chúng tôi đi bộ từ Ba Sao ra bến xe lửa Phủ Lư. Trời đă về chiều, chỉ c̣n một chuyến xe chót để về Hà Nội nên người chờ rất đông. Tầu vừa tới, mọi người ùa nhau, chen lấn lên xe. Tôi và chị bạn nhờ nhỏ con và không có hành lư nên dễ len lỏi trong đám người cồng kềnh đồ đạc, tuy vậy cũng phải chật vật, vất vả lắm mới lọt được lên tầu. Dù đang trong mùa đông tháng giá, nhưng v́ người trên tầu quá đông, ai nấy cũng chỉ đủ chỗ đặt được hai bàn chân để đứng mà thôi, nên người nào người nấy mồ hôi chảy đầm đ́a, chợt trong không khí ngột ngạt ấy, một giọng đàn ông cất lên:

-“Trời ơi, ngạt thở quá, người ǵ mà đông thế này, cứ như lợn cả một lũ ấy”

Nghe câu nói có vẻ phỉ báng, mọi người nhao nhao lên:

-“Ăn nói kiểu ǵ mà mất dạy thế, người cả đây mà lại bảo là lợn, ai là lợn hả?”

Một cụ già thấy không khí có vẻ căng, nói đỡ:
-“Thôi bỏ đi, chàng thanh niên lỡ lời mà.”

-“Cháu không lỡ lời, là lợn th́ nói là lợn có ǵ phải sợ, nh́n xem, ai nấy đều bẩn thỉu, nhếch nhác, hôi hám, chen chúc nhau trong cái tầu cà khổ này. Không giống lợn th́ giống cái ǵ, c̣n sĩ diện hăo!”

Có lẽ thấm thía cái thân phận sống dưới một chế độ phi nhân như thế này, con người mà không được giống người lại giống lợn như lời chàng thanh niên nói, nên không thấy ai trả lời lại hết. Nửa đêm th́ tầu tới ga Hàng Cỏ, Hà Nội.

Tôi c̣n thăm anh thêm một lần nữa th́ đến cuối năm 1980, các anh được chuyển vào miền Nam ở tại Z30D Rừng Lá, Hàm Tân. Trong Nam, những chuyến thăm nuôi chồng cũng đỡ vất vả hơn và nhất là không phải chen chúc nhau trong những toa tầu chật hẹp, hôi hám và cũ kỹ để được ví như một bầy lợn nữa. Vào thời điểm của năm 1980, đă có lác đác người từ địa ngục trở về, v́ thế niềm hy vọng anh cũng sẽ về đoàn tụ với mẹ con tôi đă bắt đầu nhen nhúm chút chút trong ḷng. Và cuối cùng th́ niềm hy vọng đă thành sự thật khi cầm trong tay tờ giấy báo anh được trả tự do. Niềm vui vỡ ̣a thành những ḍng nước mắt tưởng đă cạn kiệt từ lâu, lại có dịp tuôn chảy:

Anh trở về sau bao năm tù ngục
Để xóa đi những tủi cực ngày qua
Để em anh không c̣n phải xót xa
Và mơ ước một ṿng tay ấm áp...

Tháng 7 năm 1982 anh từ nhà ngục nhỏ trở ra nhà ngục lớn. Cái hạnh phúc nhỏ bé ngỡ đă xa tầm tay, nay đă về đây, bao trùm lên căn nhà mà từ ngày anh đi, vốn đă trống vắng cả vật chất lẫn t́nh yêu, nay lại đầy ắp tiếng cười, dù nụ cười không tươi, không trọn vẹn trong cái địa ngục trần gian này. Nhưng có anh là có tất cả, anh có biết không, người lính ngày nào của miền Nam yêu dấu.

Tường Thúy
Tháng Tư năm 2005
Tucson - Arizona - USA

 


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại