Sơn-Tùng
Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan ră vào trưa ngày 30/4/75,
sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm
vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng
Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng
18 năm, hầu như vẫn c̣n in rơ trong tâm niệm của hàng triệu người
lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau
xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang
theo.
Mười tám năm sau khi tan hàng ră ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm,
chân dung thật của người lính VNCH vẫn c̣n bị che mờ sau những màn
khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới,
không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngă như
người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đă buông
súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận
nghiệt ngă bám theo ḿnh.
Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ và bền bỉ trong
cuộc chiến chống cộng ṛng ră suốt 3 thập niên.
Tuyên truyền CS vu cáo họ là "những tên lính đánh thuê", là bọn
"ngụy quân" phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bào.
Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công - qua một số cấp chỉ huy
thối nát, bất xứng - vẽ lên h́nh ảnh những người lính chỉ biết
nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và "không chịu chiến đấu".
Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH
bị lăng nhục hơn nữa. Kẻ thù, sau khi "lượm được chiến thắng", đă
tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người
lính bại trận. "Bạn bè", khiếp sợ trước "chiến thắng thần thánh"của
đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của
ḿnh, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đă bị bắt
buộc phải buông súng.
Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao
cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu,
Nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, c̣n
sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài
nước, những người đă nhờ máu của người lính VNCH mà được hưởng tự do
trong hơn 20 năm để viết ra những ǵ họ nghĩ, cái tự do trong cái
giới hạn trong một xă hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị
trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn
nầy đă và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những
khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sỉ hơn nữa, vu cáo
những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát
máu, không nhân tính, không lư tưởng. Đâu là chân dung thực của
người lính VNCH?
Năm 1984, trước bộ phim được gọi là "tài liệu lịch sử" dài 13 giờ
chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử
Truyền H́nh) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đă
viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ư của những người làm
phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là
giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam "được làm vua, thua làm giặc".
Cái tựa đề ấy đă xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người
lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương
thiện và trung thực trong "thế giới tự do" đă đóng góp vào việc tái
tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.
Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn "Thiên Anh Hùng
Ca Viết Cho Quân Lực VNCH", dùng những chất liệu lịch sử và những
bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ găy những sư
vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền
thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đă chiến đấu trong
những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường
dài lịch sử mà ông cho là "kể về sự khắc khổ và chịu đựng c̣n vượt
xa con đường Vạn Lư Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách
thiêng liêng, vị tha và cao quư c̣n vượt xa các cuộc Thánh Chiến
Thời Trung Cổ."
Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở b́a cuốn
sách, với h́nh ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng
ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới
đầu gối và cây súng thô sơ trên vai. Qua gần 300 trang sách với thật
nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm
Kim Vinh đă đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đă
đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng
thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt
tḥi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày
30/4/75.
Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim
ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đă có rải rác những cái
nh́n công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc
chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.
Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải
Pulitzer, đă viết một bài b́nh luận dài trên tờ Wall Street Journal
(2/5/75) tựa đề "Truy điệu Nam Việt Nam", trong đó có đoạn viết về
Quân Lực VNCH như sau:
"...Nam Việt Nam đă chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đă không
phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xă hội nào bền bỉ
chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậy... Quân lực VNCH
đă chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta
c̣n nhớ, thí dụ như trận An Lộc. Quân đội ấy đă chiến đấu giỏi và
can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không c̣n nhớ địa danh.
Quân lực ấy đă can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ,
và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe
rất xa lạ với người Mỹ...
Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đă tử trận. Hơn nửa triệu
người của quân lực ấy đă bị thương... Và trong những tuần lễ chót,
khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đă thua rồi th́ vẫn
c̣n những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân
Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt
lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đă tài
giỏi hơn sự ước lượng của người ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đă là
phía tốt hơn".
Không phải đợi tới ngày nay, 18 năm sau, người ta mới khẳng định
được rằng "phía mạnh hơn không phải là phía tốt". Phía tốt hơn đă
trở thành phía yếu hơn và đă bị đánh bại trên chiến trường chỉ v́ đă
trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bội. Người lính VN đă
chiến đấu cho tự do đă bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào
lúc hiểm nghèo nhất. Trong cuốn "Not with guns alone", nhà báo lăo
thành người Úc Denis Warner đă lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ
quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu
đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn
hết viên đạn cuối cùng. Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ c̣n được
cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nă vào các
căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.
Tác giả Mỹ Louis A. Fanning cũng viết như sau trong cuốn "Sự phản
bội tại VN" (Betrayal in Vietnam):
"Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ th́ quân đội
Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiều. Trước kia, mỗi khinh binh
đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ c̣n được
phát có một trái".
Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ
đă kết tội người lính ấy "không chịu chiến đấu" trong khi cả "thế
giới tự do" không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định
Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng vơ lực. Sự hèn nhát nầy đă bị
nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, v́ ư chí tự
vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới c̣n thua xa ư chí chiến
đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đă bị bỏ rơi với lời biện hộ
"không thể bảo vệ những người không có ư chí để tự bảo vệ!"
Sự hèn nhát và vô đạo ấy đă làm thức tỉnh lương tâm một số người
từng góp phần cổ vơ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến
những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có
3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba
nhà báo nầy đă có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của
Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng "bộ đội giải phóng" để chứng kiến cái
chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đă phỉ báng trong suốt bao
nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đă
làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những ǵ họ viết ra.
Jean Larte'guy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại
Saigon:
Thứ Hai 28/4/75.
Saigon sáng nay yên tĩnh. Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng
vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ
không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự
một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ c̣n cười với nhau, và liệng cho nhau
những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ,
về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ
nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn ḿnh trong những đổ nát
của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vớ nầy vẫn c̣n có được các cấp chỉ huy ở bên
họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem t́nh h́nh
ra sao. Ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến
đấu. Hăy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải v́
Thiệu, v́ Hương hay v́ Minh.
Sau khi Dương văn Minh đă tuyên bố đă đầu hàng. Larte'guy lại được
chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại
Saigon, và ghi lại như sau:
"Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30
trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về
sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ
nên ngưng chiến đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy c̣n
đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung v́ đạn trong xe. Quân Dù
không để lại trên trận địa một thứ ǵ, dầu là vũ khí, đồ trang bị,
người bị thương hoặc người chết". Larte'guy cũng được thấy tận mắt
các sinh viên Trường Vơ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH,
tiến ra trận địa.
"Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh
viên anh dũng của Trường Vơ Bị Đà Lạt đă đi vào chỗ chết. Chỉ c̣n
thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng".
Một đồng nghiệp của Larte'guy là Raoul Coutard đă thu được cảnh xuất
quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các
sinh viên sĩ quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không ?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- V́ sao?
- Tại v́ chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
"...Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua
tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Ḥa... Bộ binh th́ tiến từ phía Bến cát và
Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5
giờ chiều. Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy đă bị chặn
tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn
4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan
to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lịnh ngưng bắn. Các đơn
vị cộng quân bị thiệt hại nhiều. Sau đó, chúng c̣n phải giao tranh 2
lần trên đường phố Saigon: một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ;
nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một
giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngă tư Hồng
Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù vơ trang đại
liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ
đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành ṿng tṛn rồi cho nổ một tràng
lựu đạn tự sát.
Đến chiều tối. 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và
từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và c̣n chiến đấu gần chợ
chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại
tá Vinh cho lịnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm
để rút về đồng bằng."
Darcourt cho biết đại tá Vinh đă ở lại vị trí và tự sát.
Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng
được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại. Nhà báo lăo thành
người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư
lịnh sư đoàn 5, như sau:
"...Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liên lạc với quân
khu III tại Long B́nh. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết
định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I
của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn
xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát".
Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, kư giả
Mỹ Alan Daeson thuật lại:
"...Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lịnh vùng 4 và đồng
bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đă hết, khi ông
ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các
tướng lănh cương quyết ở lại, tướng Nam đă chiến đấu cho đến phút
chót... Ông ra lịnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời
bản doanh.
Ông ta c̣n đích thân đi quan sát tiền tuyến nữa. Ông ta đă bắn viên
tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, v́ kẻ ấy nhất định đ̣i
đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái
lịnh của tướng Nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam
th́ tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng vơ trang đuổi theo, rồi bắn
ch́m chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.
Tướng Nam chẳng có ǵ để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót
của một chiến binh. Ông đă thật sự dâng cuộc đời ḿnh cho cuộc chiến
đấu ấy. Trong ṿng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lịnh đầu hàng trên
đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp c̣.
Ông ta chết ngay tại chỗ."
Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn
kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong đó theo
viên tướng Pháp Vanuxem th́ cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH
hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được
sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đă trôi qua
trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đă được "những con
người may mắn" thủ đắc. Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa. Và đây là cái
"phần thưởng" mà xă hội miền Nam ngày trước đă đền đáp cho sự hy
sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ng̣i bút của Phan
Nhật Nam:
"Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc,
ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét,
mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ
nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ
bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những
cồn cát, 30 đêm ngũ vơng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt
sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc
chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong
tháng".
Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, th́ đây là thân
phận vợ con người lính:
"Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ
lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng,
cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các
đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé
sẽ mặc cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô,
chân tay là những rễ cây khẳng khiu... Những người vợ lính, và đứa
con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt
thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ..."
Cuộc chơi rơ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài
chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay! Cuộc chơi
tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạo. Đui, què, mẻ
sứt... không c̣n được ai nhắc tới, biết tới. những người chết không
yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
Ba mươi bảy cái 30/4 đă trôi qua, hào quang của những kẻ đă chiến
thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đă tắt lịm trong cái xă hội
cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con
người vẫn c̣n muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH ?
Sơn-Tùng
Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng
chúng tôi
Bài thơ trên
đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái
ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi
tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây
Du Hí truyện
Làm trong
sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối
trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn
nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy
Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng
không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên
Soái hạm
HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm
ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu
chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc
Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước
Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở
trại Cổng Trời
Một đời
binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải
trên vùng biển băo tố
Chuyện người
lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ
tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những
SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày
tháng cũ
Tự truyện của
một phi công
Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính
Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ
vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài
qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực :
Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người
Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người
vợ lính
Chuyện t́nh
với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử
- Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê
hương
Here and
There In The Homeland
Người c̣n
nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung
với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và
Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại
Quốc
Đêm liêu trai
B̀NH-TUY,
những ngày cuối cùng...
T́nh Anh
Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của
HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận
Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày
ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây
Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc
sống quả phụ
Thượng Tọa Thích
Quang Long
4 ngôi
mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu
Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi
anh Tŕu mến
Thiên bi hùng
ca QLVNCH
Để nhớ lại
những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 -
LĐ81 BCD
Trận đánh
cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù
cộng sản...
Sông Mao, phi vụ
ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của
tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng
hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một
Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ
tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và
người t́nh
Tôi vào học viện
Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của
một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính
VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội
Thiên Nga
Viết về ngày QL
19/6/2011
Người không nhận
tội
Chào cô ... em gái
Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh
chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan
tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ
hỏa lực 6 Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi
toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Người không nhận
tội
Tháng 4 xót xa
T́m
lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi
hờn di tản
Charlie, ngọn
đồi quyết tử
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người
Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh
Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính
Địa Phương Quân
Quốc lộ 20
- hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n
đâu?
Vinh danh
Tướng Đỗ Cao Trí
Trung
Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết
tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi
mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân
trường
Anh trai Biên
Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt
Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời
lính...
Câu
chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những
mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử
của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người
Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi -
Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người
ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn
đèn
Chiếc áo phong sương t́nh
anh nặng
Người lính VNCH
trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ
trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng
sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của
người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong
đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh
"homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được
xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận
Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày
người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ
thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất
chữ "S"
Thân phận người
lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia
Trung ...
Những mảnh đời dang dở
- phần 2,
phần 3,
phần 4,
phần 5,
phần 6,
phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời
chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh
người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực
19-6-73
Vinh danh người lính
VNCH
Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi
hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời
trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của
tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những
mùa Thu
Những chuyện
trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của
cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn
chương
Kỷ niệm nỗi
trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể:
Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một
lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă"
trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi
Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở
cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm
thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm
thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh
phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca
Phụ nữ Việt Nam qua
Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng
nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông
Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi
dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những
giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương
Đường đi không đến
Xương trắng
Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số
phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô
chở mùa xuân
Em đi để lại con
đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù
Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con
đường không lối thoát
Những
bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày
để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng
Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc
đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan
Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh
Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có
chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị
trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông
bạn già năm xưa -
English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà
Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm
gịng đời...
Không cho phép ḿnh
quên
Thảm sát trên đảo
Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không
đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại