Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hăn
1.Chuyện 30 Tháng Tư
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon,
tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ
Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 BB. Khoảng ba tuần trước khi
mất nước th́ tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viên Tây Ninh
vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương 1 tháng ở Saigon.
Ngày 29 tháng 4, tôi nhờ chú em bà con chở ra bến Bạch Đằng Saigon
xem t́nh h́nh và thấy rất nhiều tàu kể cả chiếc Viet Nam Thương Tín,
Trường Xuân, Tàu Hải Quân, trong số này có một số tàu đánh cá của
một công ty Đức, to rộng răi và bằng sắt đàng hoàng. Trở về nhà, tôi
hối Ba đi trước với chú em con bà Cô. Hai chú cháu lọt được vào căn
cứ Hải Quân và đi theo họ. Riêng tôi c̣n lần khân ở lại, hy vọng đến
phút chót có thể gặp lại được Quỳnh Hoa, người yêu đầu đời của ḿnh,
nhưng phép lạ không xẩy ra.
Sáng ngày 30 tháng Tư, tôi trở lại bến Bạch Đằng, Chiếc tàu Trường
Xuân vẫn c̣n đó, đầy nhóc người, kẻ lên người xuống tấp nập. Từ giữa
sông chiếc VN Thương Tín bắt đầu di chuyển về phía kho 5. Tôi đạp xe
lần theo, nhưng không vào được cổng. Lính gác cổng không cho vào,
phải chi tiền, mà tôi th́ chỉ c̣n hai tờ Đức Thánh Trần thôi. Người
ta đang phá các kho thực phẩm để khuân vác về nhà. Tôi ghé quán chú
Ba ăn no bụng và mua một mớ ḿ gói mang theo rồi đi ngược về phía
Saigon. Dân Saigon ào vào mấy chung cư Mỹ khuân ra nào TV tủ lạnh,
giường nệm, . Ngang qua ṭa Đại sứ Mỹ, c̣n vài người lảng vảng ở đó,
cửa đóng, bên trong im ĺm. Tôi lại trở ra bến Bạch Đằng, nhảy qua
mấy chiếc tàu đánh cá của Đức, leo lên chiếc đậu ngoài cùng.
Chừng nửa giờ sau, một đám quân nhân súng ống đàng hoàng từ trên 2
xe jeep nhảy xuống, hộ tống một ông mặc đồ vest mang theo cái
samsonite căng phồng. Họ nhảy xuống mấy chiếc tàu đánh cá, rồi thử
nổ máy từng chiếc. Cuối cùng họ nhảy lên tàu tôi đang đứng, Lính
tráng dàn hàng ngang bên thành tàu, súng chĩa vào bờ, không cho ai
lên nữa. Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, chiếc VN Thương
Tín ḅ ra giữa sông hướng về Vũng Tàu. Thuyền của tôi theo sau một
quăng. Tàu VN Thương Tín đi được một đỗi th́ bên kia Thủ Thiêm các
đồng chí tương cho 3 quả đạn. Tôi thực sự chẳng biết là đạn ǵ. có
thể là đạn sung cối. Con tàu VN Thương Tín bèn quay đầu lại 180 độ
đi ngược lại một chút, rồi lại quay đầu một lần nữa 180 độ đi thẳng
về hướng Vũng Tàu.
Khi tàu chúng tôi đến tầm súng của các “đồng chí”, mấy Sếp lớn rút
vào pḥng lái, c̣n các người khác nằm rạp trên sàn tàu phó mặc cho
định mệnh. Tôi và một ông Thiếu Tá cảnh sát, nằm bên cạnh cửa pḥng
lái hướng về Saigon. Nín thở qua sông! Ông ǵa cảnh sát đang lâm râm
cầu nguyện, c̣n tôi cũng xin Đức Thánh Trần phù hộ cho tai qua nạn
khỏi. Đúng lúc ấy th́ nghe một tiếng “bụp” từ phía bên kia Thủ Thiêm
dội qua, sèo sèo qua đầu rồi nổ ầm một cái dưới nước, hơi dài! Một
phút sau lại một tiêng nổ nữa dưới nước, hơi ngắn! Tôi nghĩ bụng:
”Các đồng chí ấy đang điều chỉnh đây, một quả dài, một quả ngắn, quả
thứ ba thế nào cũng trúng”
“ Ác thật, ai mà nhẫn tâm bắn vào kẻ đă buông súng đầu hàng!”
Một tiếng ầm vang lên, cánh cửa pḥng lái bung ra, lỗ tai tôi lùng
bùng, đầu kêu o o như có con ve sầu đang ca hát trong đó. Tôi nhủ
thầm, đạn trúng pḥng lái rồi. Con Tàu vẫn chầm chậm trôi đi như
không có chuyện ǵ sảy ra. Có ai đó đóng cửa pḥng lái lại. Tôi đoán
chắc có người bị thương nhưng tuyệt nhiên không nghe tiêng la khóc
ǵ cả. Một đỗi sau, d́u ông già đứng dậy. Ông ta chỉ bị thương nhẹ
trên môi, c̣n cẳng chân tôi máu chảy ra xối xả. Tôi vội xé chiếc áo
thun đang mặc và cột chặt phía trên chỗ bị thương, một lúc sau vết
thương ngừng chảy máu. Coi lại, thấy chỉ bị một mảnh nhỏ ghim vào
chân.
Chiếc tàu đánh cá chạy cà rịch cà tang sang Singapore. Mỗi ngày được
ăn một lần. Nhà bếp nấu một nồi cơm nhỏ, phát cho mỗi người một
muỗng cơm. Cứ ch́a tay ra, họ đổ muỗng cơm vào bàn tay, ḿnh hất vào
miệng thế lá xong.
Đến Singapore, có cả ngàn chiếc tàu lớn nhỏ đậu trong vịnh, nhưng
không ai được lên bờ. Họ cho thực phẩm, nước, và săng dầu rồi đuổi
cả đám qua Subic Bay bên Phi Luật Tân. Rồi qua Guam. Tôi gặp lại Ba
tôi và chú em ở đó, rồi cùng nhau qua Mỹ.
*
2. Một mảnh đời tị nạn
Định cư ở Mỹ, tôi làm lại cuộc đời từ con số không. Làm đủ thứ nghề
lao động.
Những ngày đầu định cư ở Oklahoma lạnh giá, mỗi sáng hai cha con đạp
xe đi làm trong trại ương cây. Chiếc xe tải mui trần chở một đám
nhân công ra cánh đồng để đào cây, bó chặt gốc bằng bao bố rồi quăng
lên xe tải. Cánh đồng mùa đông đầy tuyết, cứng như đá, những nhát
cuốc bổ xuống dội lên tê rần cánh tay. Chỉ đào mươi phút, thân thể
nóng ran phải cởi bỏ lớp áo lạnh dầy cộm. Một ngày chỉ đào được 3
cây là cùng, trong khi đó mấy ông Mễ cùng toán đào được it nhất 10
cây. Tuy vậy đào cây cũng không cực nhọc bằng khiêng một đống cây
mới đào quăng lên xe tải. Những gốc cây đầy đất và rễ, nhiều khi c̣n
nặng hơn cả thân ḿnh, làm sao khiêng nổi?. Mùa đông ở Oklahoma lạnh
đến nỗi nước hồ đóng thành băng thường xuyên. Những lúc buồn nhớ
nhà, ra ngồi bên bờ hồ, nh́n đàn vịt trượt tuyết trên mặt hồ làm
vui. Làm cho hăng trồng cây đâu được vài tháng, có người bạn giới
thiệu làm lau chùi quét dọn trong nhà thương. Tôi nhận ngay, it ra
cũng được làm trong nhà ấm cúng Tuần đầu Sếp giao đánh bóng sàn nhà
cả môt tầng lầu. Qua tuần thứ hai Sếp giao thêm một tầng nữa, tuần
thứ ba giao thêm một tầng nữa, như vậy cả thảy là 3 tầng phải làm
xong trong một đêm.
Một ngày nọ đi chợ, có anh chàng cao bồi da trắng cao nḥng, đứng
cạnh hỏi:
- Hi young man, are you Vietnamese?
- Đúng rồi, tỵ nạn mới tới đây!
- Tôi tên Joe, hân hạnh được biết anh.
- Tôi tên Lập.
- Láp, Láp hả. Tôi phát âm như vậy có đúng không?
- Không đúng lắm, nhưng cũng tạm được.
Từ đó tôi đươc gọi là Láp, giống như “bá láp” vậy.
Chàng cao bồi nói huyên thiên nhứ vớ được một người thân vắng mặt
lâu ngày. Tiếng mỹ ăn đong của tôi cũng lơm bơm hiểu rằng, chàng là
đầu bếp trong một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến ở Chu Lai. Về lại cố
hương, mở tiệm ăn nho nhỏ, hỏi tôi có muốn làm cho chàng ta không.
Công việc là phụ nấu bếp và rửa chén. Dĩ nhiên tôi nhận lời ngay,
nếu tiếp tục làm nhà thương chắc có ngày Sếp sẽ giao đánh bóng cả 20
tầng lầu.
Anh chàng “Cao Bồi” cũng tử tế, mướn giúp một căn nhà nhỏ, tặng cho
một tủ lạnh cũ. Chàng ta bán lại cho tôi chiếc xe hơi to cồng kềnh
với giá 100 đô, trả góp 10 đô một tháng. Xăng lúc bấy giờ chỉ 32 xu
một Galon (4 lít). Thuốc là vài đô la mỹ một cây 10 gói, hút chết
bỏ. Từ đó tôi cai thuốc lá luôn sợ ghiền thuốc chắc phải bán phổi
cho mấy bà nấu cháo ḷng. Đi chợ chỉ 20 Đô 2 người ăn 1 tuần rộng
răi.
Tiệm ăn nhỏ, Joe và tôi làm trong bếp. Bà xă tên Nancy và cô con gái
tên Kim làm tiếp viên. Kim c̣n rất trẻ, mới vào đại học.
Buổi trưa, khách chỉ lai rai, nhưng buổi tối và cuối tuần rất bận
rộn. Chẳng bao lâu, Joe mướn thêm người phụ bếp. Tôi được làm tiếp
viên và dọn bàn. Joe muốn tôi có cơ hội học thêm anh văn và có thêm
tiền “tip”. Lúc rảnh rỗi, hai chúng tôi kể cho nhau nghe những kỷ
niệm lúc c̣n ở Việt Nam. Kim cũng lắng nghe và góp ư kiến hoặc đặt
câu hỏi với tôi, Kim c̣n trẻ nên không hiểu mấy về cuộc chiến VN như
hầu hết sinh viên phản chiến lúc bấy giờ. Nàng cho rằng, tại sao
người Mỹ lại phải đổ biết bao tiền bạc và xương máu ở một xứ sở xa
lắc xa lơ chẳng ăn nhập ǵ với đất nước này. Người Mỹ lúc này chỉ
muốn quên đi chiến tranh VN. Những chàng chiến binh trở về từ chiến
trường VN không được đối đăi nồng hậu như thời Đệ nhất, Đệ nhị thế
chiến. Họ luôn mang mặc cảm, thứ mặc cảm mà giới truyền thông Mỹ đă
“brainwashing” (tẩy năo) dân chúng thời đó điển h́nh là nữ tài tử
điện ảnh Jane Fonda đă sang tận Hà Nội để ca tụng người Cộng Sản
chiến đấu anh dũng.
Tôi sắp xếp với Joe để chỉ làm việc từ 4 giờ chiều tới 12 giờ đêm,
công việc vẫn vậy, tiếp viên, phụ bếp, dọn bàn, lau chùi quét dọn
trước khi đóng cửa. Thật vất vả cực nhọc, nhưng tôi có cả ngày để đi
học. Kim giúp đỡ tôi rất nhiều trong những ngày đầu c̣n bỡ ngỡ, ghi
danh chọn môn học, xin tiền học bổng và trợ cấp của chính phủ, lựa
chọn thời khóa biểu, và nhiều thứ linh tinh khác.
Tôi không có bằng trung hoc của Mỹ nên phải thi bằng tương đương.
Cũng chẳng khó khăn ǵ chỉ là tŕnh độ trung học đệ nhất cấp của VN.
Lúc đó ngành điện toán mới bắt đầu phát triển vả lại học điện toán
chẳng đ̣i hỏi nhiều chữ nghĩa như các ngành khác. Tôi có thể bắt kịp
dễ dàng.
Ngày đầu đi học, tôi vừa vui mừng vừa e dè như cậu bé nép vào áo mẹ
đến trường mà Thanh Tịnh đă tả trong bài “Hôm nay tôi đi học”. Tôi
c̣n nhớ lơm bơm vài câu:
“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh. Mẹ
tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con
đường này tôi đă quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi
thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, v́ chính ḷng tôi
đang có sự thay đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”
Ngày xưa, trong thời chiến tranh tôi vẫn ước mơ như trong bài hát
“Qua Cơn Mê” của Nhật Ngân:
“Một mai qua cơn mê, qua cuộc đời bềnh bồng, anh lại về bên em …Cùng
theo lũ em học hành như xưa”.
Tôi đă qua cơn mê chưa nhỉ? Không theo lũ em học hành như xưa bên
quê nhà nhưng là đi một ḿnh, trên mảnh đất tạm dung, xa lạ. Tôi đă
già đi rất nhiều v́ chiến tranh. Năm 1976, 31 tuổi đầu 7 năm tuổi
lính. Không một mảnh bằng, không nghề ngỗng, chữ nghĩa ăn đong. Tôi
đi làm lại cuộc đời đánh mất!
Kim giúp tôi làm luận văn, đọc Hamlet của Shakespeare: “To be, or
not to be, That is the question”. Tôi chỉ nàng giải toán, sửa
program, môn toán “Math for Engineer” làm cho nàng nhức đầu c̣n với
tôi chỉ là dĩa cơm tấm sườn b́ tàu hủ ky!
Thời đó chưa có PC. Tất cả program phải dùng key punch (đục lỗ trên
tấm thẻ) rồi nạp cho computer operator đọc vào máy. Một program ngắn
cũng cần một số thẻ dầy cở một gang tay. Một lần, Kim cầm sấp “thẻ”
program của nàng để nạp cho operator chẳng may ai đó đụng vào cánh
tay, cả xấp thẻ rơt xuống đất. Phải mất rất lâu để gom lại và xếp
theo thứ tự. Giờ thi và nạp bài cuối khóa đă gần đến, nàng ngồi bệt
xuống đất thu lượm thẻ mà nươc mắt chạy ṿng quanh. Tôi đi ngang,
hối nàng vào pḥng thi, để xấp program đó tôi lo cho. Thi cuối khóa
nàng được điểm “A”, tôi được nàng tặng cho một nụ hôn nồng cháy nhớ
đời!
Thường th́ viết program rồi cho vào máy computer chạy thử, nếu sai,
sửa lại, chạy lại. Cứ như thế cho đến khi hết lỗi, rồi kiểm soát lại
kết quả mà program đưa ra xem có đúng như đ̣i hỏi không? Kim rất
thông minh, những bài program khó đến đâu, chỉ nói sơ qua là nàng
hiểu ngay. Chạy program hai, ba lần là sạch lỗi. Tôi cố gắng học tất
cả các khóa hè, cho nên cũng bắt kịp Kim. Chúng tôi ra trường cùng
một lượt. Ngày ra trường, Joe và Nancy được chúng tôi mời đi dự, có
cả Ông Bà nội của Kim nữa, hai ông bà là chủ một nông trại gần
Kansas City. Joe giới thiệu tôi là người VN, một cựu chiến binh. Hai
ông bà rất ngạc nhiên, chưa từng thấy người VN bao giờ, chỉ nghe nói
trên TV . Ông cũng từng là cựu chiến binh thời đệ nhị thế chiến, và
rất hănh diện. Ông Bob (ba của Joe) tiết lộ rằng ở tỉnh nhỏ, đám
thanh niên chỉ học cho lấy lệ, phần lớn giúp cha mẹ trông lo nông
trại, lớn lên nhập ngũ đẻ thỏa măn chí giang hồ v́ cả đời không có
dịp đi xa hơn tỉnh nhỏ của ḿnh!
Joe cám ơn tôi đă giúp Kim học hành, c̣n tôi cám ơn chàng đă cho tôi
cơ hội. Nancy rất cảm động nói với tôi:” Kim là người duy nhất trong
gia đ́nh tốt nghiệp Đại Học”.
Chúng tôi may mắn, kiếm được việc ngay sau khi tốt nghiệp trong một
hăng lớn đang có hợp đồng với Trung Tâm Không Gian tại Houston. Tôi
tiếp tục học thêm vào buổi tối, chẳng bao lâu lấy thêm bằng cao học.
Một lần nữa tôi mời Nancy, Joe và Kim đi dự lễ ra trường của tôi.
Joe đă đóng cửa tiêm ăn mấy ngày và bay qua Houston. Tôi cảm ơn Joe
và nước Mỹ đă cưu mang tôi và cho tôi cơ hội như ngày hôm nay. Chàng
ôm lấy tôi và nói trong nghẹn ngào:
- Tôi thành thực xin lỗi những người tỵ nạn VN, chúng tôi đă bỏ rơi
chiến hữu VN nhưng các bạn không hề oán hận. Tôi giúp cho Láp có giờ
đi học chẳng qua là muốn bạn đạt được những ước vọng mà tôi hằng
mong muốn.
- Cám ơn Joe, tôi chỉ cố gắng hết ḿnh và Trời cũng giúp tôi nữa.
- Những người chiến binh như tôi, khi nhập ngũ, ai cũng hy vọng đăng
lính vài năm rồi giải ngũ, quân đội sẽ giúp học bổng để tiếp tục đại
học. Nhưng thực tế số thành tựu không nhiều. Từ chiến trường VN trở
về chúng tôi với thân xác mệt mỏi, nghiện ngập, chán nản không mấy
ai nghĩ đến chuyện cắp sách đến trường nữa.
Tôi và Kim yêu nhau, lấy nhau. Joe trở nên cha vợ của tôi. Ở với
nhau một thời gian, những di biệt về văn hóa, tuổi tác, nếp sống
càng ngày càng lớn. Nàng luôn luôn tranh căi với ba tôi. Những buổi
họp mặt bạn bè hay gia đ́nh của tôi, mới đầu nàng cũng tham gia
nhưng dần dà càng thưa thớt hơn. Nàng không thể thưởng thức được món
ăn VN. Chúng tôi chẳng có con cái nên việc phải đến đă đến: ly dị.
3. Họp bạn Thanksgiving 1990.
Buổi tiệc họp mặt thân hữu cựu sinh viên trường Đại Học CTKD được tổ
chức trong pḥng Ball Room của Hilton Hotel trên lầu ba. Khách sạn
gồm 22 tầng lầu sát bên hồ Clear Lake, ngoại ô thành phố Houston.
Clear Lake cũng là tên của thành phố nhỏ rất thơ mộng này. Khách đến
đă đông, nhưng c̣n hơn một giờ nữa mới khai mạc. Bạn hữu lâu ngày
gặp nhau, tay bắt mặt mừng, hỏi thăm nhau kẻ mất nguời c̣n, ai đă
vượt biên, ai c̣n kẹt lại, tiếng cười ṛn ră, xen lẫn tiếng gọi nhau
ơi ới. Ai đó khoe làm ăn phát tài, kẻ khoe mới bắt được job thơm,
người khoe con cái đỗ đạt thanh tài, ôi thôi đủ thứ chuyện trời ơi
đất hỡi.
Tôi đứng bên cửa sổ, nh́n mông ra ngoài. Mặt hồ phẳng lặng, vài
chiếc du thuyền với những cánh buồm đủ màu sắc c̣n lưu luyến một
ngày sắp tàn. Bên kia bờ hồ, xe cộ nối đuôi nhau trên chiếc cầu cao
lêu nghêu in ḿnh trên nền trời, đèn xe sáng chói đan vào nhau dài
bất tận trông như một con trăn khổng lồ màu bạc. Đó là chiếc cầu bắc
ngang qua Water Way nối liền Hồ Clear Lake và Gaveston Bay, đủ cao
cho du thuyền qua lại.
Khu giải trí Kemah bên bờ vịnh với hàng chục nhà hàng sang trọng, đă
lên đèn sáng chưng. Chiếc đèn hải đăng bên phải hồ, gần mấy biệt thự
lợp ngói đỏ, thỉnh thoảng lại quét một vạch sáng trên nền trời như
muốn nhắc nhở ai đó, trên mấy chiếc du thuyền, hăy mau mau cập bến.
Ngoài xa tít kia là vịnh Gaveston, một vài tầu chở dầu đang nối đuôi
nhau đi vào Ship Chanel của hải cảng Houston. Những chiếc tàu dài
gấp hai ba lần sân đá banh, và cao hơn một cao ốc 20 tầng, nổi lềnh
bềnh trên mặt nước, Từ xa trông chẳng khác ǵ mấy chiếc thuyền ba lá
bên quê nhà. Vài đàn ngỗng trời bay về phương nam trốn lạnh, từng
hàng cánh trắng lấp lánh, phản chiếu chút ánh nắng yếu ớt c̣n sót
lại. Trời vào thu đă lâu, gần tới ngày lễ Thanksgiving rồi. Tôi cảm
thấy se lạnh và cô đơn giữa đám đông người.
Có ai đó đập khẽ trên vai tôi:
-Anh Lập ơi, có ai hỏi thăm anh nè, gớm t́m anh măi mới ra, sao lại
đứng đây một ḿnh vậy. Chắc đang mơ mộng người đẹp nào phải không?
Tôi quay lại, đó là Đạt, người bạn học cùng lớp khi c̣n ở Đại Học,
chúng tôi đă từng gặp nhau trong những lần họp mặt trước đây nên
nhận ra anh ngay. Tôi giật ḿnh, nh́n người đàn bà trung niên, đứng
bên cạnh:
-Có phải Quỳnh-Hoa đây không? Ôi! Thật là bất ngờ. Anh t́m em khắp
chân trời góc biển không ra. Ngọn gió nào thổi em tới đây?
-Ngọn gió Bấc đấy, bởi em ở gần Bắc Cực, anh có biết không?
Nàng chỉ nói được có bấy nhiêu rồi nước mắt ṿng quanh. Tôi cũng
không cầm được nước mắt. Đạt đă kiếm cớ lỉnh đi. Quỳnh-Hoa nói trong
tiếng nghẹn ngào:
-Em đă chịu bao nhiêu đăng cay cực khổ để chờ đợi anh trên xó rừng
cao nguyên đó, nhưng anh chẳng bao giờ trở lại. Em đă tưởng anh chết
mất xác đâu đó rồi. Không ngờ Trời Phật run rủi lại gặp anh ở đây.
Tôi cứ để nàng khóc và kể lể như vậy một lúc lâu cho vơi đi bao
nhiêu uất ức, sầu hận. Một vài người ṭ ṃ đi ngang nh́n chúng tôi
rồi bỏ đi. Cũng may, pḥng hội rộng thênh thang, chỗ tôi đứng ở cuối
pḥng xa hẳn đám đông nên ít người để ư. Hôm nay chắc cũng nhiều
người, gặp nhau lần đầu, phải đổ nhiều nước mắt.
-Anh xin lỗi em, lúc mất Quảng Trị, đơn vị anh từ vùng giới tuyến
rút về Saigon, anh đă t́m em ở tất cả những nơi có người tị nạn từ
miền trung hay cao nguyên chạy về, có lần ra tận Tuy Ḥa nữa nhưng
chẳng biết nhà mẹ em ở đâu. Anh chỉ sợ em lạc loài đâu đó trong đám
người rút theo tỉnh lộ số bảy từ cao nguyên về Tuy Ḥa.
Nàng hờn dỗi;
-Anh chỉ mong em chết đi phải không?
Tôi biết nàng bao giờ cũng yêu tôi hết ḷng và hiểu rơ ḷng tôi cũng
vậy, đó chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng mà thôi.
Nhạc trổi lên, ban tổ chức yêu cầu mọi người vào chỗ ngồi để buổi
tiệc được bắt đầu đúng giờ. Nàng chẳng quen ai ngoại trừ vợ chồng
Đạt nên tôi quyết định nhập chung với đám Đạt cho vui, toàn là bạn
cùng khóa thời sinh viên. Ban tổ chức không xếp chỗ, ai ngồi đâu
cũng được miễn là đủ 10 người một bàn. Tôi giới thiệu nàng với mọi
người cùng bàn:
-Thưa các anh các chị, đây là Quỳnh-Hoa, người bạn rất thân, quen
nhau từ thời tôi c̣n trong quân đội, chúng tôi đă suưt lấy nhau, nếu
không có vụ tan hàng hồi 30 Tháng Tư.
Có nhiều tiếng lao sao chọc ghẹo nàng:
-Tên đẹp như người, anh Lập thật là có mắt.
- May quá không có vụ “30 Tháng Tư”, anh Lập không bị đi tù cải tạo
cũng bị tù chung thân.
- Ê, có bao nhiêu người biết bị tù chung thân mà vẫn chui vào đó
thôi.
- Chắc chúng ḿnh sắp được uống rượu nữa rồi.
Nàng cười bẽn lẽn, hai má đỏ hồng, lúm đồng tiền vẫn c̣n đó, bây giờ
đă là thiếu phụ trung niên, vẻ ngây thơ hồn nhiên không c̣n nữa, có
mập ra một chút, hai bên khóe mắt đă xuất hiện “dấu chân chim” nhưng
thân h́nh vẫn cân đối trong chiếc áo dài màu tím. Nước da trắng bóc,
có lẽ ít khi ra nắng.
Chương tŕnh văn nghệ bắt đầu với giọng ca quyến rũ của Nguyên
Khang, bài “Tinh Tự Mùa Xuân” của nhạc sĩ họ Từ:
“Em, lại đây với anh, ngồi đây với anh, trong cuộc đời này”
“Nghe, thời gian lướt qua, mùa xuân khẽ sang”
“Chừng như không gian đang sưởi ấm những giọt t́nh nồng”
….
Tiếng hát vẫn vang vang, nhưng tôi không c̣n nghe được lời nào, lỗ
tai lùng bùng, đoạn phim dĩ văng lai trở về trong đầu tôi.
Ngày ấy, xa lắm rồi. Quỳnh Hoa tuổi đôi mươi, là cô giáo dạy ở
trường tiểu học Phú Nhơn, quận Cheo Reo. Tôi mới đến vùng này, là
một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Thời mới thân
quen, có lần tôi hỏi nàng:
- Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ?
- Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về
đây ngay.
- Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ?
- Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đă bỏ cả cuộc đời
để xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, dân
chúng từ miền ven biển và từ ng̣ai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đă
được Ba em tận t́nh giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn
điền của một xă phía Tây Quận Lỵ, Ba em đă lọt vào ổ phục kích và bị
sát hại. Khi ra trường, chính em đă chọn nơi này để trở lại...
Quỳnh Hoa không kể nhiều, nhưng đă đủ để tôi thấy vừa kính nể vừa
thương hại người con gái mới lớn. Dần dà, chúng tôi thấy gần gũi
nhau hơn. Tôi t́m thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm
gia đ́nh cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng
yêu bởi v́ chỗ nào cũng thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng.
Chúng tôi đă yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ Adrang chảy qua
quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi
yêu. Bên bờ sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa
mưa nước phù xa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần
hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề
ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đ̣ qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ
những băi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước
trong, gánh về để uống. Giữa ḷng sông nước trong vắt nh́n thấy cát
và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững lờ.
Chúng tôi đă ngồi bên nhau trên cây cầu sắt cũ kỹ bắc qua ḍng sông,
bốn chân để thơng xuống dưới đong đưa. Ḍng sông nước chảy lững lờ
trong vắt nh́n tận tới đáy. Mùa nước cạn, hai đứa rủ nhau lội qua
sông, sang phía hàng phượng vĩ mọc bên kia bờ. Nàng nhặt đầy giỏ
sách những cánh phượng màu đỏ tươi để trang trí lớp học cho đám học
tṛ nhỏ của nàng. Những đứa bé tiểu học mặt mũi nhếch nhác nhưng
nàng luôn săn sóc như những đứa em út. Chúng tôi đă hôn nhau lần đầu
ở đó, thề nguyền măi măi bên nhau ở đó. Một lần bên nhau, tôi đă ghi
vào vai cầu hai câu thơ con cóc: “Chiều về thấp thóang bên sông,
Thấy Qùynh thơm ngát thấy ḷng xôn xao...”
Nhưng rồi, cuộc triệt thoái cao nguyên quá đột ngột, rồi nước mất
nhà tan! Trôi dạt qua tới Mỹ, tôi chẳng hy vọng có ngày gặp lại
nàng.
Tiếng vỗ tay vang rần lẫn trong tiếng huưt sáo inh ỏi kéo tôi về
thực tại. Nh́n sang Quỳnh-Hoa, mắt nàng cũng đỏ hoe. Nàng lí nhí mấy
câu xin lỗi rồi rời khỏi bàn đi về phía cửa. Tôi vôi vàng đuổi theo
nàng. Chúng tôi ra phía sân sau khách sạn, vượt qua mấy bậc thềm và
hướng về phía cầu đá bên hồ. Cầu đá thực sự là những tảng đá lớn xếp
bên nhau thành một con đường ngắn, nhô ra khỏi hồ để người ta câu
cá.
Chúng tôi ngồi trên một tảng đá bằng phẳng bên nhau như ngày nào
ngồi trên chiếc cầu “Biên Giới” trong xó rừng cao nguyên. Cứ ngồi
như thế một lúc lâu, im lặng, nh́n mông ra ngoài hồ, xa tận những
ánh đèn bên khu giải trí Kemah, tận ngoài vịnh Gaveston, xa măi
ngoài biển Đông, về tận Saigon và lên đến xó rừng cao nguyên.
Tôi cởi áo vest ra đưa cho nàng:
-Em mặc thêm áo vào kẻo lạnh.
-Em không lạnh, ở xứ lạnh quen rồi anh ạ.
Nàng từ chối, nhưng vẫn đưa tay cho tôi khoác áo vào.
-Em sang đây lâu chưa?
-Mới hôm qua, cùng với anh chị Đạt, chúng em đặt pḥng ngay trong
khách sạn này.
-Em định cư ở đâu?
-Na Uy anh ạ. Xứ ấy lạnh lẽo quanh năm, nhưng t́nh người rất ấm. Họ
giúp đỡ người tị nạn tận t́nh. Lúc mới qua, được cấp cho nhà ở, bảo
hiểm sức khỏe đầy đủ, tiền ăn học và t́m việc cho ḿnh. Dân số rất
ít nhưng đời sông đầy đủ tiện nghi chẳng khác ǵ Mỹ, nhưng lạnh
quanh năm. Qua Houston thấy trời ấm áp em thích lắm.
-Làm sao em trôi dạt qua tận Na Uy lận?
-Lúc quân đội rút khỏi cao nguyên, em ở măi xó rừng chẳng có phương
tiện ǵ di chuyển cả, một lũ học tṛ bám theo em, không thể nào dẫn
các em theo được, nếu đi bằng đường bộ.
-Nên em quyết định ở lại?
-Dạ, sau này em mới biết, đó là cái may của em. Bao nhiêu người đă
chết trên đường số 7 từ Phú Bổn về Tuy Ḥa, con đường đó nguy hiểm
quá.
-Đúng vậy, lúc c̣n ở trên cao nguyên, có lần anh đóng quân ở quận
Phú Túc, đó là một quận nhỏ nằm giữa đường số 7. Con đường th́ nhỏ,
nhiều ổ gà, cầu cống hư hỏng nhiều, hai bên là rừng, rất dễ bị phục
kích.
- Những ngày tháng ấy, em đợi anh đến tuyệt vọng. Em nhớ lới anh thề
nguyện hai đứa sẽ thành hôn. Nào ngờ...
-Anh cũng muốn trở lại lắm chứ, nhưng anh chẳng làm chủ được định
mệnh của ḿnh. Anh như cánh lục b́nh trên ḍng sông, nước đưa đến
đâu th́ trôi đến đó. Em có nhớ ḍng sông của hai đứa?
- Chiều nào em cũng ra ngồi trên “Cây Cầu Biên Giới” của chúng ḿnh,
nh́n qua bên kia bờ sông, sờ tay trên hai câu thơ anh khắc trên
đó...
- Khoan kể, khoan nhắc. Để anh đọc thêm hai câu tiếp theo: “Chiều về
chiều vẫn một ḿnh, Trách người năm cũ bỏ t́nh bơ vơ...”
Quỳnh Hoa kêu:
- Anh... Anh có về t́m em thật à.
- Sao không thật! Ngay khi có thể bay về Việt Nam, anh đă đến Phú
Nhơn t́m em...
Tôi kể cho Quỳnh Hoa nghe chuyến trở về của ḿnh. Quang cảnh vẫn
không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như
ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đ́u hiu vẫn c̣n kia, hàng
rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn c̣n đó,
nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đă từng
in dấu chân nơi chốn này. H́nh ảnh ngày xưa vẫn c̣n đủ chỉ thiếu một
người. Quỳnh Hoa ngậm ngùi:
-Tiếc nhỉ, lúc đó em đă bỏ đi lâu rồi, mấy thằng cán bộ cứ theo chọc
em, rồi hăm dọa em, em nói em đă có chồng rồi, giống như chi Lan,
chị Mai, chị Tú đều bị gọi là vợ ngụy quân cả. em cũng nhập chung
với các chị ấy. Có vài chị độc thân không chịu nổi áp lực, đành phải
lấy cán bộ. C̣n em, có lúc muốn đâm đầu xuống sông chết cho rồi.
Nhưng lại nghĩ tới anh nên ráng chịu đựng. Trong ḷng em lúc nào
cũng chỉ nghĩ đến chuyện vươt biên thôi. Ngày nọ em xin nghỉ phép để
về thăm nhà, rồi cùng Mẹ và hai đứa em trốn ra Vũng Tàu, ở tá túc
nhà ông chú. Gia đ́nh chú tổ chức vượt biên, em gom được ba cây rưỡi
vàng giao cho chú. Số vàng này em để giành từ trước năm 75 định sẽ
chi tiêu vào dip đám cưới của chúng ta.
-Tội nghiệp em, rồi sao nữa.
-Thuyền ra khỏi hải phận vài giờ th́ hư máy, bao nhiêu tàu buôn đi
ngang qua nhưng chẳng ai ngó ngàng tới. Cho đến một ngày, một chiếc
thuyền buôn của Na Uy chịu cứu vớt và chở thẳng vào Mă Lai, sau đó
Na Uy đă bảo lănh tất cả số người trên tàu. Lúc đó em thật bơ vơ,
một ḿnh phải lo cho mẹ và hai đứa em nhỏ, chẳng biết trông cậy vào
ai. Em lại nghĩ đến anh, vừa buồn vừa tủi thân. Chính phủ Na Uy giúp
cho chỗ ăn ở và giúp cho mấy chị em đi học, Mẹ th́ được một việc làm
trong siêu thị. Đời sống chật vật lúc khởi đầu nhưng cũng tạm ổn
định.
-Em học về ngành ǵ vậy?
-Em học kế toán, lúc đầu cũng thật khó khăn, nhưng nhờ các giáo sư
thông cảm và tận t́nh chỉ dạy rồi em cũng tốt nghiệp, hai đứa em của
em cũng ra trường kỹ sư một thời gian sau đó. C̣n anh sao qua được
Mỹ?
Sau khi kể lại chuyện ra đi ngày 30 tháng Tư của ḿnh cho Quỳnh Hoa
nghe, chúng tôi ngồi yên lặng bên nhau.
Tôi muốn nói với nàng trăm ngàn điều nhưng vẫn không mở miệng được.
Thời gian đă khác, hoàn cảnh đă khác. Khuôn mặt nàng hiện lờ mờ
trong bóng tối. Tôi khóc lúc nào mà không biết. Không biết tôi khóc
cho số phận gian truân của chúng tôi, của cả dân tộc tôi bị đọa đầy
hay cho hạnh phúc muộn màng của hai đứa chúng tôi.
Minh Đạo & Nguyễn Thach-Hăn
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại