Tù binh & Ḥa b́nh (đoạn kết)

Phan Nhật Nam

11. Những con số đau đớn

Theo Điều 8a của Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam, trong ṿng 60 ngày kể từ ngày kư kết 27-1-1973 những phe tham chiến tại Việt Nam sẽ trao trả hết số tù quân sự và thường dân nước ngoài hiện đang bị giam giữ,...đồng thời phải trao đổi ngay danh sách đầy đủ về số tù nhân này trong ngày kư kết.

Vấn đề tù binh dân sự Việt Nam được qui định giải quyết trong một thời gian 90 ngày đặt căn bản trên Điều 21 (của Ḥa Ước Genève (Điều khoản này định nghĩa : Nhân viên dân sự bị bắt là người đă tham gia vào cuộc đấu tranh vũ trang hoặc chính trị tại một bên ở Việt Nam mà bị bên kia bắt giữ. Cuộc tham gia này có thể là dưới nhiều h́nh thức miễn không là ở cương vị người lính.
Vấn đề cụ thể và đau đớn của cuộc chiến, một cuộc chiến khốc liệt cao điểm của phương thức chiến tranh giải phóng, cuộc chiến tinh quái độc hại rối rắm nhất của nhân loại được giải quyết bởi 11 gịng gồm 195 chữ của Điều 8 HĐ và bốn trang của NĐT gói ghém toàn bộ cách thức giải quyết. Trên cơ sở mong manh hàm hồ nhiều cạm bẫy này, vấn đề tù binh dần được giải quyết với sự thiệt hại nghiêng dần về phía Việt Nam Cộng Ḥa. Phải viết đủ bốn chữ như thế để phân biệt với “hai” thứ Việt Nam kia, những người Việt no say hưởng bữa tiệc rượu máu của những người Việt đang bị giam giữ: Những quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa.

Trong những ngày soạn thảo văn bản Hiệp Định và các Nghị Định Thư, không hiểu những người có nhiệm vụ bớt từng chữ, từng câu khi cố t́nh loại bỏ sự có mặt của quân đội Bắc Việt, của “nước” Bắc Việt để che dấu những thỏa thuận biển lận, thâm độc chính trị, có nghĩ rằng họ đang sửa soạn một bữa tiệc máu: Máu những người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị quân đội Bắc Việt bắt giữ khi giao tranh. V́ Điều 1 và 2 NĐT/TB không có phân biệt rơ ràng để xác định có bao nhiêu loại tù binh, nên dù cố gắng soi sáng bằng tất cả mọi góc cạnh tỉ mỉ mười bốn hàng chữ của hai điều khoản đó, ta cũng chỉ nhận được có bốn loại tù binh : Tù binh Hoa Kỳ và quân đội nước ngoài (Những nước đă tham chiến giúp VNCH), thường dân nước ngoài thuộc quốc tịch Hoa Kỳ hay của bất cứ nước nào khác (Phi, Úc, Nhật...) và hai loại tù dân - quân sự của miền Nam Việt Nam : tù do Việt Nam Cộng Ḥa bắt giữ và tù của Mặt Trận Giải Phóng!! Không có một gịng chữ nào gợi đến những người lính chính qui đă phát xuất từ Bắc Việt theo đường ṃn Hồ Chí Minh vào tham chiến tại mặt trận B2 (Trị Thiên), B3 (Ba biên giới)... Không có một chữ, nghĩa dù mơ hồ để chỉ những tù nhân quân sự bị bắt tại trận địa, ḿnh xâm câu “Sinh Bắc Tử Nam”, trả lời thẳng thắng: “Tôi thuộc Sư đoàn 304B do Thượng Tá Nguyễn Sơn chỉ huy, đơn vị thành lập năm 1965 tại Thanh Hóa, xâm nhập miền Nam ngày 9-10-1967, tham chiến tại Khe Sanh kể từ ngày 19-1-1968...” Không có một gịng chữ để chỉ loại tù này: Những người lính đi B (đi Nam) và lẽ tất nhiên cũng không có chữ nghĩa vô ích để gọi đến cái Sư đoàn 304B kia! Kinh khiếp thật, cả thế giới a ṭng cùng quân cướp, trong đó có những người được nổi tiếng v́ hoạt động cho ḥa b́nh!! Và thê thảm hơn cả, đau đớn hơn cả, hệ luận tất nhiên của hai điều khoản trên ắt phải xảy ra: Không có quân nhân Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt bởi quân đội Bắc việt... Tóm lại: Chiến dịch Hạ Lào (2-1971), chiến dịch đánh vào hậu cần Cục R trên đất Miên (5-1970), rơ rệt nhất là cuộc tổng công kích vào miền Nam trong Tết Mậu Thân, và mới mẻ hơn hết: Cuộc đại chiến mùa hè 1972, những cuộc giết người vĩ đại được hợp thức hóa thành chiến tranh cục bộ do phong trào “Nhân dân miền Nam giác ngộ yêu nước chủ động hoặc do Nhân dân Khmer và Pathet Lào kiên cường chống xâm lược...” Người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt trong các trận chiến nầy bị hư vô hóa, vô hiệu hóa và vô tính hóa. Không có loại tù binh đó trong Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam. Vấn đề tù binh sẽ được giải quyết trên căn bản “Ḥa hợp, ḥa giải dân tộc, chấm dứt thù hận, giảm bớt đau khổ và để người tù đoàn tụ với gia đ́nh...” Cả thế giới hoan nghinh tinh thần đẹp đẽ và điều khoản nhân đạo của Hiệp Định... Người tù quân sự VNCH, anh ở đâu? Cả thế giới đồng ḷng xóa bỏ sự hiện diện đau đớn bi tráng này. Thế Giới, Nhân Loại, trong khi ngửa cổ uống ly rượu “ư thức ḥa b́nh tiến bộ” có nghĩ đến những người lính miền Nam đang bị cùm chân ở núi rừng Cao-Bắc-Lạng. Người Tù rớt khỏi tṛ chơi Ḥa B́nh.

Để trao đổi với VNCH khi bên này công bố bảng danh sách tù quân sự 26.750 người của Mặt Trận Giải Phóng bị giam giữ. Trong danh sách 26.750 tù binh cộng sản, VNCH liệt kê các thành phần: Quân đội chính qui Bắc Việt xâm nhập; lực lượng hồi kết (Thuộc các đơn vị ở Trung và Nam Việt Nam tập kết ra Bắc sau Hiệp Định Genève 1954 và xâm nhập về Nam từ 1959 trở đi...); đơn vị chính qui và du kích thuộc MT. Đối lại, MT chỉ ghi chú số 5.018 người là do quân giải phóng bắt giữ được trong mười năm chiến tranh. Cộng sản chỉ dự trù trao trả cho VNCH những tù binh phần lớn bị bắt trong năm 1972, một số ít của những năm 68, 69, 70, 71... Tù binh trước năm 68 không hề được đề cập và liệt kê vào danh sách. Thâm hiểm hơn hết họ không trao trả số quân nhân VNCH đă bị bắt trong các cuộc hành quân vượt biên với lư luận đây là tù binh của Phathet Lào và của Khmer Đỏ.

Phía VNCH không thể nào chấp nhận danh sách 5.018 người kia trả là tổng số thực tế của mười năm dài chiến trận. Không thể chấp nhận nầy v́ sẽ phạm tội đồng lơa khi gọi số lượng nhỏ kia là con số thực tế. Sau cuộc trao trả, khi so sánh danh sách 5.018 người được trao trả nầy với danh sách đă phổ biến tại Ba Lê người ta thấy ngay được con số lớn chênh lệch: 29 sĩ quan, 1033 binh sĩ và hạ sĩ quan (Có tên trong danh sách 5.081 phổ biến ở Ba Lê) nhưng không được trao trả. Sự kiện có thể hiểu theo hai cách: V́ có 29 sĩ quan và 1033 hạ sĩ quan, binh sĩ trong danh sách này đă chết nên bây giờ phía cộng sản thế vào bằng một số người khác; hoặc 29 sĩ quan và 1033 binh sĩ sau này tuy không được liệt kê vào danh sách Ba Lê như dự trù nhưng v́ danh sách thiếu hụt số lượng người trao trả nên họ bù vào cho đủ số. Tất cả hai luận lư đều có chung một kết luận: “C̣n rất nhiều quân VNCH hiện đang c̣n bị giam giữ trong lao tù cộng sản”. Như dẫn chứng sau đây, Tiểu đoàn 101 pháo binh đóng tại Gio Linh, tháng 3-1972; Bắc quân mở đầu đại chiến mùa hè, căn cứ hỏa lực của tiểu đoàn nầy bị tràn ngập, trung úy Thành bị bắt và đem giam tại Bắc Việt. Một bức ảnh chụp tù nhân VNCH tại miền Bắc trong đó có Thành được đăng lên báo Đoàn Kết (Bắc Việt) và phổ biến tại Ba Lê. Gia đ́nh cũng nhận được lời nhắn tin của Thành qua đài Hà Nội. Sự kiện về trung úy Thành rơ ràng cụ thể không che lấp, dấu diếm nhưng chắc rằng Thành đă có hành động chống đối, lời nói bất phục nên Thành không được trao trả. Tất cả bằng chứng về Thành được đưa ra ở bàn hội nghị của ban LHQS. Phe Mặt Trận “ghi nhận” chi tiết và đi qua trong tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc”...

Trường hợp của Thành chỉ là một ví dụ điển h́nh, cụ thể, của hằng ngàn người hiện c̣n bị giam giữ trong sáu mươi trại giam rải rác khắp ba lănh thổ Việt, Miên, Lào, trong đó những trại giam miền Bắc Việt Nam được ghi nhận chính xác là mười hai trại. Trong mười hai trại ở Bắc Việt có trại T2 (thành lập vào khoảng tháng 4-71 sau chiến dịch Hạ Lào hai tháng) đặt tại vùng hai xă Việt Hồng, Việt Cường huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái, trong trại này có những quân nhân Việt Nam bị bắt ở chiến dịch Hạ Lào, những sĩ quan như Đại tá Nguyễn Văn Thọ Lữ đoàn Trưởng Lữ đoàn 3 Dù, Thiếu Tá Trần Văn Đức sĩ quan ban 3, Thiếu Tá Phương. Đại úy Thương, những sĩ quan pháo binh của Tiểu đoàn 3 Pháo, đơn vị trấn giữ đồi 31. Những con người có thật đă nói ở đài Hà Nội, bị giam ở những trại đă được kiểm chứng, do lời tiết lộ của những người vừa được trao trả, do cung cấp của những hồi chánh viên có nhiệm vụ quản lư trại... Những tài liệu chính xác, những dẫn chứng cụ thể, những lời nói được thâu băng... Tất cả trở nên vô hiệu, vô ích trước cộng sản. Phía MTGP lư luận: Những sĩ quan như Đại tá Thọ, Thiếu tá Phương, Đức,... Như quí vị vừa nêu ra, chúng tôi xin ghi nhận; nhưng chúng tôi xin thông báo trước: Những nhân viên quân sự đó không thuộc quyền “quản lư” của chúng tôi, họ tham chiến tại Nam Lào bị lực lượng Pathet Lào bắt được, chúng tôi chỉ v́ “t́nh đồng bào” (?!) ḷng nhân đạo, sẽ “quan hệ” với lực lượng Pathet Lào để thả các anh em đó ra v́ dù sao họ cũng là người Việt Nam (!!).

Khỏe ru, MTGP, Bắc Việt ung dung thông qua vấn đề, v́ Hiệp Định, Nghị Định Thư không nói đến loại tù nầy... Quân Bắc Việt không tham chiến ở Lào, ở Nam Việt Nam. Tóm lại, lănh thổ và chính quyền đó đứng ngoài cuộc chiến tranh. Quái đản và đau đớn quá, nhiều cái mồm hét lớn hoan hô ḥa b́nh, hoan hô thiện chí... Có nhiều nguyên do gây nên chiến tranh, gây nên tội ác. Danh từ là một trong những nguyên nhân chính yếu. Cộng sản, những người chiến đấu v́ danh từ và dùng nó để che dấu vết giết người. Rất nhiều người không thấy rơ mặt cộng sản sau những danh từ: Ḥa B́nh, Ḥa Hợp, Ḥa Giải...
Tạm gác vấn đề tù quân sự lại, phương thức giải quyết sẽ vô cùng khó khăn khi va mặt với bức tường đá cộng sản. Chúng ta đi tiếp vấn đề. Tù dân sự, khuôn mặt bi thảm thứ hai của vấn đề tù binh. Sau ngày 27-1-1973 Phủ Tổng Ủy Dân Vận phổ biến một tập danh sách tổng kết số thường dân và cán bộ dân sự bị cộng sản bắt cóc kể từ 1954. Tổng số là 67.501 người, gồm 50.747 thường dân và 16.754 cán bộ. Con số tuy lớn nhưng vẫn là con số chính xác căn cứ vào những chi tiết cụ thể đă được kiểm chứng kỹ. Ngoài ra c̣n có một số lớn thường dân ở những vùng hẻo lánh bị bắt cóc mà chính quyền không kiểm kê được. Đối diện với số người to lớn có đủ dẫn chứng về tên họ, gia cảnh, sinh quán, chức vụ, ngày và nơi bị bắt, người cộng sản tỉnh táo trả lời đến độ ngang ngược: Năm 1959, Phong trào nhân dân vũ trang giải phóng mới được phát động, ngày 20-12-1960, Mặt Trận Giải Phóng mới chính thức thành lập... Vậy thật vô lư khi bảo Mặt Trận đă tham dự vào công việc bắt cóc thường dân và cán bộ VNCH trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1960!! Được đà, đám cán bộ trong bàn hội nghị tiếp tục: Kể từ năm 1960 trở về sau này, quả t́nh MT có bắt giữ một số cán bộ, những người dân không “giác ngộ”, những người dân không có “ư thức cách mạng tiến bộ...”, nhưng v́ chính sách của MT là cải tạo, giáo dục và không... giam giữ, nên số người nầy sau một thời gian học tập đă giác ngộ (!!). Mặt Trận đă thả họ về nhà hoặc để họ “tự động” tham gia vào phong trào nhân dân vũ trang yêu nước (!!?). Cuối cùng để chứng tỏ thiện chí và tinh thần tôn trọng Hiệp Định và Nghị Định Thư, Chính phủ Lâm Thời trao cho Việt Nam Cộng Ḥa một danh sách 140 người hiện bị MT giam giữ để chứng tỏ ḷng yêu chuộng ḥa b́nh. MT luôn sẽ cố gắng bổ sung thêm nếu có!!

Thậm quái đản, không có sự ngang ngược nào hơn thế nữa, cuộc chiến dài giữa hai ư hệ đối nghịch trong thời gian dài mù mịt chỉ có được 140 người tù dân sự. Và đúng như danh từ “cải tạo, giải phóng” mà CS gán vào cho những người thường dân, cán bộ dân chính VNCH, cũng thật đúng nữa khi họ bảo không có chế độ giam giữ. V́ họ đă giết, giết rất nhiều cán bộ hành chánh và thường dân vô tội. Nhân loại thế giới khi vỗ tay ca ngợi lũ người xanh mặt bủng từ mật khu đi hội Ba Lê v́ “thiện ư ḥa b́nh” hăy hiểu rơ họ đang cổ vơ tán thưởng “những kẻ giết người”. Những đao phủ thâm ác và nhiệt tâm từ ư thức giác ngộ cách mạng; được gây hứng khởi bởi máu xương của người dân miền Nam nước Việt. Người dân Huế chết trong Tết Mậu Thân, người Quảng Trị trên chín cây số xác người của “Đại Lộ Kinh Hoàng”, người B́nh Long ngă gục dọc đường số 13... Chủ nghĩa siêu nhân của Nietzsche gây cơn hứng giết người cho dân tộc Đức, giáo điều Mao Trạch Đông giúp Vệ Binh Đỏ xuống tay quá độ không ngần ngại... Và ở Việt Nam, nơi đáy sâu tai ương khốn nạn, thứ Marxisme thô sơ được biến thể và cập nhật hóa bởi đầu óc ngoại hạng họ Hồ giúp đám cán bộ đảng Lao Động giết người vô tội trong tận cùng thỏa thuê với ư thức giác ngộ sáng suốt... Kinh tởm quá, hậu bán thế kỷ 20 vẫn c̣n số đông nhân loại mang chứng bạo ngược tinh thần để a ṭng cùng kẻ sát nhân qua máu xương người Việt thụ nạn.

Cuối cùng, phe cộng sản tỉnh táo kết luận như trên, dù khi phía VNCH công bố chi tiết về trại Ba Sao ở Nam Hà (Nam Định và Hà Nam) trong số có các ông Bảo Lộc, Phó Tỉnh Trưỏng Thừa Thiên, Nguyễn Văn Đăi Ủy viên Chính phủ Vùng I, Hà Thúc Tứ Trưởng ty Hỏa xa Đà Nẵng, Nguyễn Đ́nh Bá sinh viên và nữ kư giả Nguyễn Thụy An. Và cụ thể nhất là trường hợp của Bác sĩ Nguyễn Đệ Trưởng Ty y tế Bồng Sơn bị cộng sản bắt trong tháng 5-1972, đă bị khám phá bởi kư giả báo Ashahi Shinbul. Báo nầy viết : “Trường hợp của Bác sĩ Đệ bị bắt ép phải ở lại, là một vết nhơ của vùng giải phóng...” Những người này không có tên trong danh sách 637 người bổ túc.

Ngày 12 tháng 2/73, cuộc trao trả tù bắt đầu, Bắc Việt trả tù ở Gia Lâm, Việt Nam Cộng Ḥa trả ở Thạch Hăn, Mặt Trận Giải Phóng trả tù ở Lộc Ninh. Cuộc trả tù ở Gia Lâm diễn tiến tốt đẹp. Hà nội c̣n trả thêm một trung tá v́ mẹ ông này bịnh. Tại Quảng Trị phíaVNCH đem tù đến bờ nam sông Thạch Hăn, toán cán bộ gốc Bắc Việt ở bên kia sông chưa kịp chuẩn bị v́ thiếu phối hợp, nên từ chối tiếp nhận. Tại Lộc Ninh, MT chơi tṛ ma giáo, hẹn trả lúc 8 giờ 30, măi đến chiều tối mới trao trả. Ông tướng Woodward phản pháo lập tức bằng một kháng thư gởi đến Chủ tịch Ủy Ban Quốc Tế và một văn thư cảnh cáo Trướng Trà với xác định: Việc trao trả của quân nhân Hoa Kỳ chỉ liên hệ trực tiếp với việc rút quân của Hoa Kỳ. Việc rút quân này diễn tiến theo đúng thời hạn ấn định, không có lư do nào để giải thích những tŕ hoăn tương tự...

Tháng 2, 3 năm 73 qua hết, 556 tù Quân sự Mỹ được hoàn tất đúng boong kỳ hạn, cả hai anh Bắc Việt và Mặt Trận sau hai lần thử gió người Mỹ, đă phải de lui v́ phe nầy nắm trong tay nhiều sức mạnh để quyết định... Chúng tôi không đến đây để đùa cùng quí vị, ông Cố vấn Kissinger đang có mặt tại Hà Nội (2-73) với những chỉ thị của Tổng Thống chúng tôi để yêu cầu quư vị dứt khoát trả các tù nhân Hoa Kỳ đúng thời hạn... Câu nói cứng rắn nhiều uy thế của Tướng Woodward, của Đại tá Russell đẩy mạnh vấn đề của Hoa Kỳ êm đẹp. Việt Nam Cộng Ḥa cũng hoàn tất việc trao trả 26,508 tù quân sự cộng sản (c̣n 210 chưa hợp thức hóa là người t́m tự do). Mặt Trận trở mặt giữ 410 quân nhân VNCH lại Đức Nghiệp không có giải thích thỏa đáng, được che dấu dưới luận điệu : Chúng tôi luôn đặt tinh thần nhân đạo lên trên mọi tác động chính trị. Và tiếp tục giữ 410 người ở Đức Nghiệp nầy quá thời hạn sáu mươi ngày, chín mươi ngày cho đến tháng 7 năm 1973. Ba tháng đi qua đă có 30 người chết trong các trại giam. Vấn đề tù quân sự được tạm thời đ́nh chỉ đầu tháng 5-73 để bắt đầu cuộc trao trả cho MT 750 tù dân sự và nhận về 385... Kế hoạch đang trên đà tiếp tục bỗng bế tắc v́ Ủy Ban Quốc Tế không chịu đến địa điểm trao trả nếu MT không chịu bảo đảm hành lang không lưu. Người Cộng sản cũng không chịu nhận tù ở địa điểm nam Thạch Hăn v́ muốn lợi dụng địa điểm bắc Thạch Hăn để ngăn những người tù không muốn về phía Mặt Trận. 36 người hồi chánh trong 750 người trao trả của đợt I tù dân sự chắc chắn sẽ có thêm một đa số không chịu về phía bờ bắc Thạch Hăn nơi có những lá cờ máu và cán bộ đáng nói giọng miền Bắc với danh xưng. “Người Quảng Trị”. Ngoài ra MT c̣n chuẩn bị thêm một chiến thuật khác nhằm khai triễn và lợi dụng những người như Ngô Bá Thành, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Long... để tạo dựng nên một thành phần thứ ba, những người chắc chắn sẽ gây nhiều trở ngại và rối rắm ở địa điểm trao trả với số phóng viên báo chí ngoại quốc mà Mặt Trận bố trí sẵn sàng. Trong t́nh trạng dằn co của tháng 5, 6, 7, 1973 phía VNCH nỗ lực đ̣i hỏi phía CS trả hết số tù nhân đă được thông báo, ưu tiên là 410 quân nhân ở Đức Nghiệp; số tù dân sự c̣n lại và trọng tâm của yêu cầu là những tù nhân VNCH c̣n bị giam rải rác khắp nơi trên lănh thổ Đông Dương; cụ thể là 7.061 tù nhân quân lẫn dân sự của 34 trại ở nam và bắc Việt Nam. Trước con số cụ thể, những dẫn chứng minh bạch, những vị trí chính xác của trại giam, phía CS vẫn cố t́nh che lấp vấn đề bằng lập luận ngang ngược và cố chấp đến cùng cực.

Chúng tôi chỉ c̣n một hoặc hai người là nhiều, quí vị đánh ở Nam Lào, ở Kampuchia, nếu bị bắt là do Pathét Lào, Khmer Đỏ bắt giữ chứ không phải chúng tôi. Những lập luận quái đản, những lư lẽ hàm hồ được lập đi lập lại không ngượng ngùng bằng những ngôn từ nghiêm trang mẫu mực. Bức tường đá cố chấp không t́nh người vẫn đứng nguyên trước những đ̣i hỏi hợp lư. Tù nhân Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n bị cùm kẹp nơi hốc núi, cuối ḷng rừng ở Tuyên Quang, Vĩnh Phú (Vĩnh Yên À Phú Thọ), Yên Bái, Sơn Tây. Những viên chức hành chánh VNCH vẫn phải lao động sản xuất đến hơi thở cuối cùng trong trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa, hệ thống trại giam Lư Bá Sơ cũ. Trại Lư Bá Sơ, nơi địa ngục trần thế của lũ người nghiện men máu và hơi xác chết qua một thời gian dài. Chỉ c̣n mười ngày nữa là hết thời hạn bốn mươi lăm ngày của Thông Cáo Chung 13-6-1973 những lính Biệt Kích, Nhảy Dù của Lữ Đoàn 3 thuộc trại T371 nơi núi rừng Lạng Sơn hằng ngày vẫn phải kiếm lá, nhặt rau để ăn cầm hơi v́ phần gạo “tiêu chuẩn” tối thiểu... Trong khi ở Trà Mi miền Nam, Trà Bồng, Ba-Tơ, A-Sao, A-Lưới bao nhiêu quân nhân vẫn đang bị học tập cải tạo, sống với tiêu chuẩn hai vắt cơm cùng vài hạt muối mỗi ngày. Mười ngày nữa, thời hạn sẽ qua đi, tù cộng sản được trả hết, phía VNCH c̣n lại ǵ để bàn căi, để đặt vấn đề. Đau đớn quá, tiếng thét của hàng vạn người Việt Nam Quốc Gia không vang được đến tai người đồng đội, không thoát khỏi tàng cây, không vượt qua đỉnh núi... Các anh sẽ ra sao, những người lính đồi 31 Hạ Lào, của căn cứ Hỏa Lực A1, A2, Gio Linh, các anh sẽ ra sao những người đă giữ vững Tân Cảnh, đă tử thủ Hoài Ân, những người chiến đấu cho Ḥa B́nh, cho nhân loại, cho thế giới.

Mặt Trận c̣n xử dụng một chiêu thức khác để chạy tội về vấn nạn tù binh, bằng cách nêu lên đ̣i hỏi: phía VNCH phải trả tự do ngay lập tức và không điều kiện 200.000 (?) tù chính trị hiện c̣n đang bị giam giữ. Họ lư luận: “Đây là những người tranh đấu cho Ḥa b́nh, Ḥa giải, Dân Tộc”... Thuộc về “thành phần lực lượng thứ ba”; một lực lượng tối cần thiết để thành lập Hội Đồng Hoà Giải Dân Tộc!!! 200.000 người theo MT là tống số thường phạm hiện c̣n đang bị giam giữ ở các nhà giam VNCH.

Đây là một đề tài tương đối mới mẻ mà Mặt Trận vừa mới đưa lên bàn hội nghị kể từ tháng 5-73. Vấn đề này sở dĩ xuất hiện muộn v́ có hai lư do mà chúng ta có thể dẫn chứng không sợ sai lệch.

Trong những tháng 3 và 4-73, MTGP dồn nỗ lực để tiếp nhận con số lớn 26.750 nhân viên quân sự được VNCH trao trả đồng thời tranh thủ thời gian để kịp nhận số nhân viên dân sự cộng sản (5081 người) mà VNCH sắp trao trả. Nhân tố này là một thành phần tối cần thiết để MTGP bổ sung lại lỗ hổng cán bộ hạ tầng đă tan vỡ và vô hiệu hóa sau biến cố Mậu Thân, hoặc do hậu quả và các chiến dịch vượt biên của quân đội VNCH năm 1970, 1971; các đường giây giữa cục R và cơ sở nông thôn như giao liên tiếp vận, chuyển quân đă bị đứt hẳn hoặc chùng lại trong suốt những năm 69, 70, 71, 72.. Số cán bộ hạ tầng này cũng để dùng thay thế lớp cán bộ chính trị Bắc Việt hiện tại đang khuynh loát toàn thể cơ cấu của Mặt Trận, lớp cán bộ miền Bắc này đă được bố trí vào hạ tầng cơ sở nông thôn miền Nam trong âm mưu chiến lược của cuộc đại tấn công 1972 do các sư đoàn chính qui Bắc Việt. Nhưng có lẽ sau đợt tiếp nhận từ 28-4 đến 11-5-73 với 750 nhân viên dân sự, MTGP thấy không thể khai thác đám cán bộ này với nhiều lư do, có những lư do nội tại tiêu cực là lớp người này đă mất hẳn cơ sở tinh thần tranh đấu, hoặc áp lực tích cực của khối cán bộ gốc Bắc Việt. Thế nên, cách hăm hở, nôn nóng ban đầu nguội dần, Cộng sản xoay mũi đấu tranh qua địa bàn tù chính trị.

Lư do thứ hai có thể giải thích sự muộn màng việc Mặt Trận Giải Phóng trở hướng chiến đấu v́ từ tháng 5-73 trở đi họ mới có đủ tài liệu và dữ kiện để nhập trận. Khi có những tài liệu về các trại giam Côn Sơn, Tam Hiệp, báo chí, sách vở của nhóm trí thức Công Giáo tả khuynh như Ngọc Lan, Chân Tín, tập Bạch Thư của Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận; Mặt Trận Giải Phóng tận lực khai triển hợp cùng với những đợt tấn công của các hiệp hội đoàn thể có khuynh hướng cộng sản, thiên tả lấy mục tiêu nhà tù VNCH làm chủ điểm đấu tranh. Nội ngoại tiếp ứng nhịp nhàng để tạo thành cơn nổ lớn với đề tài À Tù chính trị ở miền Nam. Nắm được điểm chủ yếu của phong trào, Mặt Trận Giải Phóng khai triển tối đa thành phần nhân viên dân sự mang tội phá rối trị an như luật sư Long, luật gia Thành sinh viên Mẫm, Ban, Lan, Huệ... Với sức đẩy của phong trào, người cộng sản nỗ lực biến những người này thành một lớp “tù chính trị trung tính, một lực lượng thứ ba yêu nước” chỉ v́ đấu tranh cho ḥa b́nh mà bị cấu thành tội. “Khối thứ ba” nầy rất cần thiết cho giai đoạn ḥa giải và ḥa hợp dân tộc. Một khối thứ ba với kỹ thuật đấu tranh sách lược hoạt động và quá tŕnh tư tưởng là cộng sản. Công tác này bắt đầu được đẩy mạnh trong tháng 6-73. Phía MT tổng hợp số người “thực tế” nầy với số 200.000 người trên để tạo nên một thực tế “ma” là 200.000 tù chính trị!!!

Với chủ đích nghiêm trọng như thế, Mặt Trận Giải Phóng kết lập tất cả mọi dữ kiện từ cuốn sách của Dân biểu Nhuận với một lời tuyên bố của một giới chức VNCH liên quan đến vấn đề tù nhân, bài báo của nhóm linh mục cộng sản giáo tả khuynh ḥa điệu cùng bức thư của sinh viên Mẫm. Tất cả diễn ra nhịp nhàng chặt chẽ với sự tiếp hơi của các đoàn thể, hiệp hội khuynh tả trên thế giới, đặc biệt của nhóm Công Giáo Cấp Tiến đang có ảnh hưởng mạnh lên thành phần trí thức phản chiến Tây Phương. Và phong trào đă dừng lại trên cao điểm: Việt Nam Cộng Ḥa hiện đang giam giữ hàng trăm ngàn người tù chính trị trong các trại giam Côn Sơn, Tam Hiệp, Phú Quốc, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát, các trại giam ở 44 tỉnh, ở các quận... Lời tố giác cũng yêu cầu Việt Nam Cộng Ḥa phải thả vô điều kiện các thành phần sinh viên học sinh tranh đấu, các nhân vật Châu, Long, Trọng, Thành... Cam kết không bắt giữ họ lại. Mục tiêu này cùng hiện rơ khi MT đưa ra trên bàn hội nghị một dự thảo thủ tục trao trả có nguyên một điều khoản để đề cập đến thành phần “không thuộc hai bên miền Nam” nầy... Chiến thuật tố cáo này cũng là một đ̣n né khi Việt Nam Cộng Ḥa đưa ra đ̣i hỏi bổ sung danh sách NVDS/VNCH theo tập thống kê 67.501 như đă tŕnh bày.

Diễn tiến cũng như kết quả của vấn đề này đă một lần được hiện rơ khi phía chúng ta trao trả hai mươi nhân viên dân sự gốc sinh viên học sinh, trong ngày 23-7-73 tại Lộc Ninh. Từ khi xuống trực thăng cho đến khi hoàn tất thủ tục trao trả nhóm sinh viên này đă lộ hẳn t́nh trạng. Đó là một thứ cán bộ cộng sản đă thấm nhuần cách thức đấu tranh do MTGP phát khởi và huấn luyện. Mặt trận đă chuẩn bị tinh vi để đám sinh viên học sinh này có cơ hội phát biểu trước Ủy Ban Quốc Tế với thực chất được ngụy trang sinh viên học sinh tranh đấu cho ḥa b́nh dân tộc thuần túy” để tố giác Việt Nam Cộng Ḥa đă giam giữ họ cũng như nhiều tù chính trị khác mà không qua căn bản pháp lư nào, mở đầu mối xích chuỗi đấu tranh liên tục cho vấn đề “tù chính trị”. Nhưng khôn ngoan, thâm độc là một chuyện, sự thật và công lư lại là một khía cạnh khác, Điều 7 (a) Nghị Định Thư đă nêu rơ chỉ có hai thành phần nhân viên dân sự để hai bên miền Nam trao trả. Hai thành phần nhân viên dân sự đó là những người đă dự phần vào cuộc đấu tranh ở một bên này hay bên kia dưới bất cứ h́nh thức nào trong tác động vơ trang hoặc chính trị nên bị một bên kia bắt giữ (Điều 21b Genève). Thế nên bằng tất cả mọi nổ lực, 24 giờ sau khi tiếp nhận đám sinh viên học sinh này, Mặt Trận Giải Phóng đă không gây được một tiếng vang hiệu quả nào khác ngoài sự cố gắng tuyệt vọng để khai triển một vấn đề mà thực chất đă bị ngụy danh.

12. Tù Binh, anh đi về đâu?

Như tiêu đề đă nêu trên, phần lớn của tập bút kư này là viết về người tù, về cảnh tù, về những người thê thảm và cảnh đời tan vỡ. Trong những đoạn đă viết qua, tôi tŕnh bày đủ một vài khía cạnh chính yếu về tù nhân Việt Nam Cộng Ḥa do phía Cộng sản bắt giữ, những người tù thảm hại nhất của chế độ tù tội nhân loại. Những người tù bị ngụy danh, bị sỉ nhục, bị tước đoạt hết giá trị con người cùng quyền hạn, khả năng thực hiện thực đời sống. Cộng sản đă không gọi họ qua danh từ thông thường. Tù nhân (dù đă là từ ngữ đen tối, thấp kém đau đớn nhất), nhưng họ bị chụp bởi những chiếc mũ: Giặc, ngụy, hoặc phản nghịch. Các trại tù lại được ngụy danh thành trại sản xuất, trại cải tạo, tù nhân được chia thành đội ngũ để xẻ núi, làm đường, trồng ngô, trồng sắn để sản xuất, tự lực cánh sinh... Trả nợ nhân dân!! Người tù Việt Nam Cộng Ḥa không được yên thân trong thế giới đọa đày riêng, họ phải phấn đấu qua mỗi giờ, mỗi phút, làm sao có được bát cơm hẩm, giọt nước muối để được sống. Phải, tất cả sức lực tinh thần, vật chất chỉ được hướng vào một mục đích: Sống c̣n. Nhưng chính v́ trong đời sống thụ động đau đớn kinh hoàng này, người tù Việt Nam Cộng Ḥa khi được trao trả, trở về trong phần đất quốc gia, đời sống tù tội, giấc mơ ác liệt tưởng như trong địa ngục hoàn toàn chấm dứt, họ bắt đầu một đời sống mới, đời sống tưởng chừng như đă hủy diệt bất phục hồi. Được trao trả đồng nghĩa trở về địa đàng trần thế và quên thật nhanh, quên thật hết tháng qua, ngày trước, giờ phút trước khi điểm danh trao trả để đi như chạy, ḅ bằng tay lẫn chân vào ḷng của chiếc trực thăng để bay cao, trở về và không bao giờ nhớ lại Đă một lần bị người cộng sản giam giư.ơ Đă một lần sờ tận tay nỗi chết. Bài viết này không đề cập đến những “người sung sướng” tội nghiệp đó, tôi muốn nói đến lớp tù đối phương, tù Cộng sản do quân đội, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa bắt giữ và trao trả về cho đối phương; những người tù bị bắt khi tay đang giữ vũ khí ở chiến trường hoặc là những cán bộ nội thành bị phát giác đầy đủ tang vật và tài liệu. Cần nói rơ hơn một khẳng định, tôi sẽ không viết những lời tán dương chế độ giam giữ của chính phủ VNCH, một chủ đề mà cuốn sách không dự liệu, cũng như rất đối nghịch cùng lương tâm người viết: Người kinh sợ cảnh tù trên tất cả mọi sợ hăi. Bài viết sẽ cố gắng tŕnh bày đủ đoạn trường tù tội mà kẻ tù nhân kia bắt buộc phải triệt để chấp hành, bắt đầu từ khi hắn tự đưa tay đầu hàng trước một mũi súng trên chiến địa hoặc đặt tay vào chiếc c̣ng của nhân viên công lực VNCH.

Như đă nhiều lần nhấn mạnh, người Cộng sản không bao giờ bỏ lỡ cuộc đấu tranh trong bất kỳ hoàn cảnh, cơ hội hoặc giai đoạn ngắn ngủi nào... Không có vấn đề nghỉ ngơi, không có đời sống riêng rẽ, hoàn cảnh độc lập. Đă dự vào cuộc đấu tranh do Đảng “đề xuất” và lănh đạo có nghĩa đă dự vào một cuộc đua liên tục, đua không ngừng, không nghỉ, cho đến phút chót khi thiên đường Cộng sản hoàn toàn thực hiện. Đó là trên lư thuyết, trên cơ sở chủ nghiă, riêng trong giai đoạn hiện tại, sau bước đường chống Mỹ cứu nước nay đă đến bước “Đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, nghiêm chỉnh thi hành Hiệp Định Pa-ri...”; người tù Cộng sản lại phải luôn luôn học tập, phải đả thông vấn đề, phải chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh Đảng ngay trong cảnh tù tội, để đến khi được trao trả th́ đă nắm đủ các yếu tố phát động thế đấu tranh mới.

Sau khi đưa tay lên đầu hàng ở chiến trận, người tù quân sự Cộng sản được cơ quan an ninh của đơn vị bắt giữ khai thác tại chỗ để phân loại và cung cấp các hoạt động liên quan đến trận liệt. Thường thường các cuộc thẩm vấn được tiến hành cấp tốc v́ những đơn vị tác chiến thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa không đủ nhân viên chuyên môn để khai thác tù binh, họ chỉ ghi nhận vài yếu tố lư lịch, đơn vị của người tù, xong giải giao ngay đến các cơ quan lưu giữ tạm thời như Bộ Chỉ huy Trung đoàn, Bộ Tư lệnh Tiền phương của Sư đoàn mà đơn vị đó trực thuộc hoặc thuộc dụng hành quân. Tại những nơi này dù có đủ th́ giờ rộng răi hơn cũng như có chuyên viên thẩm vấn, các cuộc hỏi cung cũng chỉ có mục đích xét hỏi người tù binh những tin tức liên quan đến t́nh h́nh mặt trận mà anh ta vừa tham dự, một số chi tiết về tên họ, đơn vị trực thuộc, từ đâu xâm nhập vào trận địa, ư định điều quân của đơn vị này trong thời gian sắp tới... Người tù binh tiếp tục được giải giao đến các Trung Tâm Tù Binh chiến tranh. Sự tranh đấu, nếu được gọi là như thế, giữa tù binh và cơ quan giam giữ quân đội Việt Nam Cộng Ḥa không được cấu thành, cũng không bao giờ thực sự cần thiết. Cơ quan có nhiệm vụ chính thức giam giữ tù binh quân sự là binh chủng Quân Cảnh mà tư thế và nhiệm vụ rất cụ thể và hạn chế: Quản trị, điều hành và lưu giữ tù binh. Không có vấn đề phải khai thác, tuyên truyền chính trị, nên tương quan này không dẫn đến những xung đột nghiêm trọng, những đầy ải ác nghiệt như người Cộng sản luôn luôn tuyên truyền, xuyên tạc. Nhưng chính trong những chốn lưu giữ này, người tù binh Cộng sản phải bắt đầu tham gia vào một cuộc tranh đấu kinh hồn quyết liệt mà kết quả độc nhất là sự chết, do những bạn tù thi hành, hoặc tiếp tục giữ vững lập trường Cộng sản không mệt mỏi, không suy giảm để chấp hành đứng đắn mọi chỉ thị do những người đại diện của họ ra lệnh. Cuộc đấu tranh nguy nan giữa những người cùng chiến tuyến bắt đầu trong nhà tù Việt Nam Cộng Ḥa.

Đến đây, cần mở rộng vấn đề qua một phạm vi khác để soi sáng yếu tố những người tù cộng sản ở các trại giam: Những hồi chánh viên. Hồi chánh viên là những người tự nguyện buông súng, rời bỏ hàng ngũ cộng sản trở về phía Việt Nam Cộng Ḥa trong tất cả mọi hoàn cảnh, ở khắp nơi trên chiến trường; cũng có thể gọi là hồi chánh dù trong lúc giao tranh nếu người lính cộng sản có thái độ tích cực sau khi buông súng về cùng các đơn vị quân đội cộng ḥa. Sự thật, đă có những người hồi chánh v́ “thế kẹt”, khi đơn vị anh tan ră, rút đi, hoặc đôi khi v́ bị bao vây, tấn công quá dồn dập. Nhưng dù có buông súng trong t́nh huống tiêu cực đó, nếu anh ta tự nguyện cung cấp tin tức, chỉ điểm nơi chôn dấu vũ khí và xin được hồi chánh th́ anh ta vẫn được đưa về các Trung Tâm Chiêu Hồi, chứ không là các trại tù như trên đă nói. Những người hồi chánh tự nguyện hay ở vào thế kẹt như vừa tŕnh bày, chỉ là những người hồi chánh “b́nh thường”, những người hồi chánh trong b́nh yên. Có một loại hồi chánh viên khác, hồi chánh ngay trong trại tù, mới là những người hồi chánh thượng hạng, những người đă vượt qua biên giới cái chết trong đường cơ kẽ tóc. Như trên đă nói, người tù binh Cộng sản ngay khi nhập trại đă phải chịu một cuộc thẩm vấn gắt gao do đại diện tù nhân cộng sản thực hiện. Anh ta phải khai rơ lư lịch, không phải chỉ một vài chi tiết của tên tuổi, tên cha mẹ, bạn bè, đơn vị, nghề nghiệp, sở thích... Không phải khai một lần, nhưng năm lần bảy lượt bởi một cuộc thẩm vấn tinh vi kinh khiếp: Mục đích của cuộc tra hỏi này là để nhóm đại diện tù binh cộng sản phát giác ra ngay những “ngụy hồi”, tức là những hồi chánh viên mà cơ quan giam giữ Việt Nam Cộng Ḥa gài vào đám tù binh cộng sản để ḍ chừng phản ứng, âm mưu của đám tù binh cộng sản. Cuộc tra hỏi cũng nhằm xem thành phần, tinh thần của người tù để sắp xếp anh ta vào những công tác, nhiệm vụ do ban đại diện đề cử. Cuộc tra hỏi dằng dai khít khao này cũng giám định lại tinh thần của người cán binh cộng sản, xem anh ta v́ thụ động, tiêu cực nên đầu hàng quân đội Cộng ḥa hay anh ta đă hết sức chiến đấu nhưng bởi kiệt lực bắt buộc. Tóm lại, sau giai đoạn thẩm vấn, người tù binh Cộng sản mới được xác định, xếp loại do chính đồng bạn tù quyết định. Nếu anh ta là một hồi chánh viên được gài vào, nếu anh ta là một chiến sĩ có tinh thần sút kém, chiến đấu tiêu cực. Số mệnh anh đă hoàn toàn được định đoạt: Chết. Chỉ có một giải pháp, một giải pháp độc nhất, cuối cùng. Dùng đũa đâm từ tai này qua tai kia, lột da đầu, cắt cổ, bóp cổ. Cực h́nh sẽ được thực hiện giữa đám tù để dằn mặt, cảnh cáo những người sa sút tinh thần, ngă ḷng, muốn bỏ cuộc. Các tù binh Cộng sản được ban đại diện của họ chia vào từng tiểu tổ sinh hoạt, công tác chung với nhau, người này kiểm soát, canh chừng người kia để khi phát hiện một dấu hiệu ngă ḷng, ư hướng mệt mỏi, muốn xin hồi chánh, làm việc cho ban giám đốc trại VNCH, th́ báo động ngay đến ban đại diện tù trong khu của ḿnh. Kẻ bị nghi ngờ sẽ bị hành h́nh không chút nương tay. Trong t́nh huống kinh khiếp nghặt nghèo này, người tù binh Cộng sản luôn luôn đề cao cảnh giác, phải luôn luôn biểu lộ ḷng tin vào lập trường của Đảng, luôn luôn giữ vững ư chí cách mạng thực hiện công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước dưới sự lănh đạo của Bác và Đảng. Họ phải kiên định lập trường, học tập tài liệu từ ngoài chuyển vào để luôn nắm vững t́nh h́nh, hướng nỗ lực tranh đấu vào mục tiêu do Đảng chỉ định. Để thực hiện công tác gắt gao này, phía Cộng sản đă không ngần ngại chỉ định những chính trị viên cốt cán, giả hàng ở trận địa rồi t́m đủ mọi phương cách làm sao chuyển được tới trại (mà họ được chỉ thị công tác)... Ví dụ như trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân, cán bộ thuộc Trung đoàn Quyết Thắng (Trung đoàn đánh vùng Cây Thị, Gia Định) bị mất tinh thần trầm trọng... Bộ chỉ huy Ba Cục (R) thấy cần phải giữ vững tinh thần đám tù binh thuộc đơn vị này, đă điều động một số chính trị viên giả đầu hàng Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa ở một mặt trận nào đó thuộc vùng B́nh Dương, Tây Ninh... Nhóm tù binh chính trị viên này sau đó đă được tập trung vào một trại tù như Tam Hiệp (Biên Ḥa)... Ví dụ như sau khi móc nối với các đại diện tù và biết được đám tù của Trung đoàn Quyết Thắng đă chuyển đi một nơi nào ở Phú Quốc th́ họ sẽ chủ tâm tỏ ra vô kỹ luật, phá hoại, để ban giám đốc trại trừng trị, khiển phạt và cuối cùng bị (được) chuyển đi Phú Quốc. Nơi đây, nếu được chuyển đến một khu không có người của Trung đoàn Quyết Thắng kia th́ họ sẽ tiếp tục dùng mọi biện pháp để làm sao cuối cùng chuyển đến tại nơi có “mục tiêu” được chỉ định...

Trong ḱm kẹp gắt gao do đề pḥng hiểm độc của các chiến hữu ḿnh, người tù binh Cộng sản bị muôn ngàn hiểm nguy thường trực đe dọa... Không tỏ vẻ căm thù nhân viên quân cảnh có nhiệm vụ đưa cơm tới, không giác ngộ về “hiện t́nh thối nát của chính phủ VNCH”, hoài nghi về thành quả giải phóng 3/4 đất, 4/5 dân ở miền Nam, tiếng thở dài nhỏ trong đêm tối... Tất cả đă là nguyên do gây nên cái chết tức khắc. Một tù binh được ban giám đốc trại gọi lên hỏi chi tiết của nơi sinh. Nếu được trả về trại an lành, anh ta chắc đă nắm đưọc đầu giây của cái chết do chính bạn bè anh thực hiện. Thế nên, một người tù trong hoàn cảnh này mà xin được hồi chánh để trở nên hồi chánh viên th́ quả t́nh là một hồi chánh viên thượng thặng, hữu hạng, một ngườiđă vượt mặt tử thần. Sự kiện này tŕnh bày đủ thực trạng bi thảm về người tù binh Cộng sản. Trong trại giam, ngoài lớp cán binh trẻ cuồng tín của các sư đoàn chính qui Bắc Việt, c̣n có những tù binh thuộc các lực lượng địa phương miền Nam, những du kích xă, huyện. Bên cạnh đoàn tù binh sắt máu luôn tin vào tiền đồ cách mạng, nuôi dưỡng căm hờn chế độ, chính phủ Cộng ḥa, có những tù nhân bất đắc dĩ, những chiến sĩ cách mạng lỡ thời, vốn chỉ là một nông dân kẹt ở vùng “giải phóng”, hoặc ở các vùng xôi đậu bị kéo vào bưng học tập, đi du kích. Thoạt tiên, họ được “động viên” đi dân công, sau tham gia các công tác phá hoại, tiếp theo do được b́nh nghị là đă “giác ngộ” tham gia công tác tốt, anh ta trở thành du kích xă, du kích huyện, đôn lên thành bộ đội chủ lực tỉnh. Gặp lúc có chiến dịch lớn như B́nh Giả (1964) Đồng Xoài (1965)... Các đơn vị chủ lực Miền bị thiếu sót quân số trầm trọng, du kích xă, huyện theo lệnh của Trung Ương Cục được tập trung về khu C (Tây Ninh, B́nh Long) để bổ xung vào các Trung đoàn thuộc các Công Trường 5, 7, 9... Tính chất “cách mạng vô sản” nơi người du kích miền Nam này, ngay cả những cán bộ hồi kết (Gốc miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 và trở về Nam trong những năm 1959, 1960 hoặc sau) rất khác xa với đám cán binh trên dưới hai mươi tuổi thuộc các sư đoàn Bắc Việt xâm nhập. Đám sau này tích cực hơn, cuồng tín, mê say một cách mù quáng và khắc nghiệt, hoàn toàn tin vào mệnh lệnh đường lối Đảng, lời Bác dạy. Nếu có một số ngă ḷng v́ cực khổ trên đường xâm nhập hoặc thấy rơ hiện t́nh miền Nam, thấy rơ thành quả giải phóng của cách mạng miền Nam, thường hồi chánh ngay trong thời gian đầu... Số c̣n lại, nếu đă thử sức đủ trên đường đi, hiện t́nh miền Nam vẫn chưa làm hắn ta “giác ngộ”, th́ ḷng cuồng tín càng tăng thêm cường độ. Thế nên, trong ư hướng cực đoan này, những cán binh có ư định hồi chánh là thành phần cần phải tiêu hủy đầu tiên và tối đa đối với những cốt cán nầy.

Bị vây bọc bởi đám tù cuồng tín trên, một cán binh có ư định hồi chánh ở trại tù tức đă dự cuộc đua với tử thần trong gang tấc sít sao. Chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa trước giai đoạn thành lập danh sách cuối cùng để chuyển giao về phía cộng sản tất cả cán binh bị giam giữ theo Hiệp Định Ba Lê, đă phát động một chiến dịch gọi là phong trào Tân Sinh Hoạt trong tất cả mọi trại giam tù binh Cộng sản, mục đích phong trào này trên bề mặt là huấn nghệ, giúp điều kiện để tù binh có việc làm trong những ngày giam giữ, nhưng thực chất là tạo môi trường giáo dục tù binh để họ nhận định đúng hiện trạng miền Nam, tiến đến chọn lựa cuối cùng giữa hai ư hệ Cộng Sản và Tự Do. Phong trào đă thành công lớn lao, hơn 10.000 tù binh hồi chánh trong dịp tết Quư Sửu (72-73) trước khi danh sách trao trả cuối cùng chuyển đến phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng tại Hội Nghị Ba Lê. Số lượng 10.000 người tuy lớn so với gần 30.000 mà Việt Nam Cộng Sản dự trù trao trả, nhưng thật sự con số kia chắc chắn sẽ gấp đôi nếu tù nhân được hoàn toàn tự do chọn lựa chế độ trước khi trao trả, hoặc họ rơ được thủ tục phát biểu nguyện vọng và quyền phát biểu tại địa điểm trao trả. Trường hợp các tù binh Thạch Phen trao trả Lộc Ninh ngày 14 tháng 2-73 và Hồ Văn Công ở Quảng Trị ngày 17-3-1973 là điển h́nh về cảnh bi thảm lặng lẽ mà người cán binh Cộng sản gốc miền Nam phải chịu đựng trong cô đơn và nguy biến riêng ḿnh. Thạch Phen, người Việt gốc Miên, anh bị lôi kéo vào Mặt Trận không cưỡng lại được v́ cư trú trong vùng bản lề giữa mật khu Cộng sản trên đất Miên với vùng VNCH ở Châu Đốc. Ngày 11-2-1973 anh đưọc đưa đến Lộc Ninh để trao trả. Từ trực thăng bước xuống, anh kinh hoàng nh́n khung cảnh địa điểm trao trả, lớp nhà lá gồi, dăy cờ đỏ, rừng khẩu hiệu khắc nghiệt, đám cán bộ tiếp rước mặt xanh tím, tṛng mắt vơ vàng đầy thù nghịch ḍ xét. Những nụ cười vồn vă máy móc của những chiếc mồm xấu xí không làm anh yên tâm, thêm nữa, tiếng hát vang vang tiết điệu Trung Hoa dội lên từ dăy loa phát thanh làm anh bối rối kinh ngạc... Tuy đă cầm súng chiến đấu trong hàng ngũ những người Cộng sản, nhưng hôm nay, anh được đưa đến một nơi quá xa lạ, lớp rừng cao su xanh ngắt ôm kín những khu đồi đất đỏ, đám cán bộ đồng phục xanh với những cặp mắt vàng chạch v́ sốt rét, nụ cười vô hồn, không cảm giác kéo lên, đóng xuống từng chập để lộ nguyên h́nh tính cách tra hỏi cay nghiệt. Thạch Phen chưa từng bao giờ ở cùng những chiến hữu nguy hiểm với cảnh núi rừng thâm u đầy đe dọa này. Tội nghiệp và đơn độc hơn nữa, tù cùng toán toàn là người Bắc, họ hân hoan biểu lộ sự thù hận, niềm tin sắt đá vào thành tŕ cách mạng bằng nắm chặt tay tung hô khẩu hiệu, câu hát. Thạch Phen hoàn toàn xa lạ trong không khí gớm ghê đầy đe dọa này... Anh lùi dần, lùi dần xuống cuối toán và chạy về phía mấy sĩ quan quân cảnh (có nhiệm vụ tải áp tù từ Phú Quốc đến Lộc Ninh) để xin hồi chánh. Đại úy Lộc, trưởng toán Liên Hợp Quân Sự Việt Nam Cộng Ḥa thông báo sự kiện đến ba thành viên Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt và Mỹ cùng Ủy ban Quốc tế để hợp thức hóa trường hợp hồi chánh của Thạch Phen. Nhưng hai viên sĩ quan của Mặt Trận Bắc Việt không chịu, nại cớ anh Phen đă hồi chánh không đúng thủ tục (Nghĩa là không phát biểu ư kiến của ḿnh khi điểm danh trao trả. Cần nhắc lại một điểm, thời gian này chưa có thủ tục trao trả). Hai anh Hung và Ba Lan trong Ủy ban Quốc tế được “mớm”ư kiến trên, đồng phát biểu: Không giám sát trường hợp hồi chánh của Thạch Phen v́ không đúng thủ tục trao trả!! Cuối cùng, v́ để có một cách thức giải quyết mẫu cho những lần trao trả sau, Quân cảnh Việt Nam Cộng Ḥa hộ tống Phen đến lều trao trả để phát biểu ư kiến, nhưng đám tù binh cùng toán của Phen nhào đến cướp Phen và hành hung quân cảnh; không thể làm sao chống cự nổi với đám tù, hơn nữa, nếu giành giật quá độ, đám tù có thể đánh chết Phen... Quân cảnh VNCH buộc ḷng phải thả Phen ra. Hai thành viên Hung và Ba Lan đuợc yêu cầu can thiệp và chứng nhận sự kiện xảy ra, một lần nữa lại tuyên bố: Anh Phen chưa được điểm danh, nghĩa là chưa đưọc trao trả, họ không có trách nhiệm ǵ ngoài việc giám sát cuộc trao trả tại lều trao trả (?!!). Thạch Phen bị kéo đi một lát sau trở lại, với mặt mũi vỡ nát... “Chính quyền địa phương” Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh yêu cầu có cuộc họp với đầy đủ bốn thành viên của Ủy Ban Quốc Tế để anh Phen phát biểu ư kiến trong “hoàn toàn tự do”... Và cuối cùng, thay v́ nói muốn được hồi chánh, Phen phát biểu: “Việt Nam Cộng Ḥa “gài” anh ta làm hồi chánh viên, nhưng bây giờ “giác ngộ” nên tự ư xin về phía Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam VN!! Hai thành viên Hung và Ba Lan ghi nhận sự kiện trung thực: Anh Phen đă nói lên nguyện vọng của ḿnh trong tự do!!

Trường hợp của Hồ Văn Công th́ khả quan hơn. Công thuộc toán thứ nhất để trao trả trong ngày 17-3-1973 tại Quảng Trị. Cũng như Thạch Phen, Công là du kích thuộc xă Phụng Hiệp Cần Thơ, bị quân đội VNCH bắt trong một cuộc tuần tiểu. Với bản chất thẳng thắn, đơn giản của người miền Nam, Công tham gia vào cuộc chiến đấu vơ trang trong hàng ngũ cộng sản hoàn toàn do hoàn cảnh ép buộc, một sự góp mặt trung tính v́ không thể sống độc lập giữa hai chế độ đối nghịch. Công đến bờ sông Thạch Hăn, nh́n về phía bờ đối diện, ngọn cờ đỏ ngôi sao vàng cùng tất cả im lặng nặng nề của một khối tổ chức chặt chẻ vô nhân tính vang vang khúc hát gợi căm thù. Công chùng bước... Đây là đâu? Phải chăng là bờ Bến Hải? Bến Hải - Cần Thơ khoảng cách ngút ngàn, suốt đời anh bao không bao giờ ư niệm đến... Nước Việt Nam là một, Tổ quốc Việt Nam là một, chúng ta có thể đến bất cứ đâu, tác chiến bất cứ nơi đâu... Viên bí thư xă đă nhiều lần nói như thế; cán bộ đại diện tù nhân cũng đă giải thích, thông báo hơn tháng trước: Chúng ta sẽ được trao trả tại Quảng Trị, ở đấy sẽ “tiếp thu” chúng ta, sau đó tùy nhu cầu thực tế, chúng ta sẽ được phân phối vào các cơ quan khác nhau, có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Quảng Trị, một tỉnh Công không bao giờ nghe tên. Đây là Quảng Trị, sông này là sông Bến Hải (!?), trao trả xong họ mang ḿnh thẳng về Bắc luôn!! Công co rúm người khi bước chân lần xuống thuyền để qua sông, Công liếc qua tái, qua phải, hai hàng lính Thủy quân Lục chiến, Nhảy Dù với những bộ đồ rằn ri rất quen thuộc và ngay cả lá cờ vàng ba sọc đỏ này nữa... Dù anh đă một lần chiến đấu chống lại. Đám lính Cộng ḥa với cách thức phát âm, dáng điệu phóng khoáng kia vẫn quen thuộc, thân mật gần gũi với Công hơn là đám tù binh mặt nặng căm hờn đang to nhỏ với nhau, hoan hô đả đảo... Lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa - Công đă quen thuộc từ bao lâu, kể từ ngày anh lớn lên, đi qua đồn nghĩa quân, đi qua trụ sở hành chánh xă Phụng Hiệp. Công nổi gai khi nghĩ tới cảnh trời nơi đất Bắc xa xôi, nơi anh sẽ đến và không có ngày trở về làng xưa cuối miền Nam... Anh bước chân xuống thuyền, thuyền tṛng trành, đám lính Thủy quân Lục chiến đứng trên bờ cười nói vang vang, tiếng cười, giọng nói miền Nam yêu quí... Thuyền nổ máy hướng mũi về phía bờ Bắc nơi có lá cờ đỏ... Công quyết định, anh đứng dậy trên ḷng thuyền, một bàn tay nào đó muốn vít cổ anh xuống, Công đưa tay lên gạt mạnh, phóng ḿnh xuống nước... Nước lạnh cóng, Công cố bơi vào bờ, mắt anh mờ ánh nước, tay chân anh giăn ra, anh thả trôi người, ch́m xuống... “ Hồi chánh! Hồi chánh... Có người hồi chánh ”. Công loáng thoáng nghe có tiếng người kêu lớn ở trên bờ, nghe tiếng sóng đập mạnh đâu đây trên gịng nước, có cánh tay bế xốc anh lên... Công đưa tay xuống cạp quần nơi có tấm ảnh của vợ con anh ở miền Nam!!
Viên Y sĩ Thủy quân Lục chiến chích cho Công mũi thuốc khỏe... Ảnh vợ con tôi đâu? Ảnh vợ con tôi đâu? Đây đây... Công lần ṃ bàn tay run rẩy trên mép tấm ảnh quen thuộc...
Tôi đi qua bờ Thạch Hăn, yêu cầu tổ Ủy ban Quốc tế đến chứng kiến và xác nhận trường hợp anh Công, để hai anh Hung và Ba Lan không thể thoái thác từ chối với lư do anh Công chưa đến địa điểm trao trả (Bờ Bắc sông Thạch Hăn)... Tôi đón trước bằng đề nghị: V́ anh Công đang trên đường đến địa điểm và nhảy xuống nước, hiện tại đang bị kích ngất không thể di chuyển qua sông được, sẵn dịp Ủy ban Quốc tế sẽ về bờ Nam đáp trực thăng đi Gio Linh, tôi yêu cầu họ phải xác nhận trường hợp hồi chánh của anh Công. Nhưng v́ tôi cũng chỉ một ḿnh, một miệng, hai toán Liên Hiệp Quân Sự phe Cộng sản xử dụng tối đa nhân lực cùng lớp cán bộ địa phương bao vây ngay hai anh Hung và Ba Lan, cả một lực lượng hơn mười người cùng hai tên thông dịch viên, thay nhau thảo luận, hỏi ư kiến liên tiếp, kèm thêm màn chụp h́nh, mời uống nước. Hai anh Hung và Ba Lan lại biểu đồng t́nh tŕ hoăn chiến để không qua sông chứng kiến tựng hợp anh Công. Khốn nạn, tôi chỉ kéo được hai anh Gia Nă Đại và Nam Dương về bờ Nam. Trên gịng nước lạnh ngắt, dưới trời mưa bụi tôi đưa mắt nh́n ra xa nghĩ đến cảnh những người trầm ḿnh để được chết tự do. Cao quư và đau đớn thật, h́nh như rất ít người nghĩ đến yếu tố thực tế này khi vỗ tay mừng Hiệp Định Ba Lê. Cuối cùng, anh Công vẫn được xếp vào hàng ngũ những người hồi chánh, dù thiếu sự chứng kiến của hai thành viên Ba Lan, Hung Gia Lợi. Trường hợp hồi chánh của anh vẫn được ghi nhận qua phái đoàn Nam Dương, phái đoàn Chủ vị Ủy ban Quốc tế của tháng này. Thạch Phen hay Hồ Văn Công là những trường hợp điển h́nh v́ đă bùng vỡ và thực hiện qua hành động, nhưng c̣n biết bao nhiêu người nữa, những người không thể hồi chánh theo phong trào Tân Sinh Hoạt, những người không thể tách khỏi tay đám tù đồng bọn khi đi trên đường đến địa điểm trao trả. Bao nhiêu người muốn làm động tác như Hồ Văn Công của ngày 17-3-1973, bao nhiêu người muốn đưa tay lên để phát biểu ư kiến, bao nhiêu người ḷng ngập bi thương khi bước chân vào địa điểm trao trả để đợi điểm danh trước khi về với... Nhân Dân!! Nhân Dân... Điển h́nh với h́nh ảnh phục phịch của một nữ đồng chí “phục vụ” với giọng nói miền Bắc Việt nghe lạ lùng. Bao nhiêu người tù binh tóc đă ngă màu muối tiêu, bước chân lóng cóng, dẫm lên chiếc thuyền để qua sông, ngập ngừng ném chiếc áo nâu dầy ấm áp theo lệnh của “tù trưởng” để lộ làn da nhăn nhúm mệt nhọc dưới làn mưa dầm dề của tiết xuân, lớp da dù được khích động, đù được bơm căm thù vẫn phải co rúm dưới cơn gió rét miền Trung rờn rợn... Tù Binh... Về đâu? Câu hỏi vang lên nghe nhức nhối và tội nghiệp khôn cùng.

Chẳng phải v́ muốn tăng thêm cường độ cảm xúc trong văn chương nên tôi đă khai triển tối đa t́nh huống qua hai sự kiện cụ thể, nhưng bởi đă nhận ra thực tế không phải chỉ xảy ra ở bờ sông Thạch Hăn, sân bay Lộc Ninh, nơi rừng cao su Minh Thạnh, bên cạnh lớp tù nhân hùng hổ kéo nhau đi trong khi thế hận thù bốc cao đầy ánh mắt, có một số đông, một số rất đông tù binh Cộng sản bước những bước ngắn e ngại, thẩn thờ... Họ cũng như đám tù binh Hồng Quân đă tự sát tập thể bằng cách lao ḿnh từ toa tầu xuống vực sâu trên đường trở về Nga Sô Viết sau khi Đức đầu hàng Đồng Minh 1945; họ cũng như những tù binh của các chiến dịch Atlante, Castor, được Pháp trả về phía bên kia phía Cách Mạng - Phía Việt Cộng. Thân phụ tôi, người chiến sĩ của Sư Đoàn 308, người chiến sĩ của chiến thắng Điện Biên, người từng bỏ tất cả đời sống b́nh yên cạnh vợ con để hiến dâng trọn đời ḿnh đến cách mạng, cho dân tộc... Từ trại tù 51 ở Hải Pḥng trước ngày Pháp trao trả về cho Quân Đội Nhân Dân đă không cầm ḷng, phải viết nên lời: “Anh (ba tôi) bây giờ đă mệt mỏi lắm rồi, anh biết đủ thứ, biết bữa củi, nấu cơm, có thể làm tất cả mọi chuyện, chỉ muốn làm sao đưa em (mẹ tôi) và các con đi xa, đi thật xa, ra khỏi nước Việt Nam này..” Năm 1954, với chiến thắng rực rỡ lớn lao kia, người tù Cộng sản cũng phải nh́n lại đoạn đường ḿnh đă đi qua, đưa mắt hướng về một tương lai ảo tượng để nói lên lời cay đắng, huống ǵ hôm nay, thời gian của 1973, biên giới của Cộng Sản và Tự Do đă xóa nḥa trong men rượu Mao Đài, được quên đi nơi Công Trường Đỏ khi Nixon cúi ḿnh tưởng niệm anh hùng Sô Viết... Thế nên, người tù binh Cộng sản c̣n đâu ư chí, c̣n đâu căm thù đích thực... Và “Chống Mỹ cứu nước” hiện rơ ra một khẩu hiệu không nội dung, không đối tượng khi “bè lũ quân Ngụy ác ôn côn đồ” cũng chỉ là những người lính da vàng âm thầm chịu đựng, khi thành tích cách mạng giải phóng miền Nam thật bày ra lớp thịt da người Việt phủ kín chín cây số của Đại Lộ Kinh Hoàng... Giải Phóng, Tự Do, Dân Tộc, Độc Lập, những danh từ chát chúa vĩ đại một cách phi nhân đă thể hiện đủ tính chất, tṛ xảo trá to lớn mà người tù binh đă đem đời ḿnh hiến dâng nên thành. Trong nhà tù, nơi địa điểm trao trả, người tù binh thấy lại trước mắt cảnh cơm khô, nước lă miệt mài nơi rừng xanh để xây dựng một thiên đường nhạt thếch... Gia đ́nh, làng xưa, nẻo đường về càng ngày càng mất hút. Tù binh Cộng sản, anh đi về đâu khi ngày sắp hết và đời anh cũng đến lúc kiệt cùng.
C̣n một điều cần phải nói thêm cho đủ, những người tù dù đă chứng tỏ vững lập trường khi ở giai đoạn giam giữ, cũng phải phát triển căm thù cùng tinh thần chiến đấu ngoan cường ở địa điểm trao trả v́ nếu không, sau ly nước trà vồn vă bốc khói, người tù lừng khừng, mệt mỏi, sẽ bị cô lập, tra hỏi, kiểm thảo và hạ tầng công tác ngay hoặc nếu cần th́ thủ tiêu... Lớp tù binh được trao trả về theo Hiệp Định Genève 1954 đă chứng tỏ điều này trong những ngày sau 54, những người tù binh của những chiến trường khốc liệt được Pháp trả về đă bị phân tán, đánh tỉa, bỏ rơi và bắt buộc ở vào t́nh trạng tê liệt cho đến hôm nay, gần hai mươi năm sau ngày trao trả.

Để địch quân bắt giữ là một tội phạm. Người Cộng Sản đă quan niệm như thế. Cả một bộ máy tuyên truyền to lớn của họ không đề cập hoặc khai triển rất ít đối với thành phần những người tù vừa được VNCH trả lại. Trong các báo Quân Đội Nhân Dân, Quân Đội Giải Phóng, tin tức về các cuộc trao trả tù binh Cộng sản được loan báo rất sơ sài, một cột, vài ba gịng. Thiếu vắng hoàn toàn cách đề cao, thổi phồng các “anh hùng” bị giam giữ, bên cạnh những anh hùng sản xuất, anh hùng của đội làm cầu Hàm Rồng..v.v... Số phận những tù binh Cộng sản năm 1973 chắc cũng không khác ǵ những người hai mươi năm trước. Thực tế sau nầy chứng minh mức độ chính xác của lời tiên tri tiên kiến. Người viết gặp lại người tù anh đă trả nơi bờ sông Thạch Hăn năm 1973. Thượng úy Trọng - Trọng “già”, người cùng chung pḥng kỹ luật với Phan Nhật Nam (1983) tại Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa. Trọng đă ở tù từ ngày trao trả mười năm trước v́ tội “Để quân Ngụy bắt giữ!!!”
Đó là số phận của tù Cộng sản chân truyền, dù là người kiên quyết ném cái áo tù binh xuống gịng sông, móc từ hậu môn ra mảnh vải dài khoảng ba tấc ngang bằng ba đốt ngón tay trên ghi gịng chữ “Đả đảo Đế quốc Mỹ” và giữ vững trên đầu từ khi bước xuống thuyền, qua sông, ngồi xuống băng điểm danh. Huống ǵ loại tù binh mắt lạc thần nh́n lên màu cờ đỏ, năo nề không trả lời khi được gọi đến, những người tù tóc bạc, thở dài không che dấu, bước những bước hững hờ, lạnh nhạt giữa hai hàng cán bộ phục dịch tay vỗ vang và ứa tràn miệng cười... Những tù binh quê miền Nam, những tù binh vốn du kích, những tù binh đă gần đến tuổi nghỉ ngơi. Về đâu? Đêm nay ngă lưng xuống nơi đâu, quê hương, gia đ́nh đâu? Ảnh ông Hồ Chí Minh và khẩu hiệu “Không có ǵ quư hơn Độc Lập Tự Do” cũng chỉ nên h́nh ảnh nhạt nḥa vô nghiă... Người tù Cộng sản lưng trần, đầu cúi xuống, bước đi ngập ngừng. Đi măi vào một nơi không bao giờ biết. Không hề biết.
Phần những tù binh quân sự đă thê thảm tội nghiệp như thế, huống hồ ǵ những tù dân sự, những người được gọi là “nhân viên dân sự” của Cộng sản qua định nghĩa của điều 21 (b) Hiệp Định Genève 54: “Nhân viên dân sự là những người đă góp phần vào cuộc đấu tranh vũ trang, chính trị của một bên và bị bên kia giam giữ...” Định nghĩa rộng răi nhưng vô cùng chặt chẽ đă không làm “lọt” một người nào giữa hai bên miền Nam, tất cả mọi người khi lựa chọn một bên để sống tức là đă lựa chọn một chế độ, hoàn tất một thái độ chính trị và “cuộc góp phần” có thể suy diễn từ thái độ này cũng không sợ nhầm lẫn quá độ. Qua định nghĩa này, tức không c̣n bóng dáng “thường dân” trong thời chiến, không c̣n người “dân” thuần túy, độc lập giữa hai thế lực đối kháng Người bị cuốn hút vào không cưỡng chế, phải góp phần tham gia, với một tương quan liên kết về một phe. Không có người làm nghề tự do, không có người buôn bán độc lập mà chỉ có nhân viên dân sự như Nguyễn Văn Tám, bốn mươi ba tuổi từ xă Đông Yên, quận An Biên, tỉnh Rạch Giá làm “gián điệp” cho Tám Cơ ở thị xă Rạch Giá và bị “Chính phủ Lâm Thời” bắt giữ tại địa điểm U Minh trong ngày 2-3-1971.
- Tám Cơ là ai?
- Dạ ổng ở Rạch Giá...
- Tám Cơ bảo anh làm ǵ?
- Dạ bảo làm... gián điệp!!
- Làm gián điệp như thế nào? Làm những việc ǵ?... Nguyễn Văn Tám đứng tṛng, đưa mắt nh́n tôi, anh không biết ḿnh đă làm những việc ǵ có liên quan đến “điệp vụ” nguy nan như từ ngữ đó... Tám Cơ, phải chăng chỉ là một nhân viên t́nh báo của cuộc Cảnh Sát ở Rạch Giá đă nói với Tám trong một lần nào đó: “Vào trỏng thấy ǵ là lạ, ra nói lại nghe”. “Vào trỏng là những khu U Minh mịt mùng mà Tám hằng ngày ra vào để làm lúa!! Gián điệp Tám đă phạm tội nặng ngàn cân với t́nh cảnh một người dân khốn khổ! Gián điệp, tội tử h́nh dù giữa hai quốc gia có tuyên chiến. Tám phạm tội tất nhiên như Tám đă sống trong đời. Phải chăng làm người Việt Nam trong thời đại tàn khốc này đă là một cái tội?!! Trường hợp của bà Lê Thị Tám th́ trái ngược lại, bà Tám năm hai mươi tuổi, tóc khô và người nhăn nhúm, thân thể nhỏ bé quắt queo toát ra một vẻ chịu đựng khốc liệt. Bà Tám mở đôi mắt vàng đục, nhướng những lằn mí mắt sùm sụp, cất giọng phiền năo...
- Tui tên Tám, năm mươi hai tuổi ở làng La Chữ ngoài Huế.
- Bà phải nói đủ nơi sinh, gồm có xă, huyện, tỉnh... Viên Thiếu tá Mặt Trận có nhiệm vụ hỏi ư kiến bà già cũng năo nề trước t́nh trạng mệt mỏi này.
- Hỉ? Chi?!!
- Bà nói cho tôi biết huyện nào?
- Th́ tui “noái” rồi đó, tui ngoài La Chữ, Thừa Thiên...
- Bà bị phía Việt Nam Cộng Ḥa bắt v́ tội ǵ?
- Răng biết?!
- Bà không biết lư do bị bắt th́ tại sao bây giờ lại xin ở lại.
- Theo “bộ đội” th́ biết khi mô về lại ngoài nớ, tui xin về nhà thôi, không được th́ ở tù lại cũng được!!
Đến đây, tôi lại phải chen vào chứ để cho viên thiếu tá này vặn vẹo một hồi, bà Tám nói lung tung th́... vỡ mặt. Tôi can thiệp nhưng ḷng cũng không có niềm hứng khởi đấu tranh... V́ đấu tranh ở đâu khi lôi kéo người đàn bà này về phía quốc gia, với tầng lớp nhân dân mệt mỏi vô t́nh này! Tôi cắt ngang lời phát biểu và các câu hỏi để đặt câu hỏi dứt khoát:
- Bây giờ bà đi theo bên Chính Phủ Lâm Thời hay là phía Việt Nam Cộng Ḥa?
- Tui ở lại.
- Xong, cám ơn bà, bà theo quân cảnh để ra đợi trực thăng về lại Biên Ḥa.
Viên Thiếu tá Mặt Trận giở nón lấy khăn lau đầu, có những sợi tóc bạc đẫm mồ hôi. Dù là người Cộng sản chắc y cũng thoáng ră rời. Bà Tám loắt choắt bước theo người quân cảnh, hai bàn chân nhỏ bước thoăn thoắt, nắng rọi sáng trên đám tóc khô rối. Người đàn bà tội nghiệp này làm sao biết ḿnh vừa lựa chọn một chế độ, vừa phân biệt và quyết định giữa hai đối lực chính trị Quốc Gia - Cộng Sản. Bà đă sống t́nh cờ nơi làng La Chữ, Hương Trà, Thừa Thiên, hàng ngày vào mạn núi phía tây quốc lộ 1 vùng Nam Ḥa (Huế) kiếm củi, có người chận lại đưa cho gói giấy, bảo khi trở về th́ rải gói giấy này trên quốc lộ. Người lạ cũng gởi bà mua thuốc lá, xà pḥng với giá cao. Gánh củi trở thành phương tiện mua bán thứ yếu, cách buôn bán trên trở nên nguồn lợi chính. Bà Tám rốt cuộc bị ủy viên an ninh xă khám phá và giam giữ!!. Bà khai thật t́nh số thuốc lá đă bán, số lời thâu được. Bà cũng rất thành thật nói rằng, sau này khi biết mấy người kia là “bộ đội” th́ có hỏi tin tức về chồng bà đă đi vào phía núi này từ năm 1952, 53... Liên quan giữa bà Tám với “bộ đội” quả rất phù hợp với định nghĩa của điều 21(b) - Điều khoản được hoàn tất từ những đầu óc nhiều kinh nghiệm, nhiều kiến văn. Lẽ tất nhiên không bao giờ nhầm lẫn, sơ sót. Buôn bán tức là có tương quan kinh tế và vong thân chính trị là ǵ nếu không phát xuất từ cơ sở kinh tế. Cuộc tranh chấp lớn hiện nay giữa Cộng Sản và Tư Bản cũng chỉ là hệ quả của sự chống đối tử chiến giữa hai lực kinh tế đối nghịch, Tư Bản - Vô Sản. Vậy bà Tám đă hiện thực một “tương quan kinh tế” tức là dự phần vào cuộc đấu tranh vơ trang chính trị giữa hai bên miền Nam theo điều 7 Nghị Định Thư Tù Binh của Hiệp Định Ba Lê!!! Bà Tám được ghi tên vào danh sách để trao trả về Mặt Trận Giải Phóng tại Lộc Ninh ngày 21-2-74.
Bà Tám đă thê thảm nhưng Phan Anh Hoát lại c̣n đau đớn tàn khốc hơn. Hoát trên bốn mươi, người thấp bé nhẫn nhục. Hoát là công chức ở Huế, bị bắt sau cuộc chính biến miền Trung 1966, v́ Hoát tham gia lực lượng tranh đấu Phật Giáo. Hoát bị đưa vào Sài G̣n và cuộc điều tra đă có kết luận: Hoát phá rối trị an, làm lợi cho Cộng sản, có dạng thức đấu tranh Cộng Sản, nhận chỉ thị từ thành ủy Huế..v.v.. Ngày trao trả 18-2-74 tại Lộc Ninh, Hoát lặng lẽ đi giữa hai hàng cán bộ tiếp đón với nước mắt chảy đầy má. Đám cán bộ Cộng Sản sững sờ trước khuôn mặt đẫm nước mắt và môi mím chặt uất hận. Lần đầu tiên, tại một địa điểm trao trả có hiện tượng phẫn uất đau đớn này. Đi về phía Cộng sản th́ phải vỗ tay phấn khởi, phải bộc lộ căm thù trên đầu nắm tay, trong cái nh́n hung hiểm. Về phía Cộng sản cũng phải dựng lên màn kịch được giải phóng toàn thể, được đời sống tự do tuyệt đối. Nhưng lần đầu tiên của một năm trao trả, người tù Phan Anh Hoát với giọt nước mắt bi phẫn, với lặng lẽ năo nề đă từ chối tất cả, đă buông xuôi tất cả, đă hoàn toàn bó tay giữa một thế lưỡng cực phân tranh mà Hoát hoàn toàn thụ động. Hoát cô độc và yếu đuối giữa hai ư hệ. Hoát thả rơi những giọt nước mắt đớn đau. Hoát chỉ là một trường hợp điển h́nh của đám người cuối đáy tuyệt vọng, những người nghẽn lối và bị xé nát giữa cuộc đấu tranh Quốc - Cộng. Hoát khóc được nhưng một số người đông đảo đă không đủ can đảm để khóc nên gịng nước mắt bi thương đó. Rất nhiều người đă không làm được. Rất nhiều người như thế. Tôi đă biết những người Việt Nam không được khóc giữa các cuộc trao trả.
Những người tù của Gheorghiu quả t́nh đă bị xé nát bởi guồng máy phi nhân của những chính quyền nhân danh Tự Do và Nhân Loại. Người tù Việt Nam, kẻ chịu nạn ghê gớm giữa hai ư hệ đối cực. Họ không có giai đoạn trước và sau thời hạn tù. Sống ở trên đất nước này đă là một cái tội. Họ bị kết án bởi đời sống đó.

13. Ḥa B́nh, tưởng như là giấc mơ

Hôm nay, gần hết tháng thứ năm ḥa b́nh của chiến tranh “Đông Dương đệ nhị”. Người Mỹ đă rút đi cùng bộ máy chiến tranh khổng lồ, khối nhân lực nửa triệu người, hàng trăm máy bay chiến đấu, những phi đoàn trực thăng, hệ thống phi trường dă chiến lần lượt đóng cửa. Người Mỹ phủi tay gọn ghẽ: 1960-73, mười ba năm tham dự vào vũng lầy Đông Dương, nước Mỹ quả t́nh cần phải nghỉ ngơi. Vụ Watergate như một cơn sốt cao độ để người Mỹ trút được khối chất độc tự thân lần cuối. Ngoài giải tỏa chiến tranh, trong dọn sạch nội bộ, người Mỹ uống một liều thuốc nặng “độ” để dứt điểm cơn bịnh. Vệ tinh Skylab hư bộ phận chống nhiệt nhưng được sửa chữa kịp, pḥng thí nghiệm không gian đáp tuyệt hảo xuống biển Thái B́nh sau hai mươi tám ngày bên ngoài khí quyển quả đất.
Bà Golda Meir đón thủ tướng Tây Đức ở phi trường Tel-Aviv với câu nói lịch sử: “Nhân loại sẽ không c̣n nếu không có can đảm mở màn cho những bắt đầu mới...”
Ở Ba Lê, Kissinger mạnh miệng tuyên bố: “Sẽ không trở lại nơi này một lần nào nữa v́ lư do Đông Dương..” Xong, tiếng bạc chót đă đặt xuống. Thế giới thở hơi dài trước một viễn ảnh đẹp đẽ đang ráp nối dần.
Nhưng Nam Việt Nam th́ quả t́nh chưa xong một chuyện nhỏ. Ngày 27.1.73 khi dấu chấm cuối cùng vừa dứt trên văn kiện “Tái Lập Ḥa B́nh tại Việt Nam”, th́ ở Việt Nam, đêm 27 rạng 28-1-73 Thủy quân lục chiến cường tập dứt điểm mục tiêu Tango hay Cửa Việt. Pháo 130 của Bắc quân từ Đông Hà, Khe Sanh đổ xuống vùng Như Lệ, Tân Lê làm quân Dù không thể ngóc nổi đầu... Ngày Chủ nhật 28-1-73 toàn thể các lộ đi vào Sài G̣n đều bị đóng “chốt”. Chốt ở quốc lộ 15 phía nam Long Thành, chốt trên quốc lộ 1 ở Xuân Lộc, Long Khánh, chốt kẹp đường Tây Ninh, chốt giữ đường đi Đà Lạt. Người Việt Nam đón ḥa b́nh với tiếng chắt lưỡi khi mở tờ báo, lúc chui xuống hầm, bế con chạy trốn pháo. Hiệp Định Ngưng Bắn và Tái lập Ḥa V́nh tại Việt Nam: Thật sự đùa cợt tàn nhẫn trên bi thương của dân tộc Việt. Ḥa B́nh, chiếc bóng ao ước của cả một giống ṇi chập chờn ảo tượng. Hôm nay, cuối tháng thứ năm của ngày ngưng bắn, tất cả dạng thức ḥa b́nh vẫn c̣n rời rạc, trừ hiện tượng người Mỹ đă mất hẳn, để khi đi trên đường trong Tân Sơn Nhất, trong Long B́nh, Cam Ranh với canh cánh phản ứng... Hóa ra “Ḥa b́nh” đă đi được một bước cụ thể. Bước trở về của đám lính Mỹ bên kia đại dương Thái B́nh. Và cũng chỉ có mỗi hiện tượng đó, tất cả c̣n nguyên vẹn. Ḥa B́nh - Việt Nam Người ở đâu?
Có một cảm giác không an toàn, âu lo phảng phất trong không khí. Cắt đất thành lập một quốc gia thứ ba, ngưng bắn thật sự lại chỗ chờ đợi Hội Đồng Ḥa Giải và cơ chế chính trị mới. Hay... Đánh trở lại?!! Những câu hỏi nhức nhối theo từng nhịp thở khi nghe tiếng đại bác ŕ rầm vang vọng trong đêm.
Chuyện ǵ sẽ xẩy đến? Và câu hỏi hệ luận: Mặt Trận Giải Phóng hiện đang toan tính ǵ? Lẽ tất nhiên, phần cuối cùng của chiến lược Cộng Sản không thể đơn giản khẳng định với một minh xác cụ thể, nhưng nét chính chiến thuật phải nằm trong toàn bộ chiến lược lớn của Đảng Lao Động Việt Nam mà mục tiêu lớn từ lâu không thay đổi: Nhuộm đỏ toàn thể Đông Dương.
Nhưng dẫu nắm được điểm chính chiến lược của miền Bắc, cũng không thể dễ dàng t́m ngay được giải đáp cho câu hỏi. Đoạn đường dài đó, đảng Lao Động từ lâu đang tâm thực hiện, nhưng nhịp độ, phương thức thực hiện của bước tiến luôn vấp phải muôn ngàn trở ngại do đối kháng của phía Quốc gia, t́nh h́nh quốc tế, nên di chúc Hồ Chủ Tịch được mặc nhiên uyển chuyển thi hành theo các đường ṿng nới rộng hay ép chặt tùy hoàn cảnh. Nhưng cái đích của mọi từ trường hành động vẫn không ra khỏi hai cực nam châm, cụ thể là quyết tâm của người đă chết. Từ quan điểm chiến lược này của đối phương, chúng ta cần thiết t́m nên đường đi trong ư nghĩa tự tồn và tự cứu. Viên đạn của địch đă lên ṇng, ta phải xét thêm vị trí của ṇng súng, thế qú nhắm của địch để từ đó t́m ra đường lối chống đỡ. Lần chống đỡ cuối cùng để vượt qua cái chết hoặc ch́m mất... Lặp lại câu hỏi: Mặt Trận Giải Phóng toan tính những ǵ có thể thay thế bằng một câu hỏi tương tự: Cộng Sản đă mưu tính ǵ khi lấn chiếm những vùng đất có chung nhiều mẫu số.
Qua những vùng đất bị tạm chiếm, chúng ta có nhiều yếu tố để nhận diện đối phương.
29-3-72, mở đầu cuộc tấn công mùa hè vào miền Nam, Cộng Sản Bắc Việt xua 13 sư đoàn bộ binh cùng ba trung đoàn chiến xa theo hai hướng tây-đông và bắc-nam, cường tập vào tỉnh Quảng Trị với mục tiêu thứ nhất là thị xă Đông Hà, sau khi giàn đại pháo 130 ly của ba trung đoàn pháo nặng yểm trợ tiếp cận, quét sạch dăy căn cứ hỏa lực chạy từ làng Vei, Hương Hóa, như Caroll, Sarge, C1, C2, A1, A2, từ biên giới Lào Việt đến bờ biển. Mặt trận Đông Hà vỡ v́ Sư đoàn 3 Bộ Binh và một Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến không thể nào giữ được một tuyến pḥng thủ rộng đến ba mươi cây số không chiều sâu.
Ngày 1-5-72 Quảng Trị mất, người dân dùng tất cả mọi phương tiện để xuôi Nam. Thật lạ, người Việt vốn rất tỉnh, rất thường với biến cố, nhưng khi một làng xóm, một quận lỵ vừa ngửi mùi “bộ đội” gần đến, đă vội vàng di tản. Lữ đoàn 147 Thủy quân Lục chiến giữ nhiệm vụ bao chót, vét hết người dân Quảng Trị cuối cùng và dừng lại tại Mỹ Chánh để lập pḥng tuyến cuối. Điểm giữa đường Quảng Trị - Huế.
Ngày 29-6-72, hai sư đoàn chủ lực của miền Nam, Nhảy Dù phía tay trái, Thủy Quân Lục Chiến tay phải, cùng song song tiến về hướng Bắc lấy quốc lộ 1 làm chuẩn và thành phố Quảng Trị làm mục tiêu cuối cùng.
Bắt đầu từ ngày 29-6-72 và chấm dứt vào cuối tháng 7-72, Quảng Trị “nóng” mùi lính Cộng ḥa, chỉ trừ một chốt cuối: Cổ thành Đinh Công Tráng, ba tiểu đoàn Thủy quân lục chiến hoàn tất nhiệm vụ đúng 12 giờ trưa ngày 15-9-72. Mặt trận Quảng Trị được phân ranh rơ rệt bởi gịng sông Thạch Hăn.
Tháng ngày qua từ từ, cuộc chiến tạm kết thúc với không người thắng cũng không kẻ bại.
Kết quả, Hiệp Định ngưng bắn tái lập ḥa b́nh ra đời, tờ Hiệp Định quái dị, mờ mịt và láu cá như một bài thơ tự do mà mọi phe đều có thể giải thích với phần lợi cho ḿnh. Ḥa B́nh: từ ngữ linh thiêng lần đầu tiên đuợc gọi tới.
Ta kiểm điểm đất đai Cộng sản đă chiếm được ở mặt trận phía bắc: Từ đèo Lao Bảo ra đến Cửa Việt, từ sông Bến Hải vào đến sông Thạch Hăn và đặt lại câu hỏi mà suốt những ngày đầu cuộc đại chiến của năm 1972 đă nhiều lần được nói tới: Cộng sản muốn chiếm Huế hay không? Câu trả lời có thể đặt lên hai vế mà không sợ lầm lẫn. Về mặt chiến thuật, Huế cũng là một mục tiêu nhưng chỉ là một mục tiêu chiến thuật, của Sư đoàn 324B. Bằng tất cả cố gắng, SĐ324B nầy đă cài răng lược với Sư đoàn 1 Bộ Binh VNCH trong dự tính đẩy sư đoàn này ra khỏi các cao độ King, Birmingham, Bastogne, Checkmate ở vùng tây-nam Huế, để từ đây theo trục lộ 547 tiến về Huế (Đường đă một lần được xử dụng trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân). Nhưng Huế chỉ là một mục tiêu chiến thuật lớn chứ không phải là một thành phố mà quan điểm chiến lược Bắc Việt quan niệm đến.
Sự xác định quân sự căn cứ từ các yếu tố, sau khi chiếm được Đông Hà và Quảng Trị, Cộng quân bỗng “khựng” lại ở bờ bắc sông Mỹ Chánh. Sự tŕ chậm của cuộc tiến quân có lư do là phương tiện tiếp vận không đi theo kịp với bước tiến của bộ binh. Nói rơ hơn, Cộng quân không “chuẩn bị” để đẩy quân sâu về phía nam hơn được, trong khi chuẩn bị là ưu điểm số một mà họ đă nhiều lần thực hiện đủ trong toàn thể các chiến dịch... Mậu Thân, Hạ Lào, cuộc tổng tiến công đầu tháng 4-1972 vào Đông Hà, Lộc Ninh, Darkto là những bằng chứng hiển nhiên về cách chuẩn bị kỹ của đối phương. Thế nên Sư đoàn 324B cùng các trung đoàn thuộc quân khu Trị-Thiên của Cộng sản dù có thay phiên nhau nhồi Sư đoàn 1 Bộ Binh ở vùng núi tây-nam Huế, thành phố này vẫn chưa được quan niệm đúng cỡ như điểm dứt của chiến tranh Việt Nam.
Xác định kéo đến một hệ luận: Mục tiêu lớn của cuộc tổng tấn công không vượt khỏi ranh sông Thạch Hăn, đường ranh giới này có thể tính được từ một khối óc điện tử khi có đủ các dữ kiện vừa tŕnh bày. Khoảng đất 150 cây số vuông ở bắc sông Thạch Hăn là một vùng không có tiềm lực kinh tế và 90% dân chúng đă vượt sông bỏ làng mạc xuôi Nam. Không tài nguyên, không nhân lực, khoảng đất trống với thiên nhiên nghèo nàn đó trên ư niệm của chiến tranh cổ điển, chiến tranh chiếm đất, bắt dân, cướp tài nguyên không thể là mục tiêu đúng kích thước được. Nhưng lật tờ bản đồ Đông Dương chỉ với một nhận xét đơn sơ nhất của quan điểm chính trị địa lư, th́ thấy vùng đất nằm hai bên quốc lộ 9, từ Đông Hà đến Tchépone quả thật là một trung điểm để kiểm soát được cạnh sườn tây và đông của dăy Trường Sơn nằm trên ba quốc gia Việt, Miên, Lào. So sánh quốc lộ 9 nằm trên trục Đông Hà - Tchépone - Savanakhet với trục quốc lộ 12 Thakhet - Đèo Mụ Già; trục lộ 19 Stungteng - Đức Cơ - Pleiku th́ nhận thấy ngay được tính chất quan trọng của con lộ kể trên, con đường tương đối ngắn (dài hơn trục bắc và ngắn hơn trục nam) nằm giữa trung tâm của Đông Dương hợp với đường Hồ Chí Minh thành ra một ngă tư nối liền được đông-tây, nam-bắc của bán đảo. Nhận định này cũng chẳng ǵ mới lạ, Cộng quân chỉ lập lại hoài băo mà tổ tiên ta xưa không thực hiện được: Kiểm soát đường số 9, chế ngự Nam Lào để tiến lên bắc, xuống nam b́nh định luôn toàn thể bán đảo. Nhận định có thể kiểm chứng khi ta nh́n lại diễn tiến và kết quả của hai mặt trận khác, Darkto và An Lộc.
Từ Attopeu trên đất Lào, đường Hồ Chí Minh có một hệ thống rẽ về phía đông. Gọi là một hệ thống v́ gồm những con đường phẳng phiu trơn láng chạy quanh co trên các cao độ chập chùng, không che dấu dưới cánh phi cơ quan sát hay bằng mắt trần từ các trại Ben Hét, căn cứ 5 hay từ các căn cứ hỏa lực dọc sông Pôkơ của Nhảy Dù.
Mặt trận Tam Biên bao lâu nay vẫn giữ nguyên cường độ cới các trận đánh quanh các căn cứ 5, 6, cứ điểm Darksong; Sư đoàn Sao Vàng hay Nông Trường 2 (lực lượng chính của quân vùng khu Cộng sản Kontum, Phú Yên, B́nh Định) có nhiệm vụ vừa đánh cầm chừng đồng thời bảo vệ luôn đường dây “giải phóng” nối từ đường dây Xă Hội Chủ Nghĩa (đường Hồ Chí Minh) về miền b́nh nguyên Trung phần. Cao điểm mùa hè 72, Cộng quân xử dụng Sư đoàn Thép hay Sư đoàn Điện Biên (320) tấn công cường tập các mục tiêu Delta, Charlie, Vơ Định của Nhảy Dù, dăy cứ điểm bị vỡ tung dần... Hậu quả tất nhiên là Darkto bị tràn ngập. Nhưng không như ở Quảng Trị, Kontum vẫn không bị tấn công dứt điểm, Bộ chỉ huy Mặt trận B3 (Tây Nguyên) xử dụng thế liên hoàn, luân phiên cho các trung đoàn trực thuộc của Sư đoàn 320 và Sư đoàn F10 thay phiên nhau tấn công vào Kontum hai đợt trong tháng 5-1972, nhưng đơn vị Cộng sản vào được thành phố chỉ là các thành phần đặc công, không có đại pháo, chỉ một ít chiến xa yểm trợ.
Mặt trận Kontum không vỡ, chỉ bị khựng lại trong một giai đoạn ngắn. Cộng quân bị chận lại ở phía nam Vơ Định, một điểm bất ngờ không có được biên giới thiên nhiên để gọi tên. Thành phố cực bắc của vùng cao nguyên tưởng rằng đă có lúc rơi vào ṿng tay địch, rốt cuộc trở nên thành phố yên tĩnh đầu tiên ngay từ đầu tháng 6-1972, khi ông Thiệu đáp trực thăng xuống để gắn sao cấp tướng cho Đại Tá Bá, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh.
Kontum vẫn chưa bị pháo 130 ly, mẫu số trùng hợp với Quảng Trị ở điểm: Tại sao Cộng quân không đưa pháo xuống sâu hơn nữa?
Tại mặt trận An Lộc, quả t́nh Cộng sản đă rơi vào sai lầm chiến thuật khi không phối hợp được chiến xa và quân bộ chiến ở những lần cường tập hồi đầu tháng 4-1972, lúc mà Tướng Hưng chưa bố trí kịp các đơn vị của Sư đoàn 5BB và các lực lượng tăng phái chưa vào trận. Địch mất đi một dịp may lớn để lấy được An Lộc trong lúc đủ thế thượng phong. Mặt trận An Lộc sở dĩ đă có kết quả như đă xảy ra cũng do yếu tố chính: Địch ngă về phương thức bao vây An Lộc, lập chốt dọc quốc lộ 13 để tiêu diệt lực lượng tăng viện chứ không thực hiện phương thức bao vây cường tập, chiếm giữ An Lộc để rồi tiếp tục uy hiếp Lai Khê, B́nh Dương hợp cùng các cánh quân của những mặt trận phụ như Sư đoàn C30B đang ở vùng G̣ Dầu Hạ, Trăng Bàng (Hậu Nghĩa), Công Trường 5 đang ở Dầu Tiếng, Trị Tâm, B́nh Dương, (CT5 sau khi dứt điểm Lộc Ninh ngày 5-4-1972 chia hai lực lượng đánh vào Phước B́nh và Dầu Tiếng) cùng tiến chiếm thủ đô Sài G̣n. Giải thích như vừa kể để chúng ta nh́n rơ lại mục tiêu của Cộng sản, vẫn là các phần đất nằm hai bên quốc lộ 13 và gần biên giới. Nơi thích hợp nhất để họ đặt bộ chỉ huy tiến thẳng về Sài G̣n, sang trái là các tỉnh cao nguyên và nam Trung phần, phía phải là vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời nếu Cộng sản muốn đặt một cái gọi là thủ đô cho chính phủ lâm thời trong vùng này, người ta mới có thể hiểu được lư do chọn lựa kể trên.
Nh́n lại ba vùng chiến trận của thời gian qua, căn cứ vào những sự kiện chính trị của địch, diễn tiến, kết quả và hậu quả của hội nghị Ba Lê, ta có thể đúc kết nhận định tổng quát với hai điểm nổi bật:
Thứ nhất, cuộc tổng tấn công mùa hè 72 vào ba vùng của Việt Nam Cộng Ḥa với mục tiêu là những thị trấn, những vùng đất biên giới, không thuần túy chỉ là những cuộc tấn công quân sự nhằm biểu dương sức mạnh của chế độ và các mục tiêu sở dĩ được chọn lựa chỉ v́ thuận lợi cho việc tiếp vận, tiếp trợ và điều động chiến thuật. Trận đại chiến được thực hiện không với ư niệm giản dị như thế, nó có mục đích to lớn, tổng quát hơn mà chúng ta có thể t́m thấy được do căn cứ trên những sự kiện khác - Đấy là khi ba mặt trận lớn bùng nổ, các mặt trận phụ ở những vùng đông dân cư, vùng bản lề mở cửa vào thủ đô, những vùng tiếp giáp với bờ biển như Hoài Ân, Bồng Sơn, Bà Rịa, Long An, Chương Thiện, Tây Ninh, B́nh Dương, Long Khánh đều bùng nổ với cường độ dồn dập. Những trận đánh này không thể quan niệm như là những cuộc hành quân thuần túy quân sự với âm mưu hỗ trợ cho ba điểm chính.
Thật quá giản dị khi cho rằng quận Đất Đỏ (Phước Tuy), quận Hoài Ân, căn cứ Đệ Đức (B́nh Định) là những mục tiêu chính của cuộc tổng tiến công. Lẽ tất nhiên, chúng chỉ là mục tiêu lớn cho một tiểu đoàn, vài đại đội; nhưng cuộc đại tấn công có tính chất chiến lược quan trọng hơn; Bắc Việt muốn gây lại cho Mặt Trận Giải Phóng hệ thống hạ tầng cơ sở ở khắp miền Nam, đặc biệt nhắm vào những vùng đông dân, bản lề, để chuẩn bị lực lượng quần chúng đấu tranh cho những ngày của... Ḥa B́nh - Những ngày sau 27-1-1973. Một hướng khác, thuần túy quân sự và rơ ràng hơn, là trong trường hợp lực lượng quân sự Cộng sản dứt điểm được các mục tiêu Quảng Trị, Kontum, Pleiku, Lộc Ninh, họ sẽ triển khai thành một tuyến biên giới xong đánh úp toàn bộ miền Nam, từ Quảng Trị đánh sâu xuống Huế chiếm đèo Hải Vân, cánh quân từ Kontum tràn xuống đồng bằng lập ṿng đai dọc quốc lộ 19 chia đôi miền Nam bởi trục Kontum - B́nh Định, và cánh quân An Lộc sẽ dứt điểm Sài G̣n. Trong chiều hướng này Cộng sản sẽ phá bỏ Hội Nghị Paris, thành lập chính quyền đỏ, thống nhất đất nước, tràn qua phía tây bắt tay với các cơ sở nằm vùng phía đông sông Cửu Long ở đất Miên vẽ lại bản đồ Việt Nam!! Ư hướng này (lẽ tất nhiên) đă không thực hiện được...(1)
Cuối thu 72, cuộc đại chiến lắng xuống, một vài vùng đất của Việt Nam Cộng Ḥa bị Cộng quân tạm chiếm được giải tỏa, các thị trấn lớn dần dần dứt pháo. Thế nhưng, những đường giây giao liên quan trọng (Đă bị đứt khúc, vỡ tan sau các cuộc hành quân lớn như Johnson City hồi năm 67, sau Mậu Thân và bị vô hiệu hóa trong giai đoạn 69, 70...) dần dần được nối lại. Từ đường ṃn Hồ Chí Minh khoảng ở Attopeu, các cán binh Cộng sản có thể yên lành theo đường 36 vào Ben Hét, đến Darkto để từ đây theo đường 14 lên hướng bắc tiến vào thượng lưu sông Thu Bồn, ngỏ chính đường về đồng bằng Quảng Nam hoặc từ Darkto theo hướng đông vượt sông Dark-Psi cặp theo đường liên tỉnh số 5 vào thung lũng Gia Vực, từ đây ra Quảng Ngăi hay vào B́nh Định chỉ c̣n là kỹ thuật di chuyển.
Cuộc đại tấn công cũng đă nối lại được những đường dây ở bên kia biên giới Kampuchia để về Việt Nam. Các mật khu Ba Thu, Lư Văn Mạnh, Rừng Chàm, Bà Vụ, cuối cùng là những nơi “ém quân” sát nách thủ đô Sài G̣n và cách trung tâm Sài G̣n với cự ly súng cối 82 ly. Những đường dây nối lại, những vùng “xôi đậu” dày hơn, tốc độ đắp mô, gài ḿn tăng trưởng, ấp Mỹ Nhơn, Mỹ Yên cạnh quốc lộ 4 nằm giữa ranh hai quận B́nh Chánh (Gia Định), Bến Lức (Long An) biến thành hai ấp hạng C, ban ngày cán bộ xă Việt Nam Cộng Ḥa khó khăn vào thu thuế.
Một t́nh h́nh tổng quát tương tự như những ngày của năm 1960 với lớp cán bộ hạ tầng cộng sản mới có khả năng và tuổi trẻ hơn, bắt đầu cấy sâu dần nơi nông thôn miền Nam: Những cán bộ chính trị người Bắc. Thế trận chính trị bắt đầu, những ngày đầu năm 1973 kịp đón nhận biến cố: Hội nghị Ba Lê hoàn tất bản thỏa hiệp.
Thứ hai, cuộc đại chiến dù trải qua sáu tháng quân sự dồn dập v́ đă có khi người ta nghĩ đến lúc cán bộ đặc công Cộng sản chờ lệnh giờ G (Giờ khởi đầu của lệnh hành quân) là ra mặt tàn sát, khởi đầu bạo động trong các thành phố lớn. Cũng có lúc người ta nghĩ rằng Hà Nội khó đứng vững thêm một ngày một buổi nào nữa, khi 100 pháo đài bay B52 không kể 300 chiến đấu cơ hộ tống cùng đánh bom liên tục trong 12 giờ, từ b́nh minh đến hoàng hôn trên vùng trời Hà Nội như trong ngày 5-12-1972. Nhưng tất cả khó khăn căng thẳng đều đi qua, bản Hiệp Định ngưng bắn vẫn được hoan hỷ kư kết cùng với những điều khoản được dự trù thực hiện trong khoản thời gian có giới hạn. Các yếu tố cụ thể dần dần được thống kê và hợp thức hóa để sẳn sàng tham dự tṛ chơi “Ḥa B́nh”.
Các chuyến bay thả tù từ Phú Quốc, Biên Ḥa; nhận tù ở Gia Lâm (Hà Nội), Lộc Ninh (B́nh Long) được thiết kế và phân công. Hiệp Định đi bước thực hiện đầu tiên: Trao trả và tiếp nhận tù binh. Các địa điểm trao trả đă sẵn sang. Kết quả tích cực nhất của chín tháng đại chiến.
Hai tháng sau ngày hiệp định kư kết, 26.058 tù cộng sản, 5018 tù Việt Nam Cộng Ḥa dần dần được trao trả trên sáu địa điểm chính, bờ bắc sông Thạch Hăn, Quảng Trị, Đức Phổ (Quảng Ngăi), Hoài Ân (B́nh Định), Lộc Ninh, Minh Thạnh (B́nh Long) và Thiện Ngôn (Tây Ninh). Cuộc trao trả tù binh đă vô t́nh hợp thức hóa “thực thể”: Mặt Trận Giải Phóng có được một vùng tạm kiểm soát lốm đốm, xen kẽ lẫn vùng Việt Nam Cộng Ḥa. Điều này làm mạnh thêm nhận định: Cuộc đại chiến chỉ là mặt nổi, dứt điểm cho hội đàm; thế nên chiến trận dù đă đạt đến cường độ cao nhất cũng chưa phải là “điểm nổ” để gây nên hệ thống nổ dây chuyền ảnh hưởng đến toàn thế giới. Hội nghị Ba Lê do đó đă không thể tan vỡ để bản hiệp định như là cơn hạ sốt phải đến sau cùng.
Nhưng đến khi phải thi hành hiệp định, phía Cộng sản đă không chấp thuận phương thức ngưng bắn tại chỗ, vạch đường phân ranh tạm thời, ấn định mỗi vùng trú quân tạm thời cho hai lực lượng tham chiến, cấp chỉ huy chiến trường gặp gỡ để cam kết, cụ thể hóa vấn đề ngưng bắn (Điều 2, 3 và 7 của đề nghị VNCH). Phía Cộng sản đă không chấp nhận danh xưng “vùng trú quân tạm thời”, họ lư luận đó là các vùng kiểm soát “thực tế” của MTGP, không cần phải xác định ở cấp trung đội, tiểu đội, nơi nào có cán binh Cộng sản, nơi đó phải được xem như vùng “kiểm soát” của họ. Cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau chưa đủ, phải từng cá nhân vơ trang của cả hai bên mới hội đủ cho điều kiện thảo luận ngưng bắn.
Những đ̣i hỏi như trên lẽ tất nhiên không thể chấp nhận được. Nhưng kinh qua sự kiện cùng các diễn tiến của hội nghị Ba Lê trong hạ tuần tháng 5, 7-73 và những ngày trước thông cáo chung 13-6-73, người ta thấy hiển hiện một âm mưu thâm độc của phe bên kia: Cộng sản muốn hợp thức hóa vùng đất kiểm soát để có đủ yếu tố cụ thể cho một “nước” với chính phủ, quân đội và đất đai riêng. Âm mưu đă ló dạng toàn thể vào những ngày đầu tháng 6-73 tại bàn hội nghị Liên Hợp Quân Sự cũng như ở La Celle Saint Cloud.
Đến đây, có thể có thêm một nhận xét. Chánh quyền VNCH và cả MTGP đều có chung một ưu tư về thành phần thứ ba trong Hội Đồng Ḥa Giải (Điều 12a của Hiệp Định), một thành phần tuy yếu “lực” hơn hai thành phần kia nhưng là “hy vọng” của toàn bộ hiệp định.
Sự kết luận về “nước” thứ ba như trên có vẻ khó thực hiện khi nh́n t́nh trạng đóng quân hiện tại của lực lượng vơ trang MTGP một t́nh trạng loang lỗ trải dài trên miền Nam qua các tỉnh Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngăi, Kontum, B́nh Định, Pleiku, Tuy Ḥa, B́nh Long, Tây Ninh, Chương Thiện, Kiến Phong. v.v... Có nơi Cộng quân chiếm được một quận hoặc một vùng rộng lớn như phần đất bắc Quảng Trị xuyên qua các quận Triệu Phong, phần đất bắc Kontum (quận Tân Cảnh), phần đất bắc B́nh Long (quận Lộc Ninh và một phần quận Chơn Thành, An Lộc). Có nơi cộng sản chỉ chiếm được một ấp nhỏ sát vùng kiểm soát như ở Quảng Ngăi (ấp Vạn Lư thuộc quận Đức Phổ). Có nơi Cộng sản không chiếm hẳn được một ấp xă hay thị trấn nào như ở Chương Thiện, Định Tường, nhưng nhiều vùng trong các tỉnh này có rải rác cán bộ chính trị nằm vùng và lực lượng địa phương, du kích khi ẩn khi hiện.
Từ nhận định vừa được cấu thành, nh́n vào kết quả của chiến tranh và diễn tiến của ḥa đàm, những buổi họp ù lỳ của ban LHQS hai bên trong suốt thời gian tháng 4, 5-73, bế tắc toàn diện của hội nghị song phương tại Ba Lê, cuối cùng là bản thông cáo chung của Kissinger và Thọ. Chúng ta có thể đi đến những kết luận như trên mà không sợ sai lầm về ư đồ của đối phương trong suốt quá tŕnh trước và sau 27 tháng 1-1973.
Tuy nhiên, dù sự kiện đă sáng tỏ nhưng kết luận toàn diện và khả thể nhất vẫn là điều chưa khẳng định dứt khoát được v́ diễn tiến, mục tiêu đấu tranh quân sự, chính trị của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam vẫn là một điều bí mật, nằm trong những khối óc, trên bàn giấy của Duẫn, Đồng, Giáp, Thọ. Nghị quyết của ngày 10-2-73 cũng chưa phải là điều suy tư chính thức của các Ủy Viên Trung Ương Đảng mà có thể là một trong những nội dung “bề mặt”, đôi khi không phản chiếu ǵ đến “điểm chiến lược” mà có thể những ủy viên cũng không đồng nhất hoặc hoàn toàn khẳng định.
Thế nên, những kết luận sau, có thể xem như một lối nh́n giữa một rừng hỏa mù mà toàn đất nước đang ch́m sâu:
a) Cuộc đại tấn công là “điểm” chính đối với các sư đoàn chính quy Bắc Việt, dùng hết lực đánh phá chiếm đóng các thành phố, ví dụ như Huế, Kontum, B́nh Dương và có thể được là Sàig̣n (Như dự định đầu tiên của mặt trận An Lộc). Chiếm các đô thị lớn, lật đổ cơ cấu chính trị hành chánh của VNCH, phá bỏ hội nghị Ba Lê. Nhưng như thực tế đă xảy ra, phía Cộng sản không thực hiện được sự trù tính này. Hội nghị Ba Lê do đó có kết thúc ngày 27-1-1973 với một thỏa hiệp có thể giải thích dưới nhiều quan điểm khác nhau.
b) Không thực hiện được dự tính theo phương cách trên, Cộng sản dựa một chân trên các phần đất đă chiếm được để giải thích bản hiệp định theo ư đồ riêng. Ư đồ này này được nhận rơ khi Cộng sản khước từ đề nghị của VNCH về việc ngưng bắn tại chỗ, cấp chỉ huy chiến trường hai bên gặp nhau, định vùng trú quân tạm thời cho hai bên trong khi chờ đợi thành lập Hội Đồng Ḥa Giải, tổ chức tổng tuyển cử. Phái đoàn MTGP luôn luôn nhắc đến điều kiện tiên quyết trên của MTGP; vậy chúng ta cần mở một cánh cửa mới để t́m hiểu thêm một sự kiện khả thể khác, một dự phóng đi xa hơn các điều 9 và 12 của Hiệp Định (Về quyền tự quyết của miền Nam và tinh thần ḥa giải giữa các phe). Để hiểu rơ sâu xa và cụ thể hơn, chúng ta xét đến chi tiết của từng vùng tạm chiếm.
Vùng đất tiếp giáp nam Quảng Trị, vùng đồi từ phía nam Khe Sanh, Hương Hóa càng về phía nam càng đi ra gần biển. Bắt đầu từ Văn Xá núi chỉ cách đường số 1 khoảng mươi cây số đường chim bay. Truồi và Cầu Hai, Trường Sơn đi song song với bờ biển và cuối cùng mơm Hải Vân, ranh giới thiên nhiên giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Trong vùng núi đồi này, cộng quân đă bố trí sư đoàn 325 từ Khe Sanh xuống đến vùng Cổ Bi, Hiền Sĩ (An Lỗ,Thừa Thiên - Huế) và từ đây sư đoàn 324B (đă có mặt từ lâu) nối tiếp hoạt động sâu xuống phía nam hướng A Sao, Thừa Thiên. Trên trăm cây số đường núi song song với quốc lộ 1 từ Quảng Trị đến A Sao có các đường 518, 547, 548, 561 trước kia chỉ là những đường ṃn di chuyển bộ binh, nhưng từ sau ngày 27-1-73, khi các mặt trận chấm dứt, Cộng quân dồn nỗ lực khai thông và kiến tạo hệ thống đường ṃn trên, nhất là đường giao liên T7 (Đường về A Sao hay căn cứ địa 611) thành những con đường rộng răi trải đá để xe Molotova có thể di chuyển. Từ A Lưới, cách biên giới Lào Việt chừng mười cây số, đường giây T7 có một đoạn rẽ sang mặt để nối vào lộ 922 trên đất Lào. Đường 922 là một nhánh rẽ của đường 92 hay binh trạm 36 thuộc đường 559 hay cũng là đường ṃn Hồ Chí Minh, đường dây Xă Hội Chủ Nghĩa. Thung lũng A Lưới, A Sao vốn có sẵn ba phi trường; Phi trường A Lưới, Tà Bạt thuộc loại lớn, máy bay C130 có thể xuống được nếu có hướng dẫn, nay nếu hoàn tất thêm hệ thống đường bộ th́ vùng núi non này không c̣n là một vùng bị cách trở với các thị trấn miền biển, lại càng gần gũi hơn với các vùng nội địa Đông Dương. Trên thực tế, vùng này nằm ngang với Đà Nẵng trên một vĩ tuyến, (cách vĩ tuyến 16 khoảng một trăm cây số về hướng bắc) và cũng là trung b́nh điểm của vùng đất kể từ Đà Nẵng vào đến biên giới Lào, Thái. Phi trường A Lưới, Tà Bạt c̣n được ghi nhận là phi trường của mọi thời tiết. Từ A Sao, Cộng quân đang dồn mọi nỗ lực để nối tiếp đoạn đường sạn đạo xuôi Nam. Đoạn Khe Sanh, A Sao tuy được thiết lập trên những đỉnh Trường Sơn, vùng Triệu Phong (Quảng Trị), Nam Ḥa (Thừa Thiên), nhưng vùng núi non này tương đối dễ dàng với những đỉnh núi cao chỉ trên dưới ngàn thước như ở thượng lưu sông Mỹ Chánh ranh tỉnh Quảng Trị, Thừa thiên. Đoạn đường phía nam A-Sao th́ gai góc, khó khăn hơn, ranh Thừa Thiên, Quảng Nam từ Hải Vân trở vào đất Lào là một chuỗi núi trẻ, cao độ trên một ngàn thước chập chùng tiếp nối vào nhau với những sườn dựng thẳng đứng đổ xuống các thung lũng hun hút, mở đầu cho những nhánh thượng lưu của hệ thống sông Buông, sông A Vương, sông Côn... Nhưng Cộng quân đang khai triển tối đa khả năng nỗ lực của cán binh và dân công phần đông là tù binh VNCH để khai rộng con đường 458 hầu nối hết những nút cuối của chặng đường mà tiền nhân xưa đă một lần xử dụng: Con đường nối vùng núi rừng Kontum theo trục Kontum - Quảng Nam - Thừa Thiên - Quảng Trị, nay được hiện đại hóa bằng các địa danh mới: Khe Sanh - A Lưới - A Sao - Đại Lộc - Darkto, bởi một hệ thống đường giây: 547, 458, bắc quốc lộ 14(Bắc Kontum). Đầu và cuối của hệ thống này được mắc nút vào hai trụ của đường dây Xă Hội Chủ Nghĩa. Cần mở thêm một ngoặc đơn ở đây để xác nhận thêm ư định của địch, trong những địa điểm mà Cộng sản đưa ra để trao trả tù binh có vị trí cách Hà Tân (Quảng Nam) mười cây số đường chim bay về hướng đông và thung lũng Hà Tân chính là điểm nối của đường 458 với cực bắc của đường 14 chạy từ Kontum lên.
Từ vùng Tà Lơn, Hà Tân của vùng Quảng Nam này, công việc xuôi xuống đồng bằng sông Thu Bồn (Vùng Duyên Hải Quảng Nam) hay theo quốc lộ 14 để vào Nam (Bắc của Kontum) không vấp phải trợ lực của thiên nhiên nào đáng kể. Con đường 14 của đoạn này lại cập theo con sông Cái chạy giữa một thung lũng trống trải, chỉ cần sửa chữa với các phương tiện tối thiểu cũng xử dụng lại dễ dàng.
Chúng ta vừa đi qua một vùng địa thế bao gồm các phần đất thuộc các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngăi, Kontum và B́nh Định với hệ thống đường giao liên 518, 516, 517, 548 (Vùng Khe Sanh), 458 (Vùng ranh Thừa Thiên - Quảng Nam), đường số 14, liên tỉnh lộ 5 (Nối Kontum À Quảng Ngăi) và đường dây 514 (Nối Quảng Ngăi - B́nh Định: Từ thung lũng Gia Vực đến thượng lưu sông An Lăo), đường dây này Cộng quân đă xử dụng để chuyển chiến xa từ vùng ba biên giới xuống tham chiếm mặt trận Hoài Ân hồi tháng 5-72. Hệ thống đường đă và đang được tu sửa lại để có một trục lộ giao thông song song với quốc lộ 1 xuyên qua vùng núi non của năm tỉnh cực bắc VNCH. Hồi chánh viên Trần Đức Cường đă nói rơ hơn về đoạn bắc con đường: “Hiện họ (Cộng sản) đang khai dụng theo một đường mới ở dăy Trường Sơn từ Quảng Trị đến Quảng Nam, ba tiểu đoàn dân công được xử dụng để sửa sang lại đường xâm nhập này và phi trường A Lưới. Từ bốn tháng nay, kể từ 27-1-73, chiến xa hạng nặng bắt đầu di chuyển rầm rộ theo con đường này để từ Quảng Trị vào Nam...”
Điều này chứng minh cho nhận định đầu tiên của bài viết: Cộng sản không “tha thiết” lắm với các mục tiêu thành phố. Các thành phố nếu có thể, chỉ là mục tiêu đến sau đối với các sư đoàn chiến thuật. Và chiến trận đă diễn ra dưới một cường độ hợp lư để không đi đến điểm nổ cuối cùng. Cả hai bên đều có lư thắng khi giải thích các thành quả ḿnh đă thu đạt được tại chiến trường (1972). Và hai bên cũng đều có lư thắng khi giải thích kết quả của Hiệp Định Ngưng Bắn 1973.
Từ những sự kiện được móc nối hợp lư như trên, chúng ta có thể t́m đến kết luận không xa với sự thật và chính xác: Cộng sản không thể và cũng không bao giờ từ bỏ phần đất cặp theo sườn đông Trường Sơn chạy qua năm tỉnh khi họ đă được nối ráp vào nhau thành h́nh tượng thực tế. Dăy Trường Sơn chỉ là biên giới thiên nhiên chứ không thể là biên giới nhân văn hay chính trị khi khối nhân lực ở đông và tây của dẫy núi cùng trong một lực lượng quân sự mang chung một ư hướng chính trị. Và như vậy con đựng giao thông qua vùng Trường Sơn chỉ được quan niệm như lối đi b́nh thường trong một xứ sở núi non.
Âm mưu thành lập một quốc gia thứ hai ở miền Nam không phải chỉ được bộc lộ trong ư hướng tấn công vào các mục tiêu như đă nói, cũng không phải chỉ hiện rơ ở cách thức củng cố, xây dựng các phần đất tạm chiếm được, mặc dù ở bàn hội nghị họ luôn luôn chối bỏ ư đồ này bằng những luận cứ vô cùng tha thiết: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một... Không có hai nước Bắc và Nam Việt Nam, vĩ tuyến 17 chỉ là giới tuyến quân sự tạm thời... Đất nước sẽ thống nhất bằng tổng tuyển cử, hiệp thương, quan hệ hai miền b́nh thường, th́ làm ǵ có nước thứ ba, thứ tư được!!” Nhưng luận lư vẫn chỉ là một lối nói, một số lời nói được học thuộc để xử dụng trong một giai đoạn nào đó, thế nên những cán bộ có bổn phận ở bàn hội nghị cứ phải nói, phần đằng sau (tức là vùng Cộng sản chiếm được) vẫn phải xây dựng, củng cố cơ sở, đấu tranh trên mọi “diện” để làm sao nổi bật được thực tế “vùng giải phóng”.
Con đường xương sống như vừa tŕnh bày đang được tiến hành và đang được nối dài xuống phía Nam để nối vào đoạn Tây Ninh - B́nh Long - Phước Long qua trục Quảng Đức - Pleiku, (Sẽ trở lại vấn đề này ở đoạn cuối bài viết).
Chúng tôi tiếp tục tŕnh bày công việc xây dựng “vùng giải phóng” của Cộng sản... Tại những nơi Cộng sản chiếm được sau tổng tấn công 1972 như Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà, Tân Cảnh (Kontum), Xa Mát, Thiện Ngôn (Tây Ninh), Đức Cơ (Pleiku) đều đưọc xây dựng thành những trung tâm hành chánh, kinh tế. Họ đặt các Ủy Ban Hành Chánh, các “chính quyền địa phương nhân dân” và xử dụng các danh xưng này thật nghiêm túc... - Tôi, Thiếu tá Trần Cảnh đại diện chính quyền địa phương tỉnh Pleiku - Viên thiếu tá mặt xanh mướt v́ sốt rét vừa chui từ hóc rừng Đức Cơ ra đến địa điểm trao trả Đức Nghiệp (Tây-nam Pleiku ba mươi cây số đường chim bay) đă nói với giọng không chút khôi hài. Không phải chỉ một ḿnh Trần Cảnh, nhưng toàn thể cán bộ, binh lính Cộng sản đều phải thực hiện mô thức “Chính phủ Lâm Thời với vùng kiểm soát cụ thể...” đó. Trong mục tiêu của việc thành lập “nước” thứ hai cho Chánh phủ lâm thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam, Bắc Việt đă đẩy vào Nam hàng chục ngàn dân chúng thuộc các tỉnh bắc Trung Việt vào định cư ở những vùng Tây nguyên, miền đông Nam phần, phần phía Bắc tỉnh Quảng Trị, sinh sống theo phong trào “quê hương mới”, phong trào đặt trọng tâm vào khối cán bộ, mà đa số là thanh nữ trẻ, những thanh nữ này có “nhiệm vụ” kết hôn cùng đám binh sĩ trẻ tuổi đă đi vào đây trước, hiện tại đă được biến cải thành người miền Nam (Những người miền Nam quái dị với giọng nói thổ âm miền Bắc). Đến đây, chúng ta có thể xác định mà không sợ sai lầm: Khẩu hiệu “Sinh Bắc Tử Nam” không là một khẩu hiệu “khích động chiến thuật” nhưng là một “chỉ đạo chiến lược” để hoàn tất cuộc xích hóa miền Nam. Và như thế, chiến tranh chỉ là một môi trường, quân đội chỉ là một phương tiện để miền Bắc chuyển khối nhân lực đầu tư vào miền Nam. Vậy, Mặt Trận cách mạng giải phóng miền Nam, Chính phủ Lâm thời CHMNVN sẽ lần lượt đóng hết vai tṛ “chiến thuật” của nó, trận chiến cuối cùng, trận đấu then chốt vẫn chỉ là chúng ta cùng miền Bắc qua tấm đệm “Mặt Trận”. H́nh như cả thế giới, một số đông của thế giới không nh́n được âm mưu ghê tởm độc hại này. Nhưng cũng chỉ là một âm mưu rất rơ mặt.
Để tăng thêm cường độ hiện thực cho nước thứ hai kia, ngựi Cộng sản ngoài việc lập các nhà máy kỹ nghệ, điện lực ở các “thị trấn” Xa Mát, Đức Cơ, không quên khai triển hoạt động ngoại giao để có đủ h́nh thức một tổ chức quốc gia về cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời CHMNVN. Đại sứ Nga, Trung Cộng, Algérie cũng có màn tŕnh Ủy Nhiệm Thư lên Nguyễn Hữu Thọ; Chủ Tịch Thọ họp báo quốc tế... v...v... Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam đang được ráp nối dần từ mảnh như từng khúc đường trong vùng núi rừng Trường Sơn trùng điệp.
Ngoài ra, c̣n có thêm một điều đáng chú ư để làm mạnh cho luận cứ trên nếu là Cộng sản muốn phá vỡ bản hiệp định bằng đường lối quân sự th́ khoảng thời gian tháng 6-73 vừa qua quả là giai đoạn chín mùi cho chuẩn bị chiến thuật. Nhưng Cộng sản vẫn không mở cuộc đánh phá cấp độ lớn, không phải do ḷng yêu chuộng ḥa b́nh cũng không phải bởi tinh thần tôn trọng bản hiệp định mà họ đă kư, nhưng như Nghị Quyết ngày 10-2-73 của Cộng Sản Bắc Việt đă giải thích t́nh h́nh và đường lối đấu tranh sắp tới không phải thực hiện bởi ṇng súng, điều này cũng phù hợp với nhận xét về cộng sản của J. Honey sau khi viếng thăm Hà Nội: “Cộng sản Bắc Việt vẫn chủ trương xích hóa toàn thể Đông Dương (Tuyên bố hôm 27-3-73); có điều sách lược đấu tranh được quan niệm theo một đường lối khác.”
Vậy theo đường hướng mới nầy, một xứ sở “an toàn” nằm trên ba vùng đất trung tâm của bán đảo Đông Dương, cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam của Bắc Việt chỉ c̣n một khoảng cách chiến lược tối thiểu để hoàn tất bước chót của ư đồ.
Qua các tin tức từng được phát giác, chúng ta khẳng định được rằng cách thức sửa soạn của Cộng sản ở phía bên kia gịng sông Thạch Hăn, trên miền thung lũng Ba Ḷng, nơi phía tây cố đô Huế kéo dài xuống miền Nam dọc theo dẫy Trường Sơn cộng với các tin tức tại miền Lộc Ninh, các vùng đất từ Tây Ninh qua B́nh Long sang Phước Long với các mật khu Tam Giác sắt, Dương Minh Châu, Hố Ḅ, Bời Lời.v.v... Các mưu toan chiếm lĩnh toàn thể vùng núi Thất Sơn tại Châu Đốc, đặc biệt vùng núi Dài, núi Cấm với những hang động thiên nhiên hiểm yếu, những trận đánh dằng dai trong śnh lầy miền Chương Thiện để tranh giành những làng xóm hoang vu, những cánh đồng cỏ mọc thay lúa, người ta thấy chiến thuật của Cộng sản vẫn là không bao giờ để đối phương có th́ giờ nghỉ ngơi, đồng thời chính lực lượng của họ cũng không được phép nghỉ ngơi. Sự nghỉ ngơi đưa đến suy nghĩ, thắc mắc, so sánh, không có ǵ lợi ích cho mục tiêu do các lănh tụ mà đầu óc đă chai cứng qua mấy chục năm vinh nhục vạch ra và nay họ phải thực hiện, Các tin tức trong các vùng Cộng sản tạm chiếm cho biết rằng, ngoài những sự sửa soạn cho đến những quyết định về những ngày sắp tới. Cán bộ Cộng sản luôn luôn học tập xách lược đấu tranh chính trị trong giai đoạn mới, cán binh được học tập đấu tranh vơ trang phối hợp chính trị để lung lạc tinh thần dân chúng. Người Cộng sản c̣n nhấn mạnh một cách đặc biệt sự huấn luyện các thành phần dân chúng c̣n kẹt lại trong các vùng họ chiếm được. Các tin tức cho biết họ tổ chức đám dân này thành đội ngũ, vừa tuyên truyền vừa dọa nạt, thành từng đội, từng tổ sản xuất, chiến đấu, thu thuế, dân công v.v... Họ đă lưu tâm tới đám thiếu niên, v́ tuổi trẻ dễ bị kích động, dễ tin nên dễ lợi dụng. Đây là khối nhân sự có giá trị lâu dài về cả quân sự và chính trị. Rút tỉa kinh nghiệm từ những ngày tháng đại chiến dai dẵng của năm 72 và những năm trước, họ tổ chức lại nhân sự, chuẩn bị lương thực trong tinh thần tự túc tự lực, tái trang bị và tăng cường tối đa khả năng vơ khí tối tân gồm cả chiến xa, đại pháo, pḥng không, hỏa tiễn chuyển vận từ miền Bắc vào. Hiệp Định Ba Lê chỉ như một cuộc dừng chân tạm nghỉ để người Cộng sản chỉnh đốn lại hàng ngũ và trang cụ. Người ta cũng thấy sách lược của họ vẫn là sách lược cổ điển, giai đoạn sắp tới, người ta sẽ không thấy cuộc xâm lăng của miền Bắc tại miền Nam Việt Nam nữa, nói một cách khác, ư định của một cuộc xâm lược như vậy sẽ được Cộng sản Bắc Việt né tránh tối đa để người Việt Nam và nhân dân thế giới hiểu rằng, cuộc chiến tranh khủng khiếp sẽ xảy ra trong tương lai chỉ hoàn toàn là của “Nhân dân miền Nam Việt Nam”, do cái gọi là “Chính Phủ Cộng Ḥa Nhân Dân miền Nam Việt Nam” lănh đạo với đất đai và quân lực riêng, nghĩa là của một quốc gia chống lại một quốc gia”. Nói như vậy để chúng ta hiểu thế quốc tế “tế nhị” gây nên bực tức cho chúng ta, do phía Cộng sản tạo dựng thành và thế trận quốc nội từ một lực lượng vơ trang không dân không đất ngày nào, tuy không được công nhận nhưng là một thực thể khiến cho công cuộc chiến đấu sinh tồn của chúng ta sẽ càng ngày càng đi vào những khó khăn phức tạp.
Những tin tưởng vào sự kiện Nga Sô, Trung Cộng bắt tay với Mỹ và cắt chiến phí cung cấp cho Bắc Việt để chấm dứt chiến tranh (Nếu thật sự đi chăng nữa) cũng chỉ có giá trị giai đoạn; v́ sách lược xâm lăng của Cộng sản luôn luôn biến thái tùy hoàn cảnh. Không thể nào không xảy ra trường hợp Nga Tàu dù đă đồng ư với Mỹ thôi cung cấp chiến cụ cho Bắc Việt mà chiến tranh vẫn đột nhiên tái phát khủng khiếp trong một lúc nào đó. Tóm lại, những chuẩn bị của Cộng sản trong các khu vực họ tạm chiếm trước ngày 27-1-73 hoàn toàn không có ư nghĩa như một củng cố cho các vùng đất nầy về mặt kinh tế chính trị để sống trong ḥa b́nh: Không hề là như vậy!!
Tháng 6-1973

14. Tống Lệ Chân: giọt nước mắt khô của Ḥa B́nh Miền Nam

Khi người dân trên toàn thế giới rung chuông, mở rượu, tung giấy ngũ sắc để chào mừng Ḥa B́nh Việt Nam, cùng lúc đó tại một hóc hẻm của Việt Nam, trên ngọn đồi cao năm mươi thước giữa ranh giới hai tỉnh Tây Ninh, B́nh Long, một cứ điểm quân sự trông xuống hai con suối bắt đầu nổ súng như tia chớp giữa ngày quang.
Trận đánh Tống Lệ Chân bắt đầu nặng độ. Lợi dụng ngưng bắn, Cộng sản ra mặt tấn công ngày. Không ai trên thế giới biết đến, tất cả muốn xóa đi, bỏ qua tai nạn cục bộ của một Việt Nam rắm rối. Ḥa B́nh: thứ rượu nhạt mà thế giới hằng lâu không được uống. Tống Lệ Chân: trận chiến cuối mùa và cô đơn nhất của ḍng thời gian binh lửa. Tính đến nay, căn cứ bị vây đúng 17 tháng hay 510 ngày. Không ai trong chúng ta nghĩ đến con số nhỏ bé ghê gớm này. Chúng ta cũng là những kẻ có tội.
Stalingrad bị người Đức bao vây 76 ngày, người Mỹ giữ cứ điểm Bataan 66 ngày, quân lực Anh và khối Thịnh Vượng Chung tử thủ Tobruk 241 ngày và ở Việt Nam, “địa đàng” của chiến tranh, nơi binh đao tung hoành không giới hạn, chúng ta cũng đă có những nơi chốn với tên gọi để đời như Điện Biên Phủ bị bao vây tới số lượng 57 ngày. Gần gũi và c̣n được nhớ là những trận đại chiến khởi đi trong mùa hè 1972, những trận đánh vượt qua hẳn chiến sử thế giới với các địa danh: Kontum, An Lộc, Quảng Trị. Nhưng Delta, Charlie ở Kontum cũng chỉ kéo trong vài ngày, An Lộc 110 ngày và Quảng Trị thực sự đến ngày 25-7-1972 đă được giải tỏa phần lớn. Thế nên, Tống Lệ Chân với 510 ngày bị vây hăm phải được xem là trận đánh dai dẳng nhất lịch sử chiến tranh nhân loại.
Căn cứ nhỏ bé đó từ ngày 10-5-1972 đă bị mờ khuất sau làn khói dậy lên từ An Lộc, Quảng Trị, Kontum - và đến nay - sáu tháng sau ngày ḥa b́nh độc hại, chiếc tiền đồn lại càng có khuynh hướng bị xóa mờ để che dấu và vô hiệu hóa tội ác của những người Cộng sản. Chúng ta phải nhỏ xuống giọt nước mắt để cầu nguyện cho một nhóm người trong 510 ngày đă phấn đấu để chứng tỏ cùng thế giới: Tội ác đă đồng nghĩa cùng người Cộng sản. Tống Lệ Chân, giọt nước mắt tinh tuyền từ sức đối kháng vô bờ của người Việt miền Nam.
Căn cứ được thiết lập trên ngọn đồi cao năm mươi thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron, những nhánh nguồn đầu tiên của sông Sài G̣n, dầy đặc khắp miền Tây Ninh, B́nh Long, nằm trên đường ranh của hai tỉnh này, cách An Lộc mười lăm cây số về phía đông-bắc và ở phía nam biên giới Việt-Miên khoảng mười ba cây số. Điểm nhọn của chiếc Mơ Vẹt, đại bản doanh của Cục R, Trung Ương Cục Miền Nam chỉa thẳng vào căn cứ.
Tống Lệ Chân trước kia là một trong những trại Dân sự Chiến đấu thuộc Lực lượng Đặc Biệt mà người Mỹ đă thành lập từ năm 1967. Trong lănh thổ Quân Khu III dọc theo biên giới Việt-Miên từ Tây Ninh qua Phước Long có những trại Bến Sỏi, Thiện Ngôn, Katum, Tống Lệ Chân, Lộc Ninh, Quản Lợi, Bù Gia Mập, chỉ riêng trại Bến Sỏi nằm trong nội địa Tây Ninh, các trại c̣n lại làm thành một hàng rào song song với biên giới hệ thống tiền đồn ngăn chặn, báo động lần xâm nhập, điều động của quân đội Cộng sản từ bên kia biên giới, nơi có những địa danh đă một lần vang dội như Lưỡi Câu, Mơ Vẹt. Hệ thống trại c̣n là nơi phát xuất những cuộc hành quân tuần tiểu phát hiện và tiêu diệt các đơn vị địch trong vùng.
Vùng hoạt động của trại cũng là chiến khu của giặc: Chiến khu C, và cũng như hệ thống đường liên tỉnh mà chính quyền Tổng Thống Diệm đă thành lập từ những năm 1960, 1961, những trại Lực Lượng Đặc Biệt, sản phẩm đắc ư của Tổng Thống Kennedy, người được yêu chuộng nhất của 37 đời tổng thống Mỹ. Nhưng đến bây giờ, năm 1973 tại Việt Nam, lúc người Mỹ đă quay phi cơ về Clark Field, Guam, bỏ lại xứ sở Đông Dương mịt mù tiếng đạn trong âm vọng ḥa b́nh. Các trại kia chỉ c̣n lại là những chiến trường địa phương bị cô lập với thế giới bên ngoài đành đoạn.
Không phải là chiến tranh nữa, đây chỉ c̣n là những cơn sốt vỡ da cho “Ḥa B́nh” nguy hiểm. Tống Lệ Chân, cơn sốt cuối cùng và dai dẵng. Dưới chân đồi căn cứ về phía bắc c̣n có đường 246 nối Tây Ninh và B́nh Long, xuyên qua lớp rừng xanh lá, đây là con lộ huyết mạch để Mặt Trận nối liền hai vùng sinh tử, khu C và khu D. Tống Lệ Chân cũng là yết hầu chặn ngang đường dây Bắc-Nam nối bản doanh cục R và vùng Dầu Tiếng, để từ đây xâm nhập xuống B́nh Dương - Gia Định. Với vị trí chiến thuật quan trọng như thế, Tống Lệ Chân không c̣n là mục tiêu quân sự thông thường, căn cứ nhỏ bé này có một tầm quan trọng khẩn thiết. Kiểm soát được bốn hướng Tây-Đông, Bắc-Nam của toàn hệ thống giao liên quan trọng trong ḷng căn cứ địa đối phương. Từ ngày thành lập, Tống Lệ Chân chưa hề có một ngày thanh b́nh.
Tên địa phương là Tonlé Chombé, vị chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu Tá Đặng Hưng Long, gọi trại thành Tống Lê Chân, binh sĩ nói thành Tống Lệ... Những người ngoài binh chủng lực lượng đặc biệt phần đông gọi theo danh từ hàm súc này. Tống Lệ Chân - tên tiền định cho số kiếp nghiệt ngă. Năm 1970, trong chương tŕnh cải tuyển binh chủng, binh sĩ trại phần đông là dân sự chiến đấu thuộc sắc dân Stiêng t́nh nguyện ở lại cùng căn cứ để biến cải thành Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng. Tháng 4-72 song song với các cuộc cường tập vào Lộc Ninh, An Lộc, Cộng quân đă có ư định “ủi láng” hết dăy căn cứ biên pḥng trên để rộng đường điều quân, cùng chuyển vận quân nhu, quân cụ. T́nh h́nh khẩn trương của thời gian ấy đă khiến bộ chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu III quyết định rút hết lực lượng thuộc bốn căn cứ: Thiện Ngôn, Katum, Tống Lệ Chân và Bù Gia Mập. Nhưng người chỉ huy của Tống Lệ Chân đă có câu trả lời sau khi nhận được lệnh:
- Xin ở lại để chiến đấu bảo vệ căn cứ. Di tản tiếc quá, Biệt Động Quân mà di tản yếu quá...
-T́nh h́nh có giữ nổi không?
-Tất cả binh sĩ đều xin ở lại bằng mọi giá để bảo vệ uy tín binh chủng!

Định mệnh đă điểm giờ phút đó, lực lượng nhỏ bé của Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân Biên Pḥng trở nên những anh hùng lặng lẽ của trận đánh cuối cùng làm sáng tỏ sức chiến đấu bền bĩ của người cho Ḥa b́nh. Ḥa B́nh Việt Nam, giấc mơ tội nghiệp của một dân tộc được tưới thêm máu nóng của những người lính vô danh Tiểu Đoàn 92 trong một hóc của núi rừng miền đông Nam bộ. Thế giới giữ được cân bằng trên ḥa b́nh vất vả này. Toàn thể nhân loại có biết thế không?
Giữ một vị thế trọng yếu trong hệ thống giao liên giữa căn cứ địa của địch, bảo vệ được cạnh sườn phía tây cho An Lộc, Tống Lệ Chân trên bản đồ hành quân của Ban Tham Mưu Cục R đă được xác định là một mục tiêu cần phải “dứt điểm”. Ngày 10-5-72 Cộng quân dồn lực lượng đánh trận biển người vào căn cứ có chiến xa yểm trợ sau khi đặc công đă xâm nhập được vào ṿng đai pḥng thủ. Nhưng căn cứ vẫn đứng vững được như lời nguyền, người chỉ huy của trại mang tên Lê Văn Ngôn với số tuổi khiêm nhượng, 25 tuổi, đă giữ được lời thề. Ngôn thuộc khóa 21 Đà Lạt ra trường năm 1966, bây giờ - tháng 9-73, Ngôn mang cấp bậc Trung Tá. Một thời gian kỷ lục nhưng không ai tị hiềm. Không thể tị hiềm được v́ h́nh như quân sử thế giới không có một đơn vị nào bị vây trong thời gian 510 ngày vẫn c̣n đơn độc chiến đấu. Ngôn và Tiểu Đoàn 92 của anh là một biệt lệ, hiện thực ư niệm cao cả về trách nhiệm và giá trị mà người lính muôn đời hiện thực. Những người lính khắp nơi của thế giới đă nhiều lần chứng tỏ tầm vóc vĩ đại của ḿnh trên đảo Saipan, nơi buồng lái của những chiếc máy bay Zéro, trong những phi vụ trên vùng trời Âu Châu được đan kín bởi một lưới lửa đạn pḥng không suốt đệ nhị thế chiến. Ở Việt Nam, trận Mậu Thân 1968, Hạ Lào 1971 và suốt năm 1972, nhiều đơn vị, nhiều người lính đă chứng tỏ phẩm chất vĩ đại cao cả của ḿnh. Trên tất cả mọi cao điểm đó, Tống Lệ Chân rực rỡ với ánh sáng của riêng ḿnh. Ngày 8-6-72, An Lộc được chính thức giải tỏa sau khi Tiểu Đoàn 6 Dù “bắt tay” được với Tiểu Đoàn 8 Dù, lực lượng cực nam của cửa ngỏ vào An Lộc, Cộng sản thu quân về phía tây để bồi dưỡng và chuẩn bị đánh lớn. Dăy căn cứ bạn đă di tản, Tống Lệ Chân c̣n lại mỗi ḿnh, Công Trường 9 Việt Cộng dùng lực lượng cơ hữu thay phiên nhau nhồi Tống Lệ Chân trong suốt một năm dài. Ngày 27-1-73 Hiệp Định Ba Lê được kư kết để tái lập Ḥa B́nh tại Việt Nam. Ngày 25-1-73 cũng là ngày N (1) của cuộc tấn công cường tập vào Tống Lệ Chân, Cộng quân muốn “ủi láng” căn cứ để hoàn toàn kiểm soát ṿng đai biên giới từ Tây Ninh qua Lộc Ninh, cuộc tấn công không thành và bây giờ - tháng 9-1973 - tám tháng sau ngày “ngưng bắn”, theo thống kê chính xác của người lính ngồi dưới hầm trốn pháo, theo bài tính cộng của viên sĩ quan hành quân tiểu đoàn: Căn cứ bị pháo kích 233 lần, 20 lần bị tấn công biển người, 7 lần đánh đặc công và chiếc đồn trơ trọi trên đỉnh cao 50 thước đó đă nhận 14.500 trái đạn đủ loại nổ liên tục trong tám tháng hay 220 ngày được gọi là “Ḥa B́nh” trên đất nước Việt Nam!!
Cuộc bao vây đă diễn ra trong 510 ngày dài, binh sĩ bị thương và chết lên đến gần con số 100, phần lớn bị thương không di tản được. Bất chấp luật lệ quốc tế, bất chấp cả ḷng nhân đạo giữa những sinh vật gọi là người, và rất trái ngược với “tinh thần ḥa giải và ḥa hợp dân tộc” mà từ tên lính gác ở bờ bắc sông Thạch Hăn đến gă Thượng tá tóc bạc ngồi ở bàn hội nghị luôn luôn mồm nói lên với vẻ trang nghiêm cẩn mật. Máy bay trực thăng tải thương là mục tiêu thực tập cho các đơn vị pḥng không Cộng sản dựng dầy đặc quanh căn cứ. Ngày 10-8-73 phi vụ tản thương chót không thực hiện được, chiếc UH.1 của Phi Đoàn 233 bị đốn ngă, phi hành đoàn phải ở lại căn cứ và những người này chỉ có thể trở ra khi những người bạn cùng phi đoàn đă thực hiện được một chuyến bay không giống bất cứ một phi vụ trực thăng nào của cuộc chiến mười năm. Phi vụ bắt đầu lúc mười hai giờ đêm từ phi trường Biên Ḥa và mục tiêu là Tống Lệ Chân. Phi vụ này c̣n có nhiệm vụ mang số tiền thưởng của quân dân Vùng III tặng Tiểu Đoàn 92 và cặp lon Trung Tá cho Ngôn. Phi tuần trưởng của chuyến bay này là Thiếu Tá Bảo bạn cùng khóa với Ngôn. Nhưng t́nh trạng bi tráng này đă nẩy nở ra một khía cạnh khác, trong sổ bảy mươi lăm người bị thương, con số xin ở lại lên đến bốn mươi. Đến một lúc nào đó, trong một hoàn cảnh thích hợp, sự can trường trở nên như một tính chất tổng quát và chung của cộng đồng. Bệnh sốt rét và phù thủng đă khống chế toàn trại nguyên do bởi thiếu dinh dưỡng và cuộc sống chật chội quá lâu dưới hầm đất. Trong tháng 7-73 các cuộc tiếp tế thả dù tưởng chừng như không thể thực hiện được. Chiếc móc nối kiện hàng và bộ phận phối hợp trên máy bay không c̣n nữa. Cuộc họp của các giới chức cao cấp nhất về tiếp vận và không trợ đă diễn ra dồn dập để giải quyết vấn đề “cái móc”, mà một bộ phận chính là đoạn dây cable dài chừng một tấc. Đoạn dây cable này có nhiệm vụ giữ palette (tấm sắt làm đế của kiện hàng thả dù) với hệ thống phối hợp; khi máy bay đến địa điểm thả dù, bộ phận cắt sẽ được bấm nút để chặt xuống đoạn dây này, palette mang kiện hàng sẽ lăn ra cửa máy bay trên hệ thống bánh xe. Từ trước đến nay, các cơ quan thả dù không quân chẳng ai để ư đến đoạn dây ngắn ngủi này v́ quá thừa thải. Khi Tống Lệ Chân bị vây liên tục, đồ tiếp liệu, tiếp tế phải thả dù, nên đến một lúc người ta khám phá đoạn giây cần thiết này bị thiếu!! Muốn gởi mua ở Mỹ phải gởi đúng nơi sản xuất nó qua một hệ thống đặt hàng phức tạp, trước một thời gian dài, đoạn dây cũng phải được gọi bằng ám số lê thê, hăng chế tạo mới cung cấp đúng. Phe ta, vốn truyền thống “ǵ cũng được” nên đến lúc cần mới bật ngữa, không làm sao cấp thời giải quyết được. Nhưng cái khó không bó cái khôn, dây lớn đúng cỡ không có th́ biến chế bằng hai sợi dây nhỏ kết vào nhau... Và kết quả, dù thả mười cái hết sáu cái rơi ra ngoài căn cứ!! Khoảng trống giữa hai sợi dây nhỏ kết lại đă làm thời gian cắt đoạn giây dài hơn vài giây. Vài giây của tốc độ hơn hai trăm dặm giờ khi phi cơ thả dù đă làm cho chiếc dù bay ra khỏi chiếc đồn nhỏ bé. Bi thảm hơn, có những ngày bị Cộng quân pháo kích và tấn công liên tục, toàn căn cứ phải nhịn đói hoặc bắt gián ở các hầm cầu để nướng ăn thay cơm!! Nhưng dù thiếu thức ăn và sống dưới hầm lâu trong 510 ngày, cùng một lúc sức chiến đấu lại tăng trưởng theo chiều cao, theo cường độ tấn công và pháo kích của giặc. Tống Lệ Chân bắt chúng ta suy nghĩ khi biết được Gilles, viên tướng nhảy dù lừng danh của Quân Đoàn viễn chinh Pháp đă nói cùng Cogny và Navarre: “ Hăy móc tôi ra khỏi đấy (Điện Biên Phủ), tôi vừa sống sáu tháng ở “ổ chuột” Na Sản... Tôi quá sợ những điểm bưng bít như thế này!! ” - sáu tháng ở cứ điểm Na Sản trong vị thế của một người chỉ huy cùng với phương tiện vật chất thừa thải cũng đủ làm cho ông tướng gốc người Corse phải kinh khiếp - thế nhưng trên ngọn đồi năm mươi thước, dưới hầm sâu lạnh tanh, viên trung tá trẻ nhất Quân Lực Miền Nam, Lê Văn Ngôn đă sống đến ngày thứ 510 cùng tiểu đoàn Biệt động với quân số thiếu hụt và thực phẩm phải dè sẻn từng túi cơm sấy. Đau đớn hơn tất cả, Ngôn chiến đấu trong ḥa b́nh giả tạo và gian dối mà đối phương cùng thế giới đang nhân danh mỗi giờ, mỗi phút. Những giờ phút Tiểu Đoàn 92 ẩn ḿnh dưới giao thông hào đợi cơn pháo qua, giờ phút của 510 ngày thiếu ánh mặt trời.
Vậy vấn đề được đặt ra cùng sự kiện như đă tŕnh bày: Chúng ta phải làm ǵ cho số người nhỏ bé cao cả trên cao điểm năm mươi này? Ngăn chặn, phát hiện địch, giữ căn cứ để làm bàn đạp tung quân tuần tiểu, tấn công và truy kích địch, những mục tiêu đầu tiên mà ư niệm hành quân đă đặt để cho căn cứ không c̣n nữa. Chúng ta chỉ c̣n lại một biểu tượng bi tráng, chỉ có một chiến trường phi lư để những người anh hùng âm thầm ngă xuống trong lặng lẽ, làm sáng tỏ cách tàn ác, khiếp nhược của một ḥa b́nh độc hại. Chúng ta sẽ là ǵ nếu bỏ qua hay thụ động buông thả để duy tŕ t́nh trạng phi lư độc địa này. Phiên họp đặc biệt cấp Trưởng Đoàn ngày 17-3-73 do Việt Nam yêu cầu và Hoa Kỳ chủ vị, chính thức đặt Tống Lệ Chân lên bàn hội nghị. Trưởng Đoàn Việt Nam Cộng Ḥa, Tướng Dư Quốc Đống đề nghị ba biện pháp cấp bách:
-Cử ngay một Tổ LHQS/4B Trung Ương đi Tống Lệ Chân để điều tra vi phạm, sau khi có thỏa thuận tại hội nghị.
-Nếu hai phe Cộng sản không thỏa thuận đề nghị, Hoa Kỳ trên tư cách chủ vị gửi văn thư yêu cầu UBQT cử người đi điều tra.
- Yêu cầu phía Mặt Trận Giải Phóng ra lệnh ngay cho các đơn vị của ḿnh chung quanh Tống Lệ Chân phải ở nguyên vị trí không được bắn lên phi cơ của UBQT khi đến điều tra.
Nhưng lọc lừa là tính chất cơ bản, phía MTGP biết chắc phiên họp đặc biệt này sẽ thảo luận một vấn đề nghiêm trọng mà họ chưa có chỉ thị để giải quyết; dù Trần Văn Trà mang quân hàm Trung tướng chăng nữa ông ta cũng không bao giờ quyết định được một vấn đề ǵ, dù vấn đề đó chỉ thuộc về nguyên tắc, thủ tục nếu chưa có chỉ thị trước, nên Trà đă vắng mặt để cho viên Đại Tá Đặng Văn Thu đại diện họp thay. Trước ba đề nghị xác đáng của một vấn đề cụ thể, Thu không ngập ngừng, bối rối né tránh với tố cáo: Việt Nam Cộng Ḥa đă vi phạm ngưng bắn tại Đức Phổ, Sa Huỳnh, (Quảng Ngăi), Đức Cơ (Pleiku)... Và kết luận ung dung: Chính VNCH vi phạm tại các địa điểm trên! Không một lời nói, không một từ ngữ nhắc đến sự kiện, địa danh Tống Lệ Chân. Trưởng phái đoàn Bắc Việt gật gù tán đồng, lập lại lời phát biểu của MTGP với thứ tự từ ngữ địa danh được nói khác đi một chút. Bài học đă được học từ nhà, các cậu học tṛ Cộng sản lập lại không sai một chữ bất chấp nội dung rơ rệt của ba đề nghị - Ư kiến - Yếu tố không bao giờ có trong đầu của cá nhân người Cộng sản khi chưa “hội ư”!!
Thấy hai phái đoàn Cộng sản không đá động ǵ đến ba đề nghị vừa tŕnh bày. Phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa lập lại đề nghị lần thứ hai: Nếu Ban Liên Hiệp Quân Sự Bốn Bên Trung Ương chưa thống nhất ư kiến th́ yêu cầu Hoa Kỳ gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế để Ủy Ban này đi điều tra. Mặt Trận Giải Phóng cùng Bắc Việt lại hát lên một nội dung: “Không đồng ư việc gởi văn thư cho Ủy Ban Quốc Tế v́ t́nh h́nh chưa rơ rệt, chưa có an ninh không tiện lợi cho Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra...” Phiên họp ngưng ở kết luận này. “Tinh thần nhất trí” của văn bản Hiệp Định. Tính chất không bao giờ có ở bàn hội nghị.!!
Cho chắc ăn hơn nữa, phía Cộng sản mớm lời cho hai phái đoàn Ba Lan, Hung Gia Lợi, khi tiếp nhận văn thư của Hoa Kỳ yêu cầu đi điều tra Tống Lệ Chân: “UBQT không đồng ư đi điều ra ở một nơi khi nơi đó chưa được an ninh!” Muốn chắc hơn, hai phái đoàn quốc tế Cộng sản này lại đưa thêm điều kiện: Sẽ chịu đi nếu phái đoàn MTGP cử sĩ quan liên lạc tháp tùng cùng trực thăng. Lẽ tất nhiên điều kiện không được thực hiện, v́ MTGP chắc chắn không bao giờ đồng ư cử sĩ quan liên lạc tháp tùng.
Một tuần trôi qua, kể từ phiên họp 17-3-1973, tất cả nỗ lực về Tống Lệ Chân đều bị chắn lối bởi hai ngón đ̣n “T́nh h́nh Tống Lệ Chân chưa rơ rệt. Phái đoàn MTGP chờ chỉ thị của thượng cấp” và đ̣n “V́ MTGP không cử sĩ quan liên lạc đi cùng nên Ủy Hội Quốc Tế không thể đến điều tra...” Mặt Trận Giải Phóng, Bắc Việt, Ba Lan, Hung Gia Lợi nương vào nhau nhồi quả bóng vô liêm sĩ, né tránh hẳn vấn đề.
Ngày 23-3-1973, chỉ c̣n bốn ngày nữa là hết thời hạn sáu mươi ngày làm việc của Ban Liên Hợp Quân Sự bốn bên, Hoa Kỳ thúc dục phái đoàn Gia Nă Đại (Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế) trực tiếp thu xếp với MTGP để sớm điều ra sự kiện Tống Lệ Chân, MTGP trốn không nổi, đành đưa Đại Tá Vơ Đông Giang, Phó Trưởng đoàn ra gặp Đại Tá Lomis (Gia Nă Đại), thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của Mặt Trận theo Ủy Ban Quốc Tế đến Tống Lệ Chân vào ngày 24-3-1973. Nhưng rốt cuộc cũng chỉ là tṛ đánh tráo, theo thỏa thuận của Giang, sĩ quan Mặt trận sẽ từ Tân Sơn Nhất đi Tống Lệ Chân tiếp xúc với lực lượng Cộng sản ở đây, xong trở về Biên Ḥa (Biên Ḥa là khu V Liên Hợp Quân Sự, tức là vùng III của VNCH) để đón Ủy Ban Quốc Tế vào Tống Lệ Chân. Gă sĩ quan liên lạc của Mặt Trận nhận chỉ thị trước, nên thay v́ từ Tống Lệ Chân, y trở về hẳn Tân Sơn Nhất, Ủy Ban Quốc Tế đợi ở Biên Ḥa suốt ngày 24-3-1973. Cuộc điều tra Tống Lệ Chân của Ủy Ban Quốc Tế không bao giờ có thể thực hiện được: Không bao giờ.
Về phía Liên Hợp Quân Sự, sau một tuần cố gắng liên tục kể từ phiên họp 17-3-1973, Việt Nam Cộng Ḥa buộc Mặt Trận Giải Phóng phải cử sĩ quan liên lạc đến Tống Lệ Chân để thực hiện tản thương. Nhưng ngày 23-3-1973, thay v́ xuống Tống Lệ Chân như đă dự liệu, viên sĩ quan Mặt Trận xuống Sóc Con Trăn cách Tống Lệ Chân muời cây số về hướng Tây, viên sĩ quan này lấy cớ phải liên lạc với “địa phương” y trước, sau một hồi t́m kiếm trong rừng, y trở lại trực thăng lấy cớ v́ bom Mỹ và VNCH đă đánh đứt đường dây, y không t́m ra ai!! Chiếc trực thăng trở về Sài G̣n, không một thương binh được di chuyển. Phái đoàn VHCH vẫn kiên tŕ yêu cầu MTGP phải thuận để Việt Nam Cộng Ḥa tản thương ở Tống Lệ Chân, Mặt Trận Giải Phóng hết cớ từ chối, ngày 24-3-1973, hai mươi thương binh đầu tiên và cũng là cuối cùng được di tản. MTGP “ḥa hợp, ḥa giải, dân tộc” với giá máu này một lần độc nhất. Tống Lệ Chân đóng của vĩnh viễn với nỗi bi hùng của nó.
Cấp Trưởng Phái Đoàn, cấp Trưởng Tiểu Ban liên tiếp họp để dọn sạch vấn đề Tống Lệ Chân. Nhưng sự thật là một việc và cách nh́n của người Cộng sản lại là một việc khác, nên sự kiện quân đội Cộng sản bao vây, cường tập tấn công vào vị trí của ta biến thành “... Một cuộc hành quân của quân đội Sài G̣n lấn chiếm Tống Lệ Chân, nơi nằm sâu từ lâu trong vùng giải phóng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời!!” Kèm thêm luận cứ, lực lượng Mặt Trận Giải Phóng pháo vào trại là rất tự kiềm chế v́ phải cảnh cáo đơn vị trong đồn muốn “nống lấn” ra ngoài khu vực của Chính Phủ Lâm Thời (Một đơn vị chỉ hơn hai trăm người có thể nào tấn công vào ṿng vây của một sư đoàn?!!) Về việc gọi loa đầu hàng, Mặt Trận Giải Phóng giải thích: Đó là giảng “Đạo lư Hiệp Định” cho binh sĩ trong đồn biết: Đạo lư về Ḥa Hợp, Ḥa giải Dân Tộc!! Ư nghĩ đích thực của ngôn từ đă biến mất trên lưỡi của người Cộng sản. Nhưng điều vô lư thô bỉ đă được dựng đứng, đài phát thanh Việt Cộng ào ào tố cáo, Trần Văn Trà, Lê Quang Ḥa gởi kháng thơ tố giác, các thành viên Hung Gia Lợi, Ba Lan nghiêm chỉnh nghiên cứu kháng thơ. Và biết đâu trên thế giới có một số đông người tin vào kháng thơ gian dối đó. Không hiểu Đức Giáo Hoàng khi đọc bản tin của tờ báo Ṭa Thánh đề cập đến bản kháng thư đó Ngài có biết đến những con mắt nổ lửa dưới hầm sâu Tống Lệ Chân đang mong ngày mau đến. Đau đớn hơn hết khi tại Sài G̣n, nơi chỉ cách Tống Lệ Chân trăm cây số đường chim bay, có những người đă không biết hoặc không muốn biết những người lính Việt Nam đang ở trong chiếc đồn bị vây vào ngày thứ 510. Và nhiều kẻ lại nh́n vấn đề ngược lại: Như đám Ngọc Lan, Chân Tín, thứ chính khách đối lập Hồng Sơn Đông, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Hữu Tường, Trương Gia Kỳ Sanh... (Những Nghị sĩ, Dân biểu được MTGP nhắc nhở nhiều lần ở bàn hội nghị khi muốn tố cáo chính quyền VNCH) Những người này là ǵ trong khi đồng lơa với tội ác ngập máu này? Tính đến ngày của phiên họp đầu tiên đề cập đến Tống Lệ Chân, hai mươi ngày sau ngày Ḥa B́nh 28-1-1973, căn cứ có thêm bốn chết và hai mươi hai bị thương. Những người này chết cho ai? Phải chăng để bảo vệ miền Nam, trong đó có những người vừa kể trên, những kẻ nhân danh Ḥa B́nh...
Quả t́nh chúng ta ở trong một trạng thái ḥa b́nh sau hơn hai mươi năm nghe súng nổ và lửa cháy. Chúng ta đă nghe quen tiếng nổ đại bác, hỏa tiển, chúng ta cũng dần quen với độ cao của ngọn lửa Mậu Thân, hơi nóng từ An Lộc, Quảng Trị, nên h́nh như khi hưởng được sự yên ổn đau đớn của những ngày hôm nay, chúng ta đă quá vội vă muốn xóa tan vết tích chiến tranh, muốn quên đi những h́nh ảnh tàn khốc của tháng kia, năm trước. Và từ, với hạnh phúc tội nghiệp nầy, giữa ḷng cơn lốc túng đói, chúng ta đă không có khả năng để nhớ đến, để nghĩ đến h́nh ảnh một căn cứ: một căn cứ lẻ loi cố gắng để khỏi bị hủy diệt, thể hiện ư muốn “sống trong tự do và ḥa b́nh”, nỗi mơ ước của toàn dân tộc... Mơ ước đó có ta dự phần. Vậy, chúng ta phải làm ǵ được cho Tống Lệ Chân?
Tôi viết lên tiếng kêu bi hùng về Tống Lệ Chân vào tháng 6-1973, thời gian quân đội Cộng sản đang chuẩn bị trận dứt điểm vào căn cứ trong dịp mùa mưa sắp tới của năm 1973. Suốt năm 73, chiếc đồn nhỏ bé này đă đứng vững được trước hàng chục lần tấn công và bị pháo hơn vạn quả đạn, viên chỉ huy căn cứ, Trung Tá Lê Văn Ngôn, h́nh như định mệnh đă gắn chặt tên anh cùng chiếc đồn bé nhỏ đó, lời nói quyết chí của ngày tử thủ đầu tiên đă được giữ trọn như tên anh đă định trước: Ngôn Một ḷng sắc son giữ măi một lời nói. Trong nguy nan của mỗi giờ sát cùng cái chết, người anh hùng lặng lẽ với số tuổi quá nhỏ so với chiến trường kia quả đă hiện thực h́nh ảnh linh diệu kết tinh bởi sức chịu đựng vô bờ của dân tộc. Ng̣i bút viết ra cũng hổ thẹn trước nỗi can trường này. Những phiên họp của tháng 3, tháng 4, 74 tại Ban Liên Hợp Quân Sự 2 Bên Trung Ương, phía Việt Nam Cộng Ḥa lại lớn tiếng báo động Công Trường 9 nhất định rút ưu khuyết điểm của năm qua, tập dượt trên sa bàn cùng trung đoàn 271 quyết ủi láng trại... Trung Đoàn 271 sẽ được yểm trợ trực tiếp bởi một trung đoàn pháo, một trung đoàn pḥng không và một lữ đoàn chiến xa, không kể thành phần trừ bị và chận viện. Một năm trời thử lửa, một, hai tháng thực tập trên sa bàn và trên địa thế tương tự quân cộng sản dùng địa đạo chiến, công kiên chiến khởi đi từ 5-4-1974 đến 01:00 giờ ngày 11-1-1974 đoạt được đồn!! Ngôn làm ǵ được với quân số 259 người với năm mươi người bị thương từ trước, hai chục người bị thương ở đợt tấn công sau cùng?!! Tiểu Đoàn 92 đă chiến đấu hơn tất cả mọi đơn vị bộ chiến của lịch sử chiến tranh con người, Ngôn hơn hẳn những người anh hùng của chiến trận nhân loại, Alamo, Saipan, Wake, hàng trăm ngàn chiến binh thế giới đă dựng nên gương sáng can trường về bổn phận cao cả của người lính, Ngôn và Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân dựng chắc tấm bia lớn nhất, rực rỡ nhất. Cao quư hơn tất cả, Ngôn và 259 Biệt Động Quân của Tống Lệ Chân là những chiến sĩ chiến đấu cho ḥa b́nh: Ḥa B́nh của quê hương Việt Nam. Chúng ta trong thành phố b́nh yên có nghĩ ǵ khi hay tin Tống Lệ chân đă bị đoạt mất, Tiểu Đoàn 92 mở đường máu rời căn cứ. Chỉ c̣n giọt nước mắt. Phải, chỉ c̣n một ḍng nước mắt ngập bi hùng.
Tháng 11-1974

15. Một người tù vừa được thả - Một tiền đồn bị tràn ngập

Cuối cùng, bà Ngô Bá Thành đă được thả, tuy t́nh trạng chỉ là tại ngoại hầu tra, nhưng từ vị thế của một người sắp sửa để trao trả cho Mặt Trận Giải Phóng trong hạ tuần tháng 7-73 đến t́nh trạng hiện tại, quả t́nh đă có một thay đổi rất lớn. Sự thay đổi có nhiều nguyên do, gây nên từ nhiều sức ép; cũng như hành động rùm beng tô vẽ của nhiều đoàn thể, cá nhân chung quanh người đàn bà này làm người viết phải suy nghĩ... Bà Thành! Bà là ai? Sau lưng bà là tôn giáo cực tả, cộng sản hay người Mỹ?!! Ư nghĩ dấy lên đau đớn. Bao nhiêu năm tháng tù tội của một đời rốt cuộc cũng chỉ là con bài mặt của những dự mưu thâm hiểm hay sao? Và mục tiêu của phong trào Đ̣i Quyền Sống, trong đó vắng bóng dáng tội nghiệp và niềm ao ước nhỏ nhoi của người lính cùng tập thể gia đ́nh họ, những người có thẩm quyền nhất để được đ̣i quyền sống yên lành. Bà Thành, người đàn bà trí thức với năm mươi bảy tháng tù trong cô quạnh cùng lời tuyên bố kiêu hănh “Tôi là thành phần thứ ba...” Thành phần thứ ba, thành phần bề mặt tối cần thiết để hoàn thành bước chót của Hiệp Định Ba Lê. Và ước mơ của dân tộc có được gói đủ trong những ḍng chữ rất nhiều nghĩa của tấm Hiệp Định quái gở này chăng? Trại Tống Lệ Chân với 293 người lính Biệt động quân, đám thân nhân gia đ́nh binh sĩ chạy nhốn nháo giữa rừng già trong tiếng nổ dồn dập của bộc phá. Tiểu đoàn K2 đặc công quyết làm đầu cầu để lực lượng sư đoàn 320 chính qui Bắc Việt dứt điểm trại. Không ai nói đến 293 người lính này, không ai nghĩ đến h́nh ảnh người đàn bà vợ một binh nhất tay bế con nương theo chồng dưới lằn đạn của những người Cách Mạng Việt Nam: Cuộc cách mạng kết tập bởi giai cấp công-nông gồm nhân dân giác ngộ. Người lính, người vợ, đứa trẻ nhỏ, chắc hẳn đă là những trở ngại của bước tiến cách mạng vô sản Việt Nam đó. Những người này có quyền đ̣i quyền sống không? Bà Thành có kể thêm họ vào mục tiêu tranh đấu...?
Phong trào Đ̣i Quyền Sống của bà Thành có ư niệm nào về những người đau khổ này? Và một tờ báo mang nhản hiệu đối lập đấu tranh cho “nhân dân yêu nước” có chăng h́nh tượng chiếc trại bốc cháy giữa rừng xanh, rộ tiếng reo ḥ đẫm máu của lực lượng quân đội Hà Nội?! Trong hỗn loạn với những h́nh ảnh chập chờn nhức nhối này - Bà Thành được trả tự do.
Không ai phủ nhận giá trị cá nhân người đàn bà nổi tiếng với bốn mươi mốt tuổi, tiến sĩ Công pháp quốc tế, năm mươi bảy tháng tù tội liên tục trong bảy năm... Không thể là những tiêu chuẩn b́nh thường mà mọi người đều có thể thực hiện. Văn bằng đó đă có nhiều người khác đạt được, nhưng quả t́nh rất hiếm hoi nơi đất nước ta, ở vùng Đông Nam Á, cũng có thể nói toàn cơi Á - Phi, ngay trên khắp thế giới. Tiến sĩ Công pháp quốc tế, một bằng cấp bảo đảm nhiều khả năng và giá trị; năm mươi bảy tháng tù trong hiu quạnh cùng lúc niềm tin, ư tất thắng vượt qua nghịch cảnh trong trạng huống khó khăn để hoàn tất bước chót hoài băo lại là một tiêu chuẩn khác rất khó đạt. Dù đă có nhiều người ở tù lâu hơn, đă có nhiều cảnh tù cực khổ đau đớn hơn, nhưng một người đàn bà từ chối an lành để đem đời xuống đường phố, vào lao tù, đối diện bức tường lạnh trong thời gian đằng đẵng năm mươi bảy tháng quả t́nh không thể là sự kiện b́nh thường... Chắc chắn phải được thôi thúc từ một dự tính cao cả mang vóc dáng to lớn theo kích thước của quê hương. Phải thán phục, người đàn bà đă từ chối sự b́nh yên thụ động, dấn thân vào nơi băo lửa chấp nhận những thiệt tḥi đau đớn cụ thể.
Nhưng những kính phục trên khía cạnh cá nhân không thể ngăn nổi hoài nghi cùng câu hỏi: Bà Thành đă thực hiện cuộc đấu tranh với mục đích ǵ? Không thể nghĩ một cách giản dị, đây là cuộc đấu tranh đơn độc của người đàn bà trí thức vùng dậy chống đối một chế độ nhiều sơ hở. Không thể nghĩ nông cạn và giản lược toàn bộ một cuộc đấu tranh rất có hệ thống và đa diện vào một mục tiêu đơn độc như thế.
Vậy, nh́n lại những năm trước với những hành động của phong trào: Đấu tranh yểm trợ phong trào Thương Phế binh, đ̣i hủy bỏ chính sách quân sự học đường, tham dự vào cuộc tranh chấp của hai phe nhà chùa về một bất động sản... Những mục tiêu hạn hẹp, đoản kỳ, hụt hơi không thể nào là mục tiêu chiến thuật của phong trào mang vóc dáng to lớn với tiêu đề hàm súc: Đ̣i Quyền Sống?!! Ngoài ra phong trào đă bỏ qua, đă với không tới biết bao nhiêu mục tiêu rất đáng được để giành ưu tiên quyền được sống: Người lính chiến đấu cùng hệ thống gia đ́nh lầm than của họ...
Những mục tiêu lúng túng, ngắn hạn, thụ động và vô ích càng ngày tỏ rơ thực chất của phong trào. Một đoàn thể hỗn tạp với bề mặt sôi nổi hiếu động, thiếu quan niệm chiến lược chỉ đạo để rút cuộc hiện nguyên h́nh là một bộ phận xách động vô tổ chức, cố thực hiện cho bằng được một vài mục tiêu bề mặt. H́nh trạng của phong trào trong những năm 69, 70 làm ta nghĩ đến mũi giáo tiền phong thay mặt hợp pháp cho Cộng sản ở đường phố Sài G̣n. Tôi e ngại khi nghĩ như trên v́ sợ rằng đă hạ thấp phẩm giá người cầm đầu phong trào, một phụ nữ hằng chứng tỏ khả năng dẻo dai, sung sức với căn bản trí thức vững chăi, một người có đủ lực ngăn chặn ḿnh không lầm lẫn khi thực hiện những mục tiêu hạn chế trong đường phố Sàig̣n, những “mục tiêu tập dượt” chỉ đáng dành riêng cho đám sinh viên đàn em. Hơn nữa, nếu quan niệm bà Thành là một cán bộ trung cấp nội thành của Mặt Trận th́ quả t́nh không nghiêm chỉnh. Sự trùng hợp về tính chất của mục tiêu phong trào và ư đồ của Mặt Trận chỉ có thể là một chuyện ngẫu nhiên có dự tính!!
Vậy, mục tiêu to lớn trong kích thước Dân Tộc không có, cán bộ trung cấp của Mặt Trận không phải... Th́ Bà Thành là ai?!! Cần mở một dấu ngoặc ở đây, nếu Bà thành là “cán bộ gộc” th́ Mặt Trận không đời nào chịu hao tổn lực lượng bằng cách dàn ra trống trải đám cán bộ cỡ “quốc tế” như bà ta ra đường phố với sư, cha, sinh viên con nít... Nhưng nếu tất cả không phải là hai vế trên, th́ Bà Thành chỉ c̣n lại là một chiếc “phông” để hiển hiện lên đó toàn bộ bản chất và chủ đích của người Mỹ. Phải, chỉ có thể là như vậy.

Ư nghĩa trên đă được thành h́nh với toàn thể tính chất năo nề, cay đắng. Một cá nhân xuất sắc, một căn bản trí thức vững chăi, chuỗi ngày dài tranh đấu với năm mươi bảy tháng tù câm nín với một tiêu đề to lớn rốt cuộc chỉ là lá bài tẩy cho lực lượng lót đường h́nh thành bản Hiệp Định tái lập Ḥa B́nh Việt Nam. Bản Hiệp Định phản ảnh rất dễ bị xuyên tạc, rất nguy hiểm, ngụy trang sâu sau ước vọng của toàn dân tộc nhưng đă được nhận định: “Đó là một thắng lợi to lớn, chứng tỏ chính nghĩa nhất định thắng”... Nhận định của Bà Thành, nhận định này có những từ ngữ của người Cộng sản, nhận định cũng bao gồm sự diễn giải Điều 1 Hiệp Định theo quan điểm của Hà Nội, của Mặt Trận. “Chính nghĩa nhất định thắng”. Thành ngữ đăi lọc đă được phổ quát do Hồ Chủ tịch. Nhưng điểm quan trọng không phải ở vài từ ngữ mang hơi hướng Cộng sản này; cũng không phải lời chào đặc sệt mùi vị vô sản “gởi lời chào đồng bào cả nước” của bà Thành làm chúng ta chú ư. Chúng ta nói đến vẻ kiêu hănh của lời tuyên bố “Tôi là thành phần thứ ba...”. Thành phần thứ ba, quả t́nh tất cả sinh hoạt chính trị trong và ngoài nước đang chủ tâm, đang hướng toàn bộ khả năng định giá vào những người rải rác khắp nơi trên Âu, Á... Bảo Đại, Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn Chánh Thi, Nghị Sĩ Mẫu, Đại Tướng Minh... Những khuôn mặt cũ kỹ đă bị thời cuộc bào nhẵn nay được nhuộm lại màu sắc để chuẩn bị cho thế đấu tranh mới. Thế đấu tranh dứt điểm t́nh trạng Việt Nam theo sách lược của người Mỹ hay là của Kissinger - ông Ngoại Trưởng thượng hảo hạng của Hiệp Chủng Quốc. Trong đám người được tô vẽ có hệ thống tội nghiệp yếu kém kia có bà Thành với sự góp mặt kiêu hănh thảm thương “ Tôi là thành phần thứ ba!!”. Thành phần không có chân trong cộng đồng dân tộc, thành phần sinh sau đẻ muộn từ một cơi ngoài Việt Nam, sản phẩm tối cần thiết cho tác phẩm Kissinger.
Nh́n bản Hiệp Định dưới nhăn quan tàn nhẫn đích thực kia, thấy toàn thể ră rời ốm yếu của thành phần thứ ba ấy, xét được nỗi vô ích của năm mươi bảy tháng tù, mảnh bằng tiến sĩ Công pháp, sự quảng cáo lố bịch ồn ào các tờ báo Sài G̣n chung quanh bà Thành, tự nhiên ḷng sôi niềm công phẫn. Đă quá nhiều người nhân danh Tổ Quốc và Nhân Dân, đă quá nhiều người hân hoan bạo ngược trên bầu rượu máu Việt Nam, trại Tống Lệ Chân với 293 người lính cùng đám thân nhân góp phần đời sống vào bữa tiệc đau đớn này. Thành phần thứ ba - Người dự tiệc mới mẻ! Hăy giới hạn nỗi hân hoan tàn nhẫn của các người.
Thật nguy hiểm khi nhận định: Sự kiện Lệ Chân là một thử thách cho nền ḥa b́nh của Hiệp Định (Ḥa B́nh của Hiệp Định không là Ḥa B́nh của Việt Nam). Phải bỏ qua sự kiện, xem như là tai nạn cục bộ, địa phương để xúc tiến và hoàn tất việc kết tập thành phần thứ ba, đi bước chót của Hiệp Định. Hoặc phải đặt vấn đề máu để lương tâm và phẩm tính con người chuộng công lư, chuộng liêm sỉ chọn lựa. Chúng ta đang bị vây bởi ṿng đai lửa hiểm độc, mọi lối thoát đều bị kiểm soát và phê phán khắc nghiệt cùng lúc tiếng reo ḥ man rợ của kẻ thù bốn phía dấy lên. H́nh ảnh, bài báo phỏng vấn bà Thành cùng một lần câu chuyện chiếc đồn bốc cháy được nêu lên trên trang nhất các tờ báo hằng ngày chính là bằng cớ về một chọn lựa giữa lương tâm và luân lư; nước mắt đau đớn phẫn nộ hay một đồng lơa tồi tệ thụ động buông xuôi theo hoàn cảnh vượt khỏi tầm tay.
Tháng 11-1973

16. Đấu

Những phiên họp của Ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên được thành h́nh khẩn cấp, vội vă. Phía Cộng sản dù được chuẩn bị và ở vào hoàn cảnh hoạt động thuần nhất, với những chuyên viên hội nghị từ Paris về vốn quen thuộc với sinh hoạt thương nghị, biết phát biểu những lời nói dài lê thê gồm nhiều tỉnh từ mềm mỏng nối kết đúng “tinh thần và lời văn của Hiệp Định”... Nhưng sự lúng túng đôi khi vẫn không thể tránh được v́ những người này phần lớn không nắm vững t́nh h́nh miền Nam. Các sĩ quan của hai phái đoàn Cộng sản đến Sài G̣n để giải quyết vấn đề miền Nam trên nguyên tắc, nhưng đa số là người Bắc hoặc người hoạt động ở vùng Trung Bộ, ở các quân khu miền Trung, như mặt trận B3 (Chiến trường Tam Biên), B2 (chiến trường Trị-Thiên), vùng Nam-Tín-Ngăi... Nên họ không thể nắm vững được các yếu tố địa giới, đặc dị của miền Nam dù học tập, hội ư là công việc thường xuyên liên tục của các phái đoàn Cộng sản. Họp xong, trở về trại Davis hội thảo, phê b́nh, rút ưu khuyết điểm, bổ sung ư kiến để tiếp tục lại ở phiên họp tới. Về phần phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa, bước đầu hội nghị quả đă là một khởi sự rối rắm, các sĩ quan trưởng ban, ba vị tướng trưởng phái đoàn như Tướng Dzu - Trưởng đoàn VNCH trong Ban Liên Hợp 4B, (Tháng đầu tiên, 2-73) Tướng Hiệp - Phó Trưởng đoàn... Phần lớn là những tư lệnh, chỉ huy trưởng các đơn vị tác chiến hoặc các ngành chuyên môn không liên quan hoặc kinh nghiệm về thương thảo với đối phương tại bàn hội nghị; các vị này cũng không hề có được một chuẩn bị tối thiểu để đảm nhận công tác (Điển h́nh là trường hợp Tướng Đống - Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, một ông tướng chuyên việc đánh giặc). Thế nên, trong những ngày của tháng hai, tháng ba 1973 các phiên họp đă diễn theo một chiều hướng kỳ lạ, các sĩ quan nghị hội chỉ nói những điều ḿnh nắm vững, đă được chuẩn bị, không cần phải trả lời những câu hỏi, những vấn đề đặt ra bởi đối phương. Điển h́nh như ṿng đối thoại sau đây của phiên họp ngày 12-2-73, Tiểu Ban Tù Binh:
Đại Tá Đắt (VNCH):
- Chúng tôi thông báo đến quí vị số lượng tù binh mà phía VNCH dự trù trao trả ngày mai, 13-2-73... Ngày mai, chúng tôi sẽ đưa hai trăm tù từ Biên Ḥa đến trao trả ở địa điểm bắc sông Thạch Hăn, hai trăm tù này sẽ được không vận từ Biên Ḥa đến Phú Bài, xong từ Phú Bài sẽ đi ra Quảng Trị bằng xe GMC... Ngày mai, chúng tôi cũng sẽ trả tại Lộc Ninh cho quí vị sáu trăm nhân viên quân sự. Sáu trăm người này sẽ được không tải từ Biên Ḥa đến Lộc Ninh...
Đại Tá Russell (Hoa Kỳ):
- Chúng tôi phản đối phái đoàn Chính Phủ Lâm Thời đă không trả tù binh Hoa Kỳ ở Lộc Ninh đúng 8 giờ 30 ngày hôm nay như đă hứa. Phái đoàn Hoa Kỳ sẽ gởi kháng thư tố cáo đến Trưởng đoàn CPLT và Trưởng đoàn của Ủy Ban Quốc Tế... Yêu cầu phái đoàn MTGP cho biết ư kiến về vấn đề này.
Đại Tá Lê Trực (MTGP):
-Về vấn đề danh sách tù binh quân sự, chúng tôi chỉ giao cho VNCH trước khi trao trả và tại địa điểm trao trả... Chúng tôi cũng nói trước là chỉ trả tù binh cho VNCH tại hai địa điểm Pleiku và Lộc Ninh. Về danh sách tù dân sự VNCH, phái đoàn chúng tôi chỉ có một danh sách 140 chứ không có danh sách hàng ngàn người như phái đoàn VNCH yêu cầu. Nghĩ rằng vấn đề thiện chí tức là trao danh sách, có bao nhiêu trao bấy nhiêu chớ không phải đợi đến con số tương xứng mới trao đổi. (Đại ư Trực muốn yêu cầu phía VCH trao danh sách 5081 Nhân viên dân sự Cộng sản cho họ v́ đă có sẵn, chứ không phải đợi lúc họ bổ sung danh sách 140 này lên đến một con số khả thể chấp thuận nào đó th́ VNCH mới trao danh sách 5081...)
Trung Tá Trần Tấn (Bắc Việt):
- Việc 100 Nhân viên Dân sự của Chính phủ Lâm Thời ở Biên Ḥa không chịu lên máy bay đi Phú Bài sáng hôm nay (12-2-1973) có một khía cạnh chính trị: Những tù binh thuần túy là của Chính Phủ Lâm Thời chứ không phải của chúng tôi, v́ Hiệp Định Ba Lê đă có thỏa thuận về vấn đề quân đội các bên ở miền Nam (Đại diện Bắc Việt muốn nói đến Điều 2 của NĐT về tù binh: Tại miền Nam Việt Nam chỉ có tù binh của hai bên miền Nam mà thôi). Chúng tôi cũng tiếc rằng sáng hôm nay không có đại diện Việt Nam Cộng Ḥa đi Hà Nội để chứng kiến cuộc trao trả đầu tiên tù binh Hoa Kỳ tại Gia Lâm...
Bốn lần phát biểu của bốn phái đoàn đă đặt lên bốn vấn đề, bốn sự kiện hoàn toàn khác hẳn nhau nhưng các sĩ quan đại diện vẫn nghiêm trọng nhắc lại khi đến lượt ḿnh phát biểu. Mỗi phái đoàn vốn dĩ lại có một tính chất rất khác biệt. Phái đoàn Mỹ, do bản chất cụ thể, do tư thế giản dị của một công tác thuần túy quân sự, hơn nữa nhiệm vụ của người Mỹ do hiệp định đặt ra cũng vô cùng đơn giản: Nhận tù, gỡ ḿn bẫy ở miền Bắc và rút quân. Đại diện phía Hoa Kỳ là những người quân nhân đánh giá công việc với một nhăn quan rất dung dị và đúng luận lư nên vấn dề đặt ra dứt khoát rành rẽ. Phái đoàn MTGP như trên đă nói, phần lớn là cán bộ Bắc hoặc Trung, thiếu hẳn thông hiểu sâu xa về t́nh h́nh miền Nam. lại không có quyền để trả lời bất cứ vấn đề ǵ dù chỉ là một đề nghị về kỹ thuật và thủ tục, họ chỉ được phát biểu những ư kiến đă được ban tham mưu hoạch định trước qua một số từ ngữ được phân tích chọn lựa không sơ hở để đối phương có thể lợi dụng, khai thác. Thế nên, khi vào đến hoàn cảnh không thể tránh né được các vấn đề do VNCH và Hoa Kỳ nêu ra th́ họ đón nhận ư kiến, đề nghị của đối phương bằng cách “ghi nhận để nghiên cứu” và câu trả lời sẽ không bao giờ có. Trong chiều hướng khắc khe chặt chẽ này, đại diện Bắc Việt cũng không có quyền rộng răi hơn để phát biểu hoàn toàn ư kiến của ḿnh về bất cứ vấn đề ǵ, v́ vị thế của Bắc Việt trong bàn hội nghị cũng như Hoa Kỳ chỉ bao gồm vài nhiệm vụ đơn giản và cụ thể nên thường thường những đại diện Bắc Việt chỉ việc lập lại ư kiến của đại diện MTGP với thay đổi chút về từ ngữ, thứ tự vấn đề để nâng đỡ, che chở đàn em.
Phái đoàn VNCH trái lại, ở vào một thế lưỡng đầu thọ địch, kèm bên cạnh người bạn vô t́nh quá thực tế đôi khi đến tàn nhẫn. Chúng ta lại có nhiều công việc phải làm, nhiều vấn đề phải giải quyết, cũng như nhiều yêu cầu cần phải được thanh thỏa nhưng vấp phải thái độ cứng rắn của đối phương, cách thúc đẩy gần như ép buộc của đồng minh, và sự hạn chế bởi thời lượng do hiệp định đề ra, kèm thêm nỗi rối rắm v́ công việc đa đoan, thiếu chuẩn bị nên hội nghị đôi lúc đă đi vào những thảo luận đối nghịch quái dị như trên, thảo luận cũng tràn theo những chiều hướng vô lư mà nguyên do cũng không ra ngoài các điểm vừa nêu rơ. Trở lại câu chuyện MTGP qua lời phát biểu, chỉ trả cho VNCH những quân nhân tại địa điểm Lộc Ninh và Pleiku, đă chứng tỏ họ không nắm vững cách phối trí và chế độ giam giữ của các trại giam cộng sản... Ở chiến trường Tam Biên tù binh VNCH được phân phối theo ba nơi, một số được để lại tại chỗ sau này trao trả tại Vơ Định (Kontum), Đức Nghiệp (Pleiku), số khác chuyển ra Bắc sau này trao trả tại bắc sông Thạch Hăn, hoặc chuyển xuống vùng Quân Khu V cũ tức Mặt trận B5, gồm Nam Ngăi - B́nh Phú của Tướng Chu Huy Mân để sau này trao trả tại Quảng Ngăi, B́nh Định... Nhưng sở dĩ Lê Trực (Đại diện MTGP) chỉ nói đến hai địa điểm đó v́ Đức Nghiệp (Đức Cơ - Pleiku) là một vị trí mẫu mà Cộng Sản Bắc Việt dự định xây dựng một thủ đô, hay một trung tâm kỹ nghệ cho chính phủ, Lộc Ninh th́ đương nhiên coi như phía Nam. Sau này phía Cộng sản phân tán tù binh ra khắp mười một địa điểm từ Quảng Trị đến Cà Mâu trong âm mưu nhờ các cuộc trao trả chứng nhận luôn với Ủy Ban Quốc Tế là họ có đất miền Nam. Điều nầy cũng có thể giải thích rằng: Khoảng thời gian tháng 2-1973 Lê Trực chưa biết được âm mưu này hay v́ Trực mới từ Pháp về không nắm vững t́nh h́nh nên phát biểu ư kiến như trên. V́ thiếu thông hiểu t́nh thế đôi khi đại diện MTGP c̣n đưa ra những đề nghị như: Nhận nhân viên quân sự của họ tại sân bay Hớn Quản tức là sân bay An Lộc. (Trong phần kiểm soát của VNCH!!) Cũng có thể giải thích cho ư kiến này là MTGP muốn lợi dụng lúc đi nhận tù binh trong vùng VNCH để ấn định một tiền lệ về hành lang di chuyển, tuyến giáp hai vùng của hai bên, một vấn đề rất gay go mà Tiểu Ban Quân Sự suốt hơn một năm thảo luận đă không có một tiến bộ. Cũng trong t́nh thế nghị hội quái gở này, đôi khi những đề nghị vô lư như “Xử dụng sân bay Ái Tử để trao trả”. (Lúc địa điểm bắc sông Thạch Hăn chưa được đề cập) đă được bốn bên đưa ra thảo luận nghiêm trọng để rút được quyết định chung: Thám sát phi trường Ái Tử để xem C130 đáp được không?!! Tất cả đại diện của bốn phái đoàn đă không biết (Hoặc làm như không biết) căn cứ Ái Tử đă bị hư hại rất nặng trong tháng 4-1972, lúc Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ binh rút về thị xă Quảng Trị, phi đạo của phi trường này bị bóc hẳn lớp PSP (sắt lót phi đạo) bởi đạn trọng pháo và bom cỡ lớn. Thế nhưng cuộc thám sát cũng đă thành h́nh nghiêm chỉnh và tích cực vào ngày 11-2-1973.
Nhưng dù loạt choạc, xộc xệch, các phiên họp liên miên của thời gian hai tháng đầu tiên cũng hoàn tất và đạt được một tiến triển - Tù quân sự của mỗi bên (Theo danh sách phổ biến tại Ba Lê) được trao trả hết. Các phiên họp này tuy có những sơ hở trầm trọng trên thủ tục và cách điều hành nhưng quả t́nh đă hiện thực được một phần hiệp định.
Sau ngày 27 tháng 3 năm 1973, Ban Liên Hợp 4B rút lại c̣n 2B, Tướng Phạm Quốc Thuần về thay Tướng Dư Quốc Đống. Tướng Thuần nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, sư đoàn cứng nhất của vùng III chiến thuật, cũng là sư đoàn chịu mặt trận nặng nề liên tục nhất của chiến tranh Đông Dương; chiến khu C, D, mật khu Hố Ḅ, Bời Lời, khu Tam Giác Sắt, Bộ Chỉ Huy Ba Cục hay R, bản doanh bộ chỉ huy tối cao Mặt Trận đều đóng trên vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5. Tướng Thuần trong khoảng thời gian dài lănh nhiệm vụ ở vùng đất khẩn trương trọng yếu này, nơi đă có những trận chiến “quy ước” đầu tiên của thập niên 60 lúc du kích quân Cộng sản chuyển qua thế tấn công. Tuy là tướng lănh của chiến trường, nhưng ông Thuần được mọi người nh́n nhận như là một người thích hợp với bàn hội nghị, với khả năng sắc bén, ư thức chính trị cao Tướng Thuần nhập trận vào lúc t́nh h́nh nghị hội chuyển hướng, mọi người chờ đợi những thay đổi quan trọng. Nhưng nghị hội không tiến triển theo chiều hướng ḥa b́nh mà hiệp định vạch ra, Tướng Trần Văn Trà nhân cơ hội đi Hà Nội cùng phái đoàn Bắc Việt đă ở lại luôn tại đây, sau đó không hiểu về mật khu miền Nam hay đi Pháp để phối họp cùng đám cán bộ mặt trận tại Ba Lê. Lư do Tướng Trà rời khỏi chức vụ không được soi rơ, những giả thuyết được đặt ra để giải thích như, v́ Tướng Trà có thái độ mềm mỏng, cởi mở không đúng với chủ trương nhất quyết xử dụng lực lượng quân sự để tiếp tục xâm lăng miền Nam của Hà Nội... Nhưng tất cả cũng chỉ là giả thuyết, phải đến lúc hội nghị đi vào giai đoạn thảo luận gay gắt đối nghịch nhau đến cùng cực, sự ra đi bất thường của Tướng Trà mới có thể giải thích đứng đắn được - Tướng Trà sinh năm 1918 tại Quảng Nam, tham gia vào phong trào Việt Minh từ những ngày đầu tiên, Quảng Nam cũng như Nghệ, Tĩnh và gần gũi như Quảng Ngăi là đất của đấu tranh liên tục và quyết liệt, địa bàn xung đột của những đảng phái đối nghịch và cao độ hận thù. Những người Cộng sản thuần thành tích cực nhất đă phát xuất từ những nơi chốn này, nhưng đấy cũng là những nơi rèn luyện, un đúc lên những cán bộ Quốc Gia nhiệt thành mạnh mẽ nhất. Tướng Trà là một trong những người Cộng sản đầu tiên của xứ Quảng, nơi đă phát động phong trào chống sưu thuế, chống mộ phu của chính quyền thuộc địa; ông cũng là người cầm dầu lực lượng vơ trang thực hiện những vụ tàn sát thảm khốc ở Thăng B́nh, Đại Lộc trong thời gian trước và sau 1945. Từ 1945, trước khi tập kết ra Bắc theo Hiệp Định Genève, Tướng Trà được chuyển vào Nam xây dựng “sự nghiệp” cách mạng trên đầu mũi súng, chức vụ lớn nhất trong giai đoạn này là Tư Lệnh Trung Đoàn Quyết Thắng - Đồng Nai. Ra Bắc, Trà được phong quân hàm Thiếu Tướng, nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn 330, một trong hai sư đoàn chủ lực của miền Nam tập kết, sư đoàn kia là Sư Đoàn 338 do Đồng Văn Cống người Bến Tre làm tư lệnh. Năm 1960 Trà hồi kết với bí danh Trần Nam Trung trở về chiến khu Đ, giữ chức vụ tư lệnh quân khu miền đông Nam bộ, kiêm Quân Ủy Miền (Ủy viên chính trị quân đội Cộng sản miền Nam). Tháng 6-1969, chính phủ Mặt Trận được thành lập để đáp ứng với t́nh h́nh chính trị, Tướng Trà được đề cử làm Bộ Trưởng Quốc Pḥng. Với một quá tŕnh hoạt động tích cực liên tục, cùng với những chức vụ quân sự chính trị quan trọng như thế, ông không thể để sử dụng trong giai đoạn hội nghị thụ động v́ với khả năng và quyền hạn sẵn có Tướng Trà chắc sẽ có những quyết định vượt xa chủ trương gây bế tắc của phe Cộng sản. (Lẽ tất nhiên, cán bộ Cộng sản, dù cán bộ cao cấp cũng không bao giờ được phát biểu những ư kiến của riêng ḿnh, ư kiến khi nói ra là của tập thể với những từ ngữ được chọn lọc kỹ càng). Nhưng, v́ với quân hàm cũng như tư thế chính trị - quân sự quan trọng, Tướng Trà đă có những ư kiến rộng răi (phát xuất từ một quyền hành thực tế) như khi trả lời về vấn đề các tù binh VNCH c̣n bị giam giữ tại Bắc Việt, Tướng Trà đă có ư kiến:
- Sẽ làm hết sức ḿnh để giúp đỡ VNCH, được tới đâu thông báo tới đó.
Đây là ư kiến rộng răi nhất, tích cực, khích lệ nhất mà phái đoàn Mặt Trận đă phát biểu chính thức. Thời gian sau khi nhắc lại vấn đề này, Hoàng Anh Tuấn (người thay Tướng Trà) hoặc Vơ Đông Giang (Phó Trưởng Đoàn MTGP) chỉ trả lời lẫn tránh:
- Những người bị bắt ở ngoài lănh thổ miền Nam như Lào hoặc Kampuchia thuộc về quyền quản lư của lực lượng Pathet Lào và Khmer Đỏ yêu nước, c̣n theo lời quư vị: Nếu có sự kiện Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (Bắc Việt) có quản lư những người của VNCH th́ chúng tôi cũng không biết đến v́ chẳng bao giờ được thông báo sự kiện này!!
Giữa hai câu trả lời, lời của Tướng Trà quả t́nh phản ảnh được thái độ cởi mở, hợp lư nhất. Thái độ này hoàn toàn biến mất sau ngày 27-3-1973. Vậy Tướng Trà và quyền hạn của ông không thể đóng vai tṛ một búp bê gỗ được, nhiệm vụ này được trao tiếp cho Thiếu Tướng Hoàng Anh Tuấn. Để có thể hiểu rơ sự biến thể và tính chất của nghị hội, cần nói rơ hơn về con người của Tuấn và Giang (Phó đoàn MTGP từ đầu lúc c̣n Tướng Trà và sau khi Tuấn tay thế Trà). Tuấn tên thật là Hồ Xuân Anh, người Huế khoảng thời gian trước, sau 1945 Tuấn làm tiểu đoàn trưởng ở phân khu Trị-Thiên, bị Pháp bắt xong sau này được đem trả lại cho Việt Minh, tập kết ra Bắc xong hồi kết khoảng năm 1960 được phong quân hàm đại tá và tham dự hội nghị với bí danh Hoàng Anh Tuấn với quân hàm “ngụy” Thiếu Tướng. Giọng nói của Tuấn là một thứ giọng Huế chân truyền, cổ điển, đầy âm thanh của những người vùng quê Thừa Thiên mạn Hương Điền, Vĩnh Lộc. Tướng Tuấn có những cách gằn giọng thoạt đầu tưởng mạnh mẽ, uy lực nhưng nghe quen, nghe rơ th́ phát hiện được những tức giận thô thiển, của một tâm t́nh chất phác không thủ đoạn, không hiểm độc. Những từ ngữ như “chân thật, độc lập, nhân dân” khi Tướng Tuấn gằn giọng biến thành “chưng thực, đục lập, nhưng dưng...” đă mất hẳn ư nghĩa nguyên thủy cao quư, bộc lộ ra cách thụ động c̣m cơi của những chữ nghĩa “chết” được ghép vào nhau để một người học thuộc bài lập lại. Tướng Tuấn rất ít sáng kiến để nói lên những ư kiến với từ ngữ, cách thức xếp đặt thứ tự của riêng ḿnh. Chỉ với một nội dung không đầy trang giấy của phiên họp ngày 10-5-73 lúc phản đối việc “ Việt Nam Cộng Ḥa hạn chế các quyền ưu đăi miễn trừ cho phái đoàn Mặt Trận Giải Phóng yêu cầu VNCH phục hồi các quyền ưu đăi miễn trừ này để ban Liên Hợp Quân Sự 2B có thể hoạt động b́nh thường hữu hiệu được. V́ phái đoàn MTGP khi không có các quyền trên th́ hoàn toàn bị tê liệt, không thể cùng VNCH tiến hành, thực hiện công việc của BLHQS...”. Chỉ một nội dung ngắn ngủi như trên cùng với những từ ngữ quen thuộc, Tướng Tuấn cũng không nói theo cách riêng của ḿnh, mà phải đọc từ một tờ giấy soạn sẵn. Không phải v́ khả năng ăn nói kém nhưng Tướng Tuấn h́nh như không thích, không dám nói theo ư kiến riêng của ḿnh. Tuấn hiện thực đứng đắn vai tṛ một Trưởng phái đoàn, thụ động trong giai đoạn hội nghị tắt nghẽn. Bên cạnh Tuấn, Vơ Đông Giang th́ có thái độ trái lại, Giang mang quân hàm đại tá nhưng là phát ngôn viên của phái đoàn kiêm chức vụ phó trưởng đoàn ngay từ ngày đầu tiên, tức là ủy viên chính trị của đoàn, Giang người gốc Quảng Ngăi, từ trước vốn nằm trong bộ tham mưu của Trà, đặc trách về sinh viên, học sinh, báo chí... Với phương vị hoạt động rộng răi như thế Giang có đủ phong độ để vào bàn nghị hội với những thủ đoạn thần sầu nhất. Trái hẳn với Tuấn, Giang thường nói ra ngoài chủ điểm của vấn đề, bằng những lư luận móc nối, bổ túc cùng nhau với một giọng nói ḥa hoăn, nhặt khoan rất sành sơi. Ưu điểm nổi bật nhất của Giang là không gây khích động cho người nghe nhưng lôi kéo người nghe vào câu chuyện, tạo điều kiện, tạo hoàn cảnh để đối phương phải theo lời phát biểu của ḿnh, dù là lời đả kích, tấn công. Ví dụ khi VNCH tấn công sự im lặng của MTGP ở giai đoạn Trung Cộng tấn công quần đảo Hoàng Sa, th́ Tuấn trả lời theo một lập luận quen thuộc với giọng nói gay gắt:
- Quân Đội cách mạng từ nhân dân đứng lên, v́ nhân dân, v́ tổ quốc mà chiến đấu, không thể đặt vấn đề quân đội cách mạng a ṭng cùng quân xâm lược, quân cướp nước như quân đội VNCH đă theo chân quân đội thực dân Pháp trước kia và quân Hoa Kỳ sau này...
Trái lại Giang dùng một thế tránh đ̣n đặc biệt với một thái độ mềm mỏng, tính toán kỹ lưỡng. Giang mĩm cười trả lời:
- Về cái vụ Hoàng Sa, th́ tôi xin kể ra đây một câu chuyện mà hôm qua nhân cuộc họp báo, một kư giả ngoại quốc đă hỏi rằng: “Ông nghĩ thế nào khi VNCH cố t́nh thổi phồng vụ Hoàng Sa thành một chuyện lớn...” Cái từ ngữ “cố thổi phồng” này là của kư giả ngoại quốc đó chứ không phải của tôi, nên nhân buổi họp hôm nay tôi xin kể lại nguyên văn để quí vị nghe và nghiên cứu... - Giang nói thủng thẳng, nhẹ nhàng né tránh đợt tấn công theo kiểu của Tuấn như ở trên, cách thức sẽ đem lại thất bại.
Tướng Trà đi, để lại hội nghị cho hai nhân vật trên (Có một đại tá khác, Đại Tá Sĩ là phó đoàn MTGP, nhưng nhân vật này phụ thuộc nên tôi không kể vào). Nhưng dù bản chất và khả năng của họ có trái ngược cùng nhau, chủ điểm kéo dài hội nghị, ép thảo luận theo những phạm vi nhất định vẫn được thực thi tối đa nghiêm chỉnh.
Từ những phiên họp đầu tiên của hai bên (27-3-73) cho đến khi rời khỏi chức vụ, Tướng Thuần chỉ đến họp những phiên quan trọng như phiên họp sau thông cáo chung 13-6-73 của Kissinger và Thọ, phiên họp để giải tỏa bế tắc về trao trả 23-7-73, v.v.... Phần lớn ông đă để Tướng Hiệp và Đại Tá Đóa bao sân. Sở dĩ Tướng Thuần không dự các phiên họp v́ cấp bậc ông quá cách xa quân hàm của các ủy viên MT, cũng như v́ biết rơ ư đồ làm tŕ trệ hội nghị qua vai tṛ những người đại diện thiếu quyền quyết định và giải quyết các vấn đề. Sự bế tắc v́ quan điểm đối nghịch làm tất cả các buổi thảo luận trong giai đoạn này không đạt được một kết quả nhỏ nhoi nào, dù là một đồng ư về nguyên tắc và thủ tục.
Những vấn đề căn bản như ngưng bắn, khai triển các ban liên hợp cấp khu vực, tổ ở các địa phương, (Bảy khu vực chính là Quảng Trị, Đà Nẵng, Pleiku, Nha Trang, Phan Thiết, Biên Ḥa, Cần Thơ từ các cơ sở khu vực này chia thêm nhiều tổ nhỏ, ví dụ như khu vực Biên Ḥa có những tổ ở An Lộc, Vũng Tàu, v.v... Tổng cộng khắp miền Nam tất cả là ba mươi tổ). Vấn đề cửa khẩu, thay thế vũ khí, ưu đăi miễn trừ qua hàng chục phiên họp cấp trưởng đoàn cũng như cấp tiểu ban đều không đạt đến một thỏa thuận nhỏ bé nào. Điển h́nh như vấn đề ngưng bắn, phía VNCH đưa ra một đề nghị gồm bảy điểm như sau:
- Bốn phe kư kết hiệp định ra cấp tốc lời kêu gọi chung về ngưng bắn.
- Trong ṿng 48 giờ sau khi lời kêu gọi chung được phổ biến các phe đều phải ngưng bắn, ở nguyên vị trí tạm thời.
- Vạch một lằn ranh kiểm soát của mỗi bên từ cấp trung đội trở lên, ở giữa các vùng đối diện có một vùng trắng hai bên không được vào để tránh xung đột.
- Lui về vị trí cũ trước ngày 28 tháng 1 năm 1973.
- Khai triển gấp các cấp trung ương, khu vực, tổ (để kiểm soát ngưng bắn) trên toàn lănh thổ dựa theo các điều đă được Nghị Định Thư quy định.
- Áp dụng thủ tục điều tra vi phạm cho hai bên đang thảo luận có sự phối hợp giữa Ũy Ban Quốc Tế kiểm soát và giám sát.
- Sau khi thực hiện các điều khoản trên, thảo luận về cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau.
Phía MTGP đưa ra đề nghị gồm bốn điểm chính:
- Hai bên miền Nam Việt Nam cùng đưa ra lời kêu gọi chung, cùng chung một nội dung về ngưng bắn, xử dụng tất cả phương tiện sẵn có và hữu hiệu nhất để thông báo đến các lực lượng vơ trang, bán vơ trang, chính qui, địa phương của mỗi bên...
- Ngay sau khi lời kêu gọi chung được phổ biến, hai bên chấm dứt hẳn tiếng súng, chấm dứt mọi xử dụng hỏa lực phi pháo ṿng cầu, ở nguyên tại vị trí.
- Tháo gỡ tất cả mọi chướng ngại vật, ḿn bẫy, trên đường, trên sông để dân chúng hai miền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do kinh doanh, v.v.... Cấp cơ sở hai bên ở chiến trường gặp nhau trong tinh thần ḥa giải và ḥa hợp để đi đến chỗ chấm dứt hẳn tiến súng, ấn định vùng kiểm soát của mỗi bên.
- Khai triển các cấp trung ương, khu vực tổ tùy theo t́nh h́nh mỗi địa phương, theo phương thức hai trong, năm ngoài, v.v. (Hai trong vùng VNCH, năm ở vùng giáp ranh).
Mới thoạt nh́n th́ đề nghị bảy điểm bên này hay bốn điểm bên kia cùng có chung một nội dung như kêu gọi ngưng bắn, đ́nh chỉ xung đột, cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau, khai triển các khu vực, tổ để giám sát và kiểm soát ngưng bắn. Thật ra, đề nghị trên tuy có chung một vài từ ngữ chính yếu, cũng nhằm đạt tới “mục đích ngưng bắn” nhưng quả t́nh là những đề nghị của hai quan điểm hoàn toàn đối nghịch. Nh́n ngay đề nghị đầu tiên về lời kêu gọi chung; Phía VNCH quan niệm phải bốn phe kư kết hiệp định cùng phổ biến lời kêu gọi mới có hiệu quả và phản ảnh đúng thực tế quân Bắc Việt đă và đang tham chiến tại miền Nam. Lời kêu gọi chung cũng chỉ được phía VNCH quan niệm như là một bước đầu để tiến tới ngưng bắn chứ không cấu tạo nên ngưng bắn được mà phải đợi lúc khai triển đủ các cơ quan LHQS và UBQT đến các khu vực, tổ để giám sát, kiểm soát ngưng bắn tại mỗi địa phương, lúc ấy ngưng bắn mới có cơ thành h́nh được. Phía MTGP lại có quan niệm khác hẳn. Theo họ, lời kêu gọi chung chỉ cần do hai bên miền Nam phổ biến kịp thời đến tất cả mọi lực lượng vũ trang, bán vũ trang th́ h́nh trạng ngưng bắn ắt được thực thi toàn diện.
Chỉ mới hai đề nghị cùng chung một thứ tự, một nội dung, nhưng ư hướng của hai bên đă xây dựng trên những cơ sở khác biệt, những quan niệm nghịch chiều toàn diện. Kế đến đề nghị “cấp chỉ huy chiến trường gặp nhau (của VNCH)” và đề nghị cấp cơ sở ở chiến trường gặp nhau (của MTGP)” th́ sự dị biệt đă đến điểm cao không thể nào ḥa giải. Đề nghị của phía VNCH được giải thích rơ ràng và chính xác rằng: “Cấp chỉ huy chiến trường phải là cấp sư đoàn v́ chỉ có giới chức ở cấp đó mới có đủ quyền hạn, khả năng, phương tiện để “ra lệnh” cho cấp dưới triệt để tuân lệnh ngưng bắn. Vị Tư lệnh sư đoàn mới có chức năng trách nhiệm về lănh thổ, phối hợp với các Tỉnh trưởng về phân định vùng trú quân cho mỗi bên. Phía MTGP có quan niệm khác hẳn: “Đề nghị hai bên chiến trường gặp nhau ở cấp “cơ sở”. Nghĩa là trung đội trưởng, tiểu đội trưởng, tổ trưởng, và cuối cùng là mỗi chiến sĩ!!” Đoạn đối thoại sau đây của Tướng Hiệp (VNCH) và Tướng tuấn (MTGP) là một “sen” điển h́nh của hai quan niệm đối nghịch...
Tướng Hiệp:
- Chúng tôi quan niệm rằng cấp sư đoàn trưởng là cấp chỉ huy có đủ thẩm quyền để điều động tại chiến trường cũng như để phối hợp với các binh chủng khác như pháo binh, không quân, tiếp vận. Do đó, chỉ có cấp đó mới có đủ thẩm quyền gặp gỡ cấp bậc tương đương phe bên kia để thực hiện việc ngưng bắn. Theo lập luận của quí vị, th́ các cuộc gặp gỡ hai bên chiến trường có thể thực hiện theo cấp sư đoàn cùng cấp cơ sở, vậy yêu cầu quí vị giải thích “cấp cơ sở” là cấp nào?
Tướng Tuấn:
- Cơ sở đó là cấp sư trưởng (sư đoàn trưởng), trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng, trung đội trưởng...
Tướng Hiệp:
- Như vậy dưới trung đội là không c̣n cơ sở nữa? Chúng tôi muốn hiểu “cơ sở” của quư vị có dừng lại ở cấp trung đội không và dưới nó là tiểu đội trưởng, tổ trưởng không c̣n là cơ sở nữa; nói một cách cụ thể hơn, cấp trung đội trưởng là cấp cơ sở cuối cùng có quyền ra lệnh và ở dưới phải nghiêm chỉnh thi hành không được đánh phá... Chúng tôi hiểu nghĩa “cơ sở” của quí vị như thế, quí vị có đồng ư không?
Tướng tuấn:
- Cái chữ “cơ sở” có thể hiểu rộng thêm tí nữa, chúng tôi mới tạm ngừng ngang trung đội mà thôi, chứ cơ sở cũng có thế đi tới tiểu đội trưởng, tổ trưởng.
Tướng Hiệp:
- Như vậy tổ trưởng đă hết cấp cơ sở chưa?
Tướng Tuấn:
- Chưa, cái “cơ sở” mà chúng tôi muốn nói đến phải hiểu là “cấp chiến sĩ”, v́ mỗi chiến sĩ đều nhận một mệnh lệnh, một nhiệm vụ!!
Tướng Hiệp:
- Như vậy đă hoàn toàn hết nghĩa cơ sở chưa?
Tướng Tuấn:
- Như phần mà chúng tôi vừa tŕnh bày, đó là ở phạm vi quân sự, c̣n về phần chính trị, các cấp cơ sở gặp nhau sẽ là tỉnh trưởng, phía quí vị gặp tỉnh đội trưởng của chúng tôi, quận trưởng gặp huyện đội trưởng và cứ như vậy đi dần xuống đến cấp xă trưởng, ấp trưởng...
Đoạn đối thoại ngắn trên đây đă thực hiện đủ tính chất đối kháng của hai đề nghị dù cùng mang chung một từ ngữ, cùng hướng đến một mục tiêu trên bề mặt, cách xếp đặt trước sau trong thứ tự của các đề nghị này cũng phản ảnh rơ thêm về tính đối nghịch của hai dự kiến. Phía VNCH h́nh dung ra một cuộc gặp gỡ giữa hai bên trên cấp sư đoàn theo một diễn tiến gọi là kế hoạch ba bước.
Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương ấn định vùng thí điểm, chọn ngày giờ để BLHQS các cấp hai bên ra lệnh cho các đơn vị (trong vùng trách nhiệm được chỉ định) ngưng hẳn tiếng súng, ở nguyên vị trí.
Ban LHQS/TƯ gởi tức khắc một tổ LHQS đến địa điểm được lựa chọn, các thành viên sẽ là sĩ quan cấp đại tá có nhiệm vụ làm trung gian cho vị Tư lệnh sư đoàn gặp nhau lần đầu và chứng kiến cuộc gặp gỡ đó.
Hai vị Tư lệnh sư đoàn của hai bên sẽ bàn bạc vào các buổi kế tiếp về chi tiết và các biện pháp thi hành ngưng bắn và ǵn giữ lâu dài việc ngưng bắn trong vùng lănh thổ trách nhiệm của ḿnh...
Kế hoạch này chỉ được h́nh thành khi các tổ, các khu vực đă được phối trí đủ, UBQT cũng đă khai triển đủ bốn thành viên ở các địa điểm ấn định theo nghị định thư. Cuộc gặp gỡ chỉ được thực hiện ở cấp sư đoàn v́ chỉ có vị Tư lệnh sư đoàn mới có đủ quyền hạn và khả năng thực thi, phối hợp cuộc ngưng bắn.
Phía MTGP th́ lại h́nh dung cuộc gặp gỡ theo một diễn tŕnh khác:
- Sau khi phổ biến lời kêu gọi chung, hai bên miền Nam đ́nh chỉ tất cả các vụ nổ súng, ở nguyên vị trí, phá bỏ hệ thống pḥng thủ ḿn bẫy, cấp cơ sở hai bên gặp nhau từ cấp nhỏ đi lần lên cấp lớn để thực hiện ngưng bắn toàn diện, lâu dài.
Tuy cùng mang chung một số từ ngữ như ngưng bắn, đ́nh chỉ xung đột, hai bên gặp nhau trong tinh thần ḥa giải, ḥa hợp, v.v... Nhưng qua phân tách sơ khởi, ta đă nhận được toàn bộ đối nghịch của hai đề nghị, thế nên phía VNCH đă có những vấn nạn sau đây về đề nghị của MTGP:
- Cấp cơ sở tức là binh nh́ của VNCH gặp một du kích địa phương của MTGP, hai người này gặp nhau để làm ǵ, họ giải quyết được ǵ và thực hiện ngưng bắn theo phương thức nào?
- Một cuộc gặp gỡ hỗn loạn tràn khắp nơi, không có phương thức gặp gỡ với những người không được chỉ định trách nhiệm tiếp xúc, và quan trọng hơn hết khi không có các Tổ Liên Hợp Quân Sự, các Tổ Ủy Ban Quốc Tế chứng kiến, giám sát, th́ ai sẽ là “trọng tài” cho cuộc gặp gỡ đó. Thế nên, VNCH mới đề nghị khai triển gấp với các Tổ, Khu vực/Liên Hợp Quân Sự (Điểm thứ 7 của đề nghị).
Phía MTGP lại có lập luận để giải thích vấn nạn nầy:
- Cấp cơ sở, mỗi chiến sĩ, mỗi cán bộ đều lănh một nhiệm vụ, một trách nhiệm, họ là người đối mặt với nhau trên chiến trường nay phải để cho gặp nhau trước, t́m hiểu, thăm hỏi, nói với nhau nghe về “đạo lư” của hiệp định để thực hiện và củng cố ngưng bắn một cách cụ thể, xong được cơ sở này th́ tiến dần lên cấp trên.
- Phái đoàn Mặt Trận cũng quan niệm VNCH phải áp dụng đủ mười một điều ưu đăi miễn trừ (Quyền tự do đi lại, hội họp, họp báo, treo cờ, v.v...) th́ các thành viên MTGP mới có điều kiện để hoạt động. MTGP cũng luôn thể xác định: Chỉ khai triển các tổ theo phương thức “hai trong, năm ngoài” nghĩa là khai triển hai địa điểm khu vực ở trong vùng VNCH, năm địa điểm ở vùng giáp ranh.
Luận lư và lư luận đối nghịch, cả hai bên thật sự khi đưa ra đề nghị đă không có một hy vọng nào được bên kia đáp ứng. Làm sao MTGP có thể chấp thuận một cuộc gặp gỡ ở cấp sư đoàn khi toàn bộ các sư đoàn cộng sản Bắc Việt đều trấn đóng ở vùng biên giới, ba sư đoàn chủ lực của MTGP (Sư Đoàn CT 5, 7, 9) cũng chỉ bám được một số đất đai thuộc ba tỉnh Tây Ninh, Phước Long, B́nh Long dọc theo vùng biên giới. Gặp gỡ ở cấp sư đoàn CSBV là vô hiệu hóa đám cán bộ du kích địa phương, những “cơ sở chính trị” đă cấy vào nông thôn Việt Nam Cộng Ḥa nhân cơ hội lực lượng vơ trang tổng tấn công Việt Nam Cộng Ḥa trong mùa hè 1972. Cuộc gặp gỡ nếu có các Tổ Liên Hợp Quân Sự (Khai triển trong vùng VNCH theo như Nghị Định Thư) đến chứng kiến và giám sát th́ làm sao người cộng sản làm nổi bật được cái “ ranh giới giữa hai vùng ”. Chủ điểm chính của tất cả mọi dự tính của phái đoàn Mặt Trận.
Trái lại, VNCH cũng không thể chấp thuận được đề nghị toàn bộ các cấp cơ sở gặp nhau khi chưa hoàn tất được hệ thống các Tổ, Khu vực LHQS. V́ gặp gỡ trên cấp cơ sở nghĩa là đâu đâu cũng tràn ngập du kích địa phương, cán bộ binh sĩ Cộng sản. Hơn ai hết, các sĩ quan ủy viên trong phái đoàn VNCH phải toàn phần bác bỏ cách thức gặp gỡ tràn ngập này v́ họ biết binh sĩ Cộng sản đă được chuẩn bị và huấn luyện rất kỹ, thuần thục các công tác đấu tranh chính trị, xách động quần chúng, binh sĩ Cộng sản có thể tiến tới những vụ cướp chính quyền một vài cơ sở xă, thôn, quận lỵ xa xôi, nhân cơ hội lúc binh sĩ VNCH cả tin vào tinh thần “ḥa giải, ḥa hợp..”... Tràn ngập, xách động, cướp chính quyền, những diễn tiến tất nhiên trong vận động khuynh đảo của người Cộng sản.
Phía VNCH lẽ tất nhiên phải duy tŕ những điểm đề nghị của ḿnh, v́ khai triển trước các khu vực, tổ, tức là dựng được một hàng rào kiểm soát, giám sát được các cuộc tiếp xúc, điều tra vi phạm.
Mặt Trận Giải Phóng cũng thế; họ phải duy tŕ yêu cầu VNCH phải áp dụng đủ các quyền “Ưu đăi, miễn trừ để các đoàn đại biểu MTGP sẽ trương cờ trên xe đi từ vùng của MTGP sang đến vùng của VNCH và làm việc tại những vùng tiếp giáp...Nếu h́nh thành được t́nh huống này tức là hiện thực trước Ủy Ban Quốc tế, trước nhân dân, trước thế giới thực tế có hai vùng kiểm soát do hai quân đội, hai chính phủ điều khiển ”. Quan điểm chiến lược mà MTGP nhất quyết phải thực hiện cho được, bằng tất cả mưu toan, chuẩn bị, lợi dụng mọi t́nh huống. Từ viên tướng ngồi bàn hội nghị đến gă lính gác cổng ở Lộc Ninh, mà toàn lời nói, luận lư, nỗ lực chỉ cố để làm sáng tỏ thực tế này. Thực tế hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính phủ ở miền Nam Việt Nam. Những vận động đưa Fidel Castro vào thăm viếng Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ của Chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam, những h́nh thức tŕnh Ủy Nhiệm Thư ở cấp bậc đại sứ (Algérie, Đông Âu) cũng mục đích hiện thực thêm chứng cớ thực tế của “ Chính Phủ ” Mặt Trận Giải Phóng.
Lẽ tất nhiên, VNCH phải bác khước thực tế này, trên bàn hội nghị cấp trưởng đoàn hay các tiểu ban, các sĩ quan nghị hội VNCH đều xử dụng luận lư: Một chính phủ phải có những thực tế như đất đai, dân chúng, được quốc tế thừa nhận và hệ thống tiền tệ riêng. Mảnh đất đai răi rác ở những núi đồi xa xôi của cái gọi là “ Chính Phủ Lâm Thời CHMNVN ” chỉ gồm một ít dân chúng với tỷ lệ 3% nhân dân miền Nam, xử dụng đồng bạc Việt Nam Cộng Ḥa, chỉ được một vài nước ở khối không liên kết công nhận th́ làm sao có thể gọi là một chính phủ của một Quốc Gia được. Hơn nữa, từ trang đầu đến trang cuối của Hiệp Định Ba Lê, văn kiện pháp lư quốc tế cũng chỉ gọi Mặt Trận Giải Phóng là một lực lượng đối nghịch cứ không hề công nhận đây là một chính phủ ngang hàng được... Có một từ ngữ nào của hiệp định nói về chính phủ này không? Bằng lập luận dựa trên thực tế, trên văn bản hiệp định, văn kiện pháp lư độc nhất của thế giới xác định vai tṛ của MTGP, các sĩ quan chuyên viên nghị hội VNCH xử dụng tất cả mọi khía cạnh ưu thế để vạch rơ “thực tế” chính phủ này...
Quan điểm căn bản đối nghịch dẫn dắt tất cả mọi tranh luận đến bế tắc. Từ ngày đầu tiên của giai đoạn hai bên 28-3-1973 qua 13-6-1973 lúc Thông Cáo Chung của Kissinger và Thọ cố kiếm một sức đẩy hai bên miền Nam thi hành hiệp định. Ngày 15-10, Bộ Tư Lệnh tối cao các lực lượng vơ trang của MTGP ra mệnh lệnh đánh trả với phương án chỉ đạo:
- “ Đánh có miếng đừng gây tiếng...” Mệnh lệnh ngày 15-10-1973 hiện thực cụ thể Nghị Quyết 12R của Trung ương Cục miền Nam, ngụy danh Nghị Quyết 21 của Trung Ương Đảng miền Bắc. Cuối tháng 10-1973 Tướng Hiệp chính thức thay thế Tướng Thuần, nghị hội đi qua một giai đoạn khác: Giai đoạn... Đấu vơ mồm!
Sau mệnh lệnh “đánh trả” này 15-10-1973 của Trung Ương Cục miền Nam, t́nh h́nh chiến sự trở nên nghiêm trọng cực độ, 20-10-1973 một trung đoàn thuộc sư đoàn 320 cường tập tấn công bức rút trại Lệ Minh, một căn cứ của Biệt động quân ở tây-nam Pleiku. Ngày 4-11-1973 mặt trận Quảng Đức bùng nổ kéo dài trong ṿng nửa tháng với quân số tham chiến cấp sư đoàn. Đây là những trận đánh có kích thước lớn nhất kể từ ngày 28-1-1973 hiện thực đúng chủ trương “ đánh có miếng nhưng không gây tiếng ” của mệnh lệnh 15-10-1973. Trong tháng 12-1973 nghị quyết 12-R, ngụy danh chỉ thị của trung ương Đảng, đúc kết toàn thể sách lược chỉ đạo tất cả mọi phạm vi hoạt động trong phương án: “ Cuộc tấn công toàn diện ở miền Nam Việt Nam phải được thực hiện đồng loạt và tràn ngập, liên kết ba mũi, chủ động cả ba mặt, trên khắp ba vùng. Ba mũi là mũi tấn công quân sự, tấn công chính trị, tấn công binh vận; trên ba mặt chính là diện quân sự, diện chính trị, diện ngoại giao; tràn ngập đến khắp ba vùng: Vùng của MTGP, vùng tranh chấp (vùng xôi đậu), vùng VNCH. Đề án được phổ biến rộng răi đến tận một binh sĩ, mỗi cán bộ để cán binh Cộng sản ra sức học tập, giải thích và hiện thực tối đa ”.
Song song với t́nh h́nh chiến trường cùng các hoạt động vi phạm bộc phát nghiêm trọng như thế tại bàn hội nghị, MTGP áp dụng một sách lược tấn công mới, cách thức tấn công mà Đại tá Đóa, Phụ Tá Nghị Hội Trưởng Đoàn VNCH gọi là chính sách “ nhai giây thun, phun nước miếng ”... Hoàng Anh Tuấn, Vơ Đông Giang đồng loạt mở màn chiến dịch đả kích phê phán chính sách của Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa trên hai chủ đề ngưng bắn, thảo luận về trao trả. Tài liệu chính mà cấp trưởng phái đoàn MTGP thường xử dụng là bản tin chiến sự của đài phát thanh giải phóng với nội dung là thổi phồng, xuyên tạc các hoạt động của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ vùng I tới vùng IV... Bắt đầu MTGP tố cáo:
- Hoạt động nống lấn, cày ủi của quí vị có mục đích gom dân vào các “khu tập trung” để cướp thóc lúa, tiền của nhân dân; các lực lượng thuộc Sư Đoàn 3 Bộ Binh đă đồng loạt thực hiện ở các xă tây, tây-nam Đại Lộc, Duy Xuyên, Quế Sơn (Vùng đất cực tây và tây-nam của hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín). Xong đến tố cáo Sư Đoàn 2 Bộ Binh hành quân hủy diệt, dội bom đánh phá vùng giải phóng ở tây Sơn Tịnh, Mộ Đức, Đức Phổ, Quảng Ngăi. Đặc biệt ở vùng này Hoàng Anh Tuấn cũng như Vơ Đông Giang đều nêu rơ từng danh hiệu các tiểu đoàn bộ binh, địa phương quân, các chi đoàn thiết giáp, chiến xa hành quân, ở những xă thôn, ấp nào. Ví dụ: Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 4 Sư Đoàn 2 bộ binh cùng Tiểu Đoàn 102 Bảo An (Địa Phương quân) có chi đoàn xe bọc thép 1/4 yểm trợ hành quân cày ủi vùng hai xă Phổ Thông, Phổ Đức thuộc huyện Đức Phổ... Sở dĩ trưởng phái đoàn MTGP thường hay chú ư đến vùng đất này cùng các chi tiết rơ ràng v́ họ biết Tướng Hiệp vốn là Sư Đoàn Trưởng Sư Đoàn 2 Bộ binh, nguyên Tư Lệnh Thiết giáp, trấn đóng vùng Quảng Ngăi, Quảng Tín trong thời gian dài; Tướng Hiệp cũng từng là Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà (Quảng Nam, Đà Nẵng) nên rất thông thuộc từng địa danh, từng đơn vị của vùng này. Trong một phiên họp, Tướng Tuấn quen thói đọc bản văn vi phạm của quân lực VNCH có nhắc tới một xă thuộc quận Ḥa Vang (Quảng Nam) sát nách thị xă Đà Nẵng cho rằng VNCH đă xử dụng một lực lượng bộ binh quan trọng cùng phi pháo tấn công, hủy diệt xă này để lùa dân vào “khu tập trung”... Lập tức, Tướng Hiệp phản pháo:
- Toàn thể quận Ḥa Vang thuộc tỉnh Quảng Nam nằm sát với thành phố Đà Nẵng, tương tợ như vùng G̣ Vấp, Tân B́nh với Sài G̣n, từ trước tới nay không hề có một xă thôn nào bị Mặt Trận Giải Phóng kiểm soát được... Hoạt động cộng sản ở vùng này là vài anh du kích đi treo cờ, rải truyền đơn, đặt ḿn, ném lựu đạn chớ không thể một đơn vị Cộng sản nào có một hoạt động quân sự khả dĩ để VNCH phải huy động những cuộc hành quân cấp tiểu đoàn... Hơn nữa dân chúng vùng Ḥa Vang đa số là đảng viên Đại Việt, một đảng phái quốc gia kỳ cựu đă có những xung đột quyết tử với phe Cộng sản từ mấy mươi năm qua. Vậy, nếu muốn xuyên tạc và tố cáo, trưởng đoàn MTGP nên chọn một địa điểm khác hợp lư hơn với lời tố cáo.
Sau lần “hớ” nêu trên, phái đoàn Cộng sản dời các nơi “vi phạm” thuộc ba tỉnh Nam-Tín-Ngăi vào sâu trong vùng cận sơn cho chắc ăn!
Sau vùng đồng bằng Nam-Tín-Ngăi, MTGP chuyển vi phạm VNCH lên vùng Tây Nguyên; nơi nào họ có hoạt động quân sự, tập trung quân để cường tập, tấn công các căn cứ VNCH và phía bên này điều động lực lượng đến để giải tỏa, th́ MTGP lại gọi đó là một hoạt động vi phạm lệnh ngưng bắn! Cấp trưởng phái đoàn MT thường có một phê phán rất hồ đồ ở vùng này:
- Phía quí vị đă tập trung hàng ba, bốn liên đoàn Biệt động quân, hai, ba trung đoàn bộ binh có xe bọc thép, phi cơ, đại pháo yểm trợ để tấn công, hủy diệt các vùng giải phóng “lâu đời” của chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam! Vùng giải phóng “lâu đời” tức là các căn cứ Lệ Minh, Plei Morong vừa bị họ bức rút chiếm cứ và Việt Nam Cộng Ḥa tập trung quân phản công chiếm lại. Vi phạm chuyển về phía nam vùng Quảng Đức chung quanh căn cứ Đức Lập, Darksong. Đến vùng III, áp dụng chiến thuật xuyên tạc như cũ, nhưng để tránh khỏi nhàm chán MTGP úp mở tuyên bố: Lực lượng vơ trang cách mạng cương quyết đánh trả để giữ vững vùng cách mạng ở đông bắc Trăng Bàng (Hậu Nghĩa) hoặc củng cố vùng cách mạng đánh bật các chốt phía bắc đường 13 mà lính quí vị trấn đóng trái phép. Lập luận này để che tội lấn chiếm ở những xă đông bắc Trăng Bàng, bắc An Lộc nơi mà cán binh CS vừa lập xong được các chốt sau khi lấn chiếm. Tố cáo chuyển dần xuống vùng IV, qua Long An, Định Tường và kết thúc ở vùng Thất Sơn, Châu Đốc. Xen kẽ trong những tố cáo về vi phạm quân sự, Trưởng Đoàn Mặt Trận Giải Phóng thường chen vào những tố cáo khác như tham nhũng, hiếp dâm, cướp bóc. Áp dụng đúng nguyên tắc vu khống. Một sự vu khống muốn được nghe và tin th́ kèm thêm một, hai yếu tố thực tế cụ thể nào đó xong tán rộng ra và nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Điều vu khống kia sẽ đạt đến một cường độ khả thể thấm thấu và óc năo của kẻ bị tuyên truyền. Thế nên, khi tố cáo về một đơn vị VNCH ở một vùng với hoạt động rơ ràng có chỉ danh chi tiết, phía MTGP kèm theo đó vài tội vu cáo, như đại đội 2 của tiểu đoàn trên ăn cướp năm mươi con gà của ông Lê Văn Sáu ở ấp 1, xă Phổ Phong, quận... Sau một thời gian, phía CS thấy các tố cáo về ăn cắp, ăn cướp không được ăn khách; họ tăng tội ác lên độ ăn cướp kèm theo giết người và hiếp dâm...
Chủ trương tố cáo trên sở dĩ có, v́ phía VNCH trong khi tố cáo lại đối phương thường kết án hành động khủng bố, ám sát, giật ḿn của đám cán bộ hạ tầng MT (Theo đúng đề án ba mũi, ba mặt, ba vùng...) bằng dẫn chứng là bản báo cáo các hoạt động khủng bố trong ngày, được Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đúc kết từ các Đô, Tỉnh, Thị trong toàn quốc lúc 7 giờ sáng mỗi ngày. Bản báo cáo đầy đủ các chi tiết như tên, họ, số lượng người bị bắt cóc tại ấp, xă, quận, tỉnh liên hệ. Những khủng bố quan trọng có hệ thống thường nhằm vào một khu vực, một thành phần đối tượng nào đó sẽ được phía VNCH nghiên cứu và lưu ư để xử dụng làm bằng cớ tố cáo ư định, dự mưu của phía cộng sản... Ví dụ như ở vùng Cai Lậy quả đạn cối 82 ly ngày 9-3-74 gây sát hại làm thương vong hàng gần trăm trẻ em, làm toàn thể nhân dân trong và ngoài nước sững sờ v́ một tội ác vượt quá ư niệm, nhưng đối với những ủy viên nghị hội, những người có nhiệm vụ theo dơi, đo lường những vi phạm, khủng bố của Cộng sản th́ tội ác trên chỉ là một diễn tiến “hợp lư”, một tiến bộ “cụ thể” mà người Cộng sản chắc chắn sẽ thực hiện. V́ quả đạn 82 ly ngày 9-3 vào Trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy là “hậu quả” của những “công tác” có hệ thống. Sau đây là một báo cáo điển h́nh kể từ ngày có thông cáo chung 13-6-73 giữa hai người được giải Nobel Ḥa B́nh, tại khu vực Cai Lậy. Ngày 20-7-1973 để kỷ niệm ngày kư kết Hiệp Định Genève, phe cộng sản bắn 20 trái 82 ly vào khu đông dân cư phía đông -nam chợ Cai Lậy làm năm đồng bào bị thương vong. Ngày 24-3-73 pháo kích một quả 103 vào xóm Búng, nam quận Cai Lậy “giải phóng” một linh hồn một em bé cùng bốn đồng bào lớn tuổi khác. Ngày 17-3-1973 đặt ḿn phá chiếc cầu tại ba cây số bắc quận lỵ làm cầu hư 70%; ngày 18-9-1973 bắn hai quả B40 vào một chiếc xe be làm hai đồng bào “lao động” lấy củi tử thương tại chỗ. Ngày 8-10-1973 pháo hai hỏa tiển vào sát hàng rào quận tiêu diệt được một đồng bào, làm bị thương ba người khác. Ngày 18-11-1973 du kích Cộng sản tác xạ ba quả 60 ly vào xă Nhị Quí giải phóng cho sáu đồng bào. Ngày 5-2-1974 pháo năm quả 61 ly vào xă Mỹ Thạnh; ngày 6-2-1974 bắn xe lam trên liên tỉnh lộ 29 nối Cai Lậy (Định Tường) với Kiến Tường diệt gọn ba đồng bào; ngày 9-2-1974 bắn một B40 vào nhà một thường dân ở xă Mỹ Thạnh Trung làm ba em bé của “hàng ngũ Ngụy” bị thương. Ngày 27-2-1974 ném bê-ta vào nhà một thường dân làm hai người bị thương; ngày 4-3-1974 bắn một quả M79 vào đám nông dân ở 7 cây số đông-nam Cai Lậy làm bị thương hai người; ngày 9-3-1974 pháo kích một quả 60 ly vào địa điểm đông dân ba cây số bắc Cai Lậy làm năm thường dân bị thương.... Cùng ngày nầy, “thành công vượt bực” là quả đạn 82 ly rơi vào trường Tiểu Học Cộng Đồng Cai Lậy, song song với thành quả lẫy lừng này là một quả 82 ly khác rớt vào xóm Búng với kết quả “khiêm nhường”, chỉ một đồng bào bị thương.
Các vi phạm được ghi nhận, lưu ư, đúc kết dần dần kế tập nên hiện thực tội ác của người Cộng sản. Phía VNCH đă dùng những chứng tích cụ thể này để xây nên luận cứ buộc tội. MTGP lẽ tất nhiên không thể chối bỏ rằng không có các tội vi phạm đó, nên họ lại bày ra một chiến pháp tố cáo khác để đánh lạc hướng, hóa giải lời buộc tội của VNCH... Ví dụ khi phía VNCH tố cáo MTGP vi phạm một vụ khủng bố bắt cóc một trưởng ấp th́ họ sẽ dựng lên một vụ giết người quy mô có dự mưu, với mục đích cướp của hiếp dâm... Thường thường “tội ác” của quân đội VNCH phạm bao giờ cũng lớn hơn, nặng nề, nghiêm trọng hơn các vi phạm của du kích Cộng sản!! Nhưng có lẽ v́ không liên lạc với các đơn vị địa phương, chẳng có báo cáo chính xác về các hành động phạm pháp của binh sĩ quân lực VNCH trong các cuộc hành quân ở khắp nơi (nếu có)... Phái đoàn MTGP dựng đứng bằng cách ghép các tội ác (tưởng tượng) trên vào với những đơn vị quân đội đang tham dự các cuộc hành quân mà MTGP ghi nhận được ( Yếu tố sau này th́ trưởng phái đoàn MTGP có tài liệu rất kỹ càng, không những các cuộc hành quân lớn mà ngay các cuộc điều động cấp tiểu đoàn, đại đội ở các địa phương cũng được cán bộ cộng sản ở nơi đó báo cáo về phái đoàn MT ). Nhưng trưởng đoàn CS thường lại tỏ ra vụng về trong việc dựng tội ác; v́ để tăng cường độ, gây khích động, họ thường “phịa” ra những tội rùng rợn, ghê tởm như binh sĩ VNCH hiếp dâm tập thể hai bà già sáu mươi tuổi xong bỏ vào bao bố đem ném vào lửa hoặc nồi nước sôi!! Tội ác tưởng chừng chỉ có trong các chuyện cổ tích, chuyện hoang đường về một địa ngục... Tướng Tuấn và Đại Tá Giang của MTGP lại thường hay có những cú “móc” xỏ lá (Khi Tướng Hiệp hướng dẫn đoàn nghị hội) với lập luận sau đây:
- Bản chất của chúng tôi là những người cách mạng(!), hy sinh gian khổ để chiến đấu dành độc lập, tự do cho tổ quốc và nhân dân, trái lại đi ngược ḷng dân, giết dân là bản chất của quân đội quí vị. Chúng tôi không phải đến đây để phê phán cái bản chất đó nhưng v́ quí vị đă nêu ra nên chúng tôi phải vạch rơ những hành động cướp bóc, hăm hiếp người xong vứt vào lửa để làm tṛ cười với nhau!! Cách đây ba mươi năm, những tên xâm lược Pháp đă làm ǵ đối với nhân dân Việt Nam, bây giờ lại được sĩ quan, binh sĩ quí vị tiếp nối...!! Người ta không lạ ǵ điều này v́ quí vị là sản phẩm của quân đội xâm lược Pháp, là lính đánh thuê cho chính sách thực dân mới của Hoa Kỳ!!...
Trưởng đoàn MTGP trong những tố cáo về “tội ác” của quân đội VNCH luôn luôn “ngoéo” cái “móc” xỏ lá này, v́ ông Hiệp vốn có tác phong rất “Tây” với râu quai nón, mũi cao, mắt sâu, thoạt nh́n cứ tưởng đó là một “ông Tây” nói tiếng Việt! Nhưng thật sự không phải thế, người là một ông Việt Nam trăm phần trăm với vơ nghiệp rất ngất ngư, phong phú mà lư do chính cũng v́ dáng dấp ông Tây này đă làm anh em ông Diệm không tin dùng để kẹt ở lon đại úy trên mười năm cấp bậc thực thụ!!! Các anh tướng tá Cộng sản cũng v́ tưởng lầm như trên nên lâu lâu cứ đem ông thực dân Tây ra “chọc quê” Trưởng Đoàn Việt Nam Cộng Ḥa. Tướng Hiệp không để ư đến điều xỏ xiên này, nhưng Đại Tá Đóa th́ không bỏ qua cái tội “bô lô, ba la” cùng những xỏ lá trên, v́ ông Đóa là một ông Bắc Kỳ thuộc loại người trời sinh để nói: Để lập ngôn. Nói nhiều, nói độc, nói dài hơn bất cứ đối thủ ăn nói nào. Ông thách đố:
- Nếu quí vị cứ phê phán th́ chúng tôi sẽ đáp lễ, quí vị nói dài, chúng tôi sẽ nói dài hơn, nếu cần quí vị hăy đem ghế bố đến đây để nằm nghỉ đợi chúng tôi phát biểu!!
Đối với những tội ác như hiếp dâm bà già, ném người vào lửa, Đại Tá Đóa đă có đ̣n phản công như sau:
- Chúng tôi lấy làm lạ tại sao quí vị cứ đem chuyện hiếp dâm ra để nói tại bàn hội nghị, những câu chuyện dơ bẩn, hạ đẳng mà chúng tôi thiết tưởng những người có giáo dục b́nh thường, những người có một chút luân lư tối thiểu sẽ phải hỗ thẹn khi đọc lên, khi nhắc đến... Nhưng ở đây quí vị lại nhắc tới một cách say sưa, mê măi, phải chăng quí vị bị ẩn ức, bị dồn nén, quí vị muốn hiện thực một tội ác lư tưởng, một hành động ám ảnh nhưng v́ không thể làm, không có điều kiện làm nên đă chuyển giao qua cho người khác mà tâm lư học gọi là “transfert de cupabilité...” Và tại sao, và đến nỗi ǵ binh sĩ, sĩ quan chúng tôi phải làm hành động bỉ ổi dơ dáy đó, chúng tôi có gia đ́nh ở bên cạnh, binh sĩ sau giai đoạn hành quân trở về hậu cứ, ở đó có trại gia binh, hoàn cảnh ép buộc nào để binh sĩ chúng tôi phải phạm đến tội lỗi trên?? Vậy có hiếp dâm hay không là ở phía quí vị, chính quí vị mới có hành động thô bạo dơ bẩn trên bằng những từ ngữ ngụy trang như “ ủng hộ chiến sĩ, tham gia cách mạng, ghi ơn bộ đội...”. Như phía quí vị đă ép buộc các thanh nữ, thiếu phụ vùng Tam Quan, Hoài Ân (B́nh Định) hiến thân, gần gũi với cán binh lúc Cộng sản Bắc Việt tạm kiểm soát những vùng trên trong cuộc tổng công kích 1972, hành vi cưỡng ép này được quí vị ngụy danh thành một động tác “ ghi ơn bộ đội!! ” Và hơn ai hết, chính các quí vị ở đây mới là những người đă có hành động đó... (Đại Tá Vơ Đông Giang đă từng hiếp dâm một nữ cán bộ lúc y nghỉ dưỡng bệnh sốt rét tại một bệnh xá. (Hồi kư Đường Đi Không Đến - Xuân Vũ). Và đám cán bộ cao cấp của tập đoàn Cộng sản mới là những kẻ không ít th́ nhiều có liên quan đến các tội phạm, những bất toàn về t́nh dục. Tướng Vơ Nguyên Giáp cưới con của Đặng Thái Mai, người vợ mà trước kia Giáp bế trên tay và gọi bằng cháu; Lê Duẫn nhờ áp lực Đảng để cưới người vợ trẻ, cô Thoa, một hoa khôi nổi tiếng miền Tây trong thời kháng chiến 1945; Nguyễn Khánh Toàn, đồng chí, đồng hành cùng Hồ Chí Minh đă được Đảng hợp tác cuộc hôn nhân thứ ba lúc Toàn bảy mươi tuổi cùng với một thiếu nữ mười bảy tuổi!!) Đấy, những sự kiện trên mới phản ảnh đúng chính sách, chỉ đạo của Đảng Cộng Sản cùng với ư thức đạo đức mới mẻ, mà trong đó chủ trương “cấy giống” được ngụy danh để thay thế những cuộc hiếp dâm tập thể!!
Bầy ra những tội hiếp dâm tập thể xong, phanh thây người chết ra, hoặc hiếp dâm bà già, ném con nít, ông già vào nước sôi (Vùng quê Việt Nam, trong một cuộc hành quân kiếm đâu ra cái chảo lớn đủ để “luộc” được người, hơn nữa trong một cuộc đi càn (ngôn ngữ Cộng sản) lấy đâu ra th́ giờ nước, củi đủ nấu một chảo lớn để “luộc” người thật nhiêu khê rắc rối theo như tố cáo của phái đoàn CS!! ) Được ba, bốn lần không thấy khích động được đối phương, lại chỉ gây thêm tṛ cười v́ các “tội ác” quá sách vở, quá Quốc văn giáo khoa thư... Và chắc sau khi hội ư kiểm thảo, phái đoàn MTGP cũng nhận thấy rằng tội ác khó “chấp hành” được, có vẻ là bối cảnh của chuyện Phạm Công - Cúc Hoa, Mục Liên - Thanh Đề nên đồng ư dẹp bỏ. Phía CS xoay theo một phương thức tấn công khác, nhưng “ chủ đề hiếp dâm, giết người ” vẫn triệt dể khai thác. Lại hiếp dâm, phải chăng cấp trưởng phái đoàn MT nhận được chỉ thị từ Lộc Ninh, phải khai thác cái “ te ” này trong một thời hạn nào đó, hoặc thấy chủ đề c̣n hấp dẫn, đầy tính chất sáng tạo?!! MTGP bèn khai thác các phóng sự về hiếp dâm, cướp của của báo chí Sài G̣n, lẽ tất nhiên, phe viết báo Sài g̣n (Ngoại trừ cái ṭa soạn báo Điện Tín, nơi mùi Cộng sản bốc lên không che dấu, có đăng thơ của Vẹm với những câu như “Ai về đất Quảng, Nhớ ngày Thái Phiên, Ai qua Châu Mộc, Hăy ghé Điện Biên...” Báo ngày 4-2-1974) không thể nghĩ đến lúc MTGP lấy bài viết của ḿnh để đả kích lại chúng tôi với những lập luận như sau:
- Báo chí Sài G̣n, dù bị chính quyền quí vị dọa nạt bưng bít cũng không thể im lặng trước những tội ác mà binh sĩ quí vị “ được lệnh ” thực hiện trên đầu trên cổ người dân!!
Tội ác được lệnh thi hành theo lời MTGP là tội hiếp dâm hai thôn nữ ở Long Khánh mà một anh nghĩa quân đă phạm sau khi bị thần rượu ám. Những phóng sự của các thông tín viên địa phương thường lại hay thổi phồng hoặc tạo thêm gay cấn sự kiện, (Nghề của chàng, lâu lâu viết một bài, chàng viết cho sướng - Tất nhiên) được các ủy viên tham mưu của phái đoàn CS nghiên cứu, mổ xẻ thêm thắt để biến thành những trường hợp điển h́nh cho chiến dịch tội ác mà chính phủ VNCH chủ trương cho binh sĩ và cán bộ ở các địa phương thi hành!! Sau hiếp dâm, giết người, MTGP “chấp hành” tối đa các bài báo tố cáo tham nhũng, hối mại quyền thế, họ cũng móc nối các sự kiện này lại chung quanh chiếc trục “ chủ trương của VNCH ” để chứng minh rằng những hành vi phạm pháp trên phát xuất từ một xă hội, một chính sách bất nhân, mục nát mà phía VNCH cố t́nh duy tŕ, khai thác tính chất này trong âm mưu làm tay sai cho chính sách “ thực dân mới ” của Hoa Kỳ, nghĩa là chủ trương mở rộng vùng kiểm soát, xóa tan thục tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng giải phóng!! Tóm lại, là không thi hành đúng tinh thần và lời văn của Hiệp Định Ba Lê, không chủ trương “ Ḥa B́nh, Ḥa Giải Dân Tộc!! ”. Với một xị rượu đế say sưa, hành động của một anh nghĩa quân làm bậy trong đêm tối dần dà nối kết với tham nhũng của một anh ủy viên hành chánh xă bê bối để cùng nhau phá hoại hiệp định, phá hoại thành quả ḥa b́nh do hiệp định mang lại, ḥa b́nh phe Cộng sản đă kiên cường tranh thủ sau khi đánh bại được nửa triệu quân Mỹ và các nước đánh thuê Nam Triều Tiên, Xiêm La, v.v... Người Cộng sản đă kết hợp những sự kiện này tài giỏi như bà tiên trong chuyện cổ tích.
Chiến dịch “đọc báo” của MTGP bị Đại Tá Đóa phản công:
- Quí vị đến đây để thương thảo hay để đọc báo? Thương thảo nghĩa là thương lượng, thảo luận các vấn đề do hiệp định quy định, để thực hiện ngưng bắn, thực hiện ḥa b́nh... Chứ đâu phải đem một đống báo ra rồi đọc vanh vách từng bài một?! Báo ấy xuất bản ở Sài G̣n của chúng tôi, chúng tôi đă mua, đă đọc, đă biết, đâu cần quí vị đem tới đây đọc lại, nhưng quí vị c̣n đọc thiếu, đọc sai, đọc láo!! Sao quí vị không đọc các bài tường thuật vụ Trung Cộng xâm lăng quần đảo Hoàng Sa, sao quí vị không đọc phóng sự du kích quí vị ném lựu đạn tại Ba Xuyên, sao quí vị không đọc bản tin đài BBC nói về vụ thảm sát học sinh ở Cai Lậy?!! Các tội ác này mới là chủ trương sai trái, là âm mưu phá vỡ hiệp định, giết hại nhân dân. Quí vị lại c̣n xuyên tạc một cách thô bỉ khi thêm vào trong bài báo tố cáo vụ hiếp dâm ở Long Khánh những t́nh tiết, những sự kiện gây cấn ly kỳ làm như quí vị có mặt ở đó; bài báo chúng tôi cũng có đọc mà không thấy nói đến ác chi tiết như quí vị vừa nêu? Vậy là sao? Là quí vị “ phịa ”, quí vị viết ra cho ḿnh đọc, và đọc để chưởi rủa, la lối kéo dài, đánh lạc hướng nghị hội...
Tướng Hiệp th́ phản công theo một chiều hướng khác:
- Chúng tôi lấy làm buồn cười do những dẫn chứng mà quí vị vừa tŕnh bày, tất cả những hành vi xấu mà báo chí VNCH nêu ra chỉ là hành vi riêng rẽ của một vài cá nhân phạm phải, chính phủ chúng tôi xét xử trừng phạt họ theo luật pháp. Những hành vi xấu này sở dĩ được tŕnh bày cũng v́ báo chí miền Nam có đủ quyền tự do trong công việc loan tin về những thực tế xă hội, nhân sinh, chứ không phải như thế giới Cộng sản chỉ đầy đặc một loại “ thánh ” không hề có nhược điểm trong một “ thiên đàng ” đỏ máu! Và báo chí Cộng sản th́ có được ǵ, viết được ǵ, hay tất cả những điều tŕnh bày chỉ là lệnh và theo chỉ thị của Đảng. Quí vị cũng rất thâm độc khi bắt đầu tố cáo th́ xử dụng các bài báo có dẫn chứng, nêu rơ lên từng tên người phạm tội, tên các báo chí đăng tải, tiếp theo sau là tố cáo tiểu đoàn này, trung đoàn nọ giết hàng chục người trong những làng xă không nêu danh, trong những quận lỵ không hề được xác định!! Ư đồ thâm độc lộ liễu này chúng tôi đă biết rơ, quí vị đừng ḥng lấp liếm, lợi dụng. Sự tàn sát lương dân đích thực, ghê tởm nhất mà dư luận ở Huế hiện đang xôn xao là cuộc tàn sát cả một gia đ́nh gồm chủ nhà, người cha, người mẹ, người con dâu, những đứa trẻ, giết luôn cả người giúp việc cùng con của người giúp việc, giết cả con mèo, con chó, thậm chí con cá vàng trong chậu cũng bị ném ra sân!! Cuộc tàn sát được thực hiện thật tối đa để gọi là - thành quả tiêu diệt một đơn vị phản động!! ”
T́nh h́nh chiến sự mỗi ngày một căng thẳng, sau Lệ Minh, Đức Lập, Chí Linh, đến Đức Huệ, Tống Lệ Chân, Kontum, Hậu Nghĩa, Định Tường, bộ đội mặt trận nổ súng nhiều hơn, nống lấn (chữ của MTGP) nhiều hơn th́ ở bàn hội nghị, trưởng đoàn CS lại đọc báo nhiều hơn và cuộc thảo luận về ngưng bắn chỉ là một tố cáo dằng dặc về giết người, cướp của, hối lộ tham nhũng. Phía MT có một lập luận rất logique trong các tố cáo này:
- Những việc làm xấu xa sai trái này phản ảnh tính chất bế tắc, nô lệ của chính sách Việt Nam Cộng Ḥa. Sở dĩ có t́nh rạng bế tắc hư hại này là v́ Mỹ muốn vậy, Mỹ muốn VNCH phải lệ thuộc vào Mỹ; Mỹ muốn VNCH lệ thuộc vào Mỹ để Mỹ sai khiến làm công cụ cho chính sách thực dân kiểu mới..
Bám quanh cái trụ “ thực dân kiểu mới ” này, phái đoàn MTGP quay hướng tất cả mọi tố cáo, tất cả mọi xuyên tạc về mục tiêu cuối cùng: Việt Nam Cộng Ḥa phải công nhận thực tế hai vùng kiểm soát, hai quân đội, hai chính quyền, thực tế của Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa miền Nam Việt Nam.
Năm 1973 chấm dứt, sắp đến Tết Giáp Dần, cũng là thời hạn một năm hiệp định được kư kết, phía Việt Nam Cộng Ḥa tạo điều kiện để khai thông nghị hội qua cửa ngơ tù binh, một vấn đề mà cả hai bên từ trước tới nay đạt được một vài tiến triển. Và mong cuộc trao trả sớm h́nh thành để tù dân sự của hai bên đoàn tụ với gia đ́nh trong dịp Tết. Tuy cùng đồng ư với ư niệm nhân đạo này nhưng đến khi thảo luận vào chi tiết của vấn đề th́ hai bên lại có hai quan điểm đối nghịch. Phía VNCH muốn khai thông toàn thể vấn đề tù binh một cách tổng quát, nghĩa là giải quyết t́nh trạng của tù binh quân sự VNCH bị bắt ở các mặt trận ngoại biên như Kampuchia, Lào, người bị bắt trước năm 1972... (95% tù quân sự VNCH được thả là những quân nhân bị bắt trong năm 1972, năm cộng sản Bắc Việt tổng công kích tại Nam Việt Nam). Phía MTGP lại quan niệm khác: Vấn đề tù binh chỉ là phần sót lại của kế hoạch trao trả được hai bên thiết lập từ ngày 23-7-73, nghĩa là VNCH trả phần c̣n lại của 5081 nhân viên dân sự được công bố. MTGP trả số c̣n lại của danh sách 637 nhân viên dân sự VNCH và 410 nhân viên quân sự ở Đức Nghiệp. Kế hoạch tháng 7-73 này c̣n có nhiều lợi điểm cho họ, khi nhận được số c̣n lại của tổng số 5081 ( Nhân số cần thiết để bổ sung và quân b́nh hóa lực lượng hạ tầng bị Cộng sản miền Bắc khuynh loát, tràn ngập ). Nếu cuộc trao trả được tiến hành, những vùng đất ở địa điểm trao trả được gián tiếp công nhận thuộc quyền kiểm soát của họ. Những địa điểm trao trả tù quân sự trước kia như bắc sông Thạch Hăn, Lộc Ninh, Quảng Ngăi, nay được tăng cường thêm ở Đại Lộc (Quảng Nam), Kỳ Quế (Quảng Tín), Vơ Định (Kontum), Đức Nghiệp (Pleiku); địa điểm ở vùng cận sơn tỉnh Khánh Ḥa; ở bắc Xuyên Mộc (Phước Tuy), U Minh (Kiên Giang), Năm Căn (An Xuyên). MTGP có thâm ư phân tán số tù binh nhỏ nhoi 442 người c̣n lại (của tổng số loan báo 637, đă trả tại bắc Thạch Hăn 195 người vào tháng 5-1973) đến mười một địa điểm dọc khắp miền Nam để chứng tỏ sự hiện diện và quyền kiểm soát của họ trên nhiều vùng đất. Sự cố gắng này dễ nhận được khi họ thiết lập hai địa điểm ở hai tỉnh sát cạnh nhau như Vơ Định (Kontum) và Đức Nghiệp (Pleiku); địa điểm Vơ Định chỉ vỏn vẹn có tám người. Cuối cùng cuộc trao trả vẫn không thực hiện được, Tết Giáp Dần đi qua.
Sau Tết, vào đầu tháng 1-1974, vấn đề trao trả lại được khơi lại thêm một lần nữa, dư luận trong và ngoài nước hân hoan đón nhận diễn tiến tốt đẹp của cuộc trao trả, người ta hy vọng rằng cuộc trao trả sẽ gây nên những hệ quả đáng khích lệ khác như thành lập Hội Đồng Ḥa giải, ngưng bắn và phân ranh vùng, tổng tuyển cử. Nhiều ước tính và đồn đăi về việc hữu hiệu hóa và hiện thực việc thảo luận ở Hội Nghị Paris vào những công tác khẩn thiết đang được toàn khối nhân dân miền Nam mong ước. Nhưng tất cả cũng chỉ là những hy vọng. Cuộc trao trả đă kết thúc trong thảm hại.
Trong số 410 quân nhân VNCH được dự định trao trả ở Đức Nghiệp, MT đă thiếu đến ba mươi mốt người. Phía Cộng sản giải thích có mười lăm người chết v́ những bệnh (!) trước kia và mười sáu người đă lợi dụng sự tử tế của lính canh để bỏ trốn?! Ở những địa điểm trao trả khác phía CS đều có những thiếu hụt như ở Quảng Ngăi trả bảy mươi trên bảy mươi mốt, ở Khánh Ḥa trả năm thay v́ sáu người được loan báo,Vơ Định (Kontum) thiếu hai người trong danh sách tám người... Tỷ lệ thiếu hụt tính chung 12% của mười một địa điểm. Nhưng trầm trọng hơn hết thảy, cán binh Cộng sản đóng tại các chốt dọc đường 13 từ Chơn Thành đến Lộc Ninh (đường bay được xử dụng thường xuyên để liên lạc giữa Sài G̣n và Lộc Ninh để trao trả tù qua nhiều đợt) được lệnh tác xạ vào trực thăng Việt Nam Cộng Ḥa từ Lộc Ninh trở về. Cán binh Cộng sản bắn lần thứ nhất (riêng đợt trao trả này, từ 8-2 đến 7-3) vào ngày 26-2-74, lần thứ hai vào ngày 7-3-74 cũng là ngày VNCH đơn phương phóng thích 76 tù binh quân sự cộng sản. Lần tác xạ này đă gây tử thương cho một nhân viên phi hành đoàn trực thăng Chinook CH47. Và mặc dù phía VNCH vẫn kiên tŕ duy tŕ kế hoạch, binh sĩ CS vẫn bắn lại lần thứ hai trong ngày, vào lúc 15giờ 50. Họ vẫn bắn v́ lệnh đă ban bố!! Để giải thích cho hành động phi lư bạo ngược này, Tướng Tuấn lại tố ngược rằng chính VNCH đă vi phạm đường bay, thủ tục bay; giải thích tuy ngang ngược nhưng phía CS vẫn không dám thú nhận đă bắn lên máy bay đi trao trả mà chứng cớ hiển nhiên là vết đạn c̣n ghi trên thân máy bay và xác thân c̣n nóng của viên Trung sĩ phi hành. Dưới đây là lời chạy tội của Tuấn:
- Trở lại câu chuyện mà quí vị đă dựng đứng lên trong kháng thư gởi ngày 8-7-74, quí vị đă bịa đặt lên một chuyện máy bay Chinook bị bắn trên đường trao trả về... V́ tưởng rằng những điều dựng đứng chung quanh sự việc này khỏa lấp đựợc những vi phạm sai trái từ trước đến nay, chúng tôi đă nhiều lần lên án việc quí vị lợi dụng đường bay, lợi dụng việc trao trả, lợi dụng kư hiệu của Ban Liên Hợp Quân Sự để xử dụng máy bay trong các công tác trinh sát, ném bom, bắn phá vùng kiểm soát của chính phủ cách mạng. Như trong cuộc trao trả vừa qua, bất chấp nhiều lần nhắc nhở của chúng tôi, quí vị đă cho một số máy bay theo sát hành lang của máy bay Ủy Ban Quốc Tế để ném bom vào phía tây đường 13 trong ngày 14-2-74. Ngày 19-2-74 trong một chuyến bay đi Lộc Ninh, quí vị đă có những hành động do thám, khiêu khích trên các chốt của chúng tôi đóng trên đường, sĩ quan liên lạc của chúng tôi trên chuyến bay đă chứng kiến sự kiện và nêu lời cảnh cáo. Ngày 22-2-74 trong cuộc trao trả tại Vơ Định, quí vị cũng lợi dụng để cho máy bay trinh sát đánh phá phía tây đường 14, ngày 28-2-74 trong lúc máy bay của Ủy Ban Quốc Tế đi giám sát cuộc trao trả ở Lộc Ninh, quí vị xử dụng những máy bay chiến đấu bay kèm theo để khiêu khích lực lượng dưới đất của chúng tôi, sự kiện được Đại Sứ Iran chứng kiến.
Cuối cùng, Tuấn kết luận:
- Giả dụ nếu có việc máy bay bị bắn hạ, thậm chí không phải để bắn cảnh cáo mà bắn hạ thật th́ cũng là một hành động chính đáng v́ phía quí vị đă triển khai các hoạt động vũ trang đen tối, quí vị cũng không được phép than thở v́ ḿnh đă sai trái.
Nửa nhận, nửa không, Tuấn xử dụng một ngón đ̣n điển h́nh của Cộng sản: Không bao giờ xác định một tội ác mà phải ngụy danh dưới những danh từ rất ḥa b́nh, rất ḥa giải. Suốt một năm 1973 hàng ngàn phi vụ trực thăng đă được thực hiện dọc đường 13, h́nh ảnh những binh sĩ Cộng sản đứng dưới đất đưa tay vẫy chào khi máy bay bay qua các chốt của họ là h́nh ảnh thực tế và quen thuộc đối với các phi hành đoàn trực thăng, các nhân viên trong ban Liên Hợp Quân Sự 2 bên và Ủy Ban Quốc Tế. Rơ ràng hơn hết, đợt trao trả kể từ ngày 8-2-1974, các phi cơ trực thăng vẫn xử dụng đường bay với cao độ trên dưới năm mươi thước dọc trên đường 13. Vậy lệnh tác xạ cho binh sĩ MT trong những ngày 26-2 và 7-3 là những lệnh mới, những lệnh độc lập, đơn phương gây bạo động.
Tướng Tuấn lại càng vô lư hơn khi tố cáo L-19 vi phạm “ vùng trời Đức Nghiệp Pleiku...” Trong cuộc trao trả tại Đức Nghiệp ngày 5-3-1974, tên thiếu tá mặt trận lập lại lời tố cáo này với cá nhân tôi... Chẳng e dè tôi đáp lễ:
- Thế nào là không phận, thế nào là vùng trời? Quí vị trả lời cho chúng tôi biết khoảng cách từ mặt đất trở lên bao nhiêu th́ được kể là không phận của một nước? Của một quốc gia?... Quí vị có tính luôn thượng tầng khí quyển không? Quí vị là quốc gia hay sao mà có một không phận riêng? Và vùng trời Đức Nghiệp phải chăng là một đường thẳng góc từ khí quyển thẳng góc với mặt đất tại địa điểm trao trả này, một điểm vô h́nh đúng với tọa độ ZA4 Và ai xác nhận vùng Đức Nghiệp này là của quí vị? Nghị Định Thư về ngưng bắn có ấn định cấm Việt Nam Cộng Ḥa thực hiện những phi vụ huấn luyện, kỹ thuật hay không?... Quí vị nói cho sướng miệng, được bảo sao là nói vậy...Hỏi khắp các cơ quan hàng không thế giới có ai xác định được không phận của một xă hay không?!
Ở địa điểm trao trả tôi chưởi theo kiểu ào ạt như thế, trong buổi sáng 10-3, Đại Tá Đóa lại có một bản văn với nội dung là từng hàng chữ phẫn nộ sắt đá. Bằng một giọng nói uyển chuyển, khắng khít đan từng chữ, chém từng câu, đánh bạt đối phương vào một nỗi ngẫn ngơ choáng váng:
- Trước khi vào chương tŕnh nghị sự, chúng tôi dành ít phút để đề cập đến một sự việc quan trọng vừa xảy ra: Hôm kia (7-3-1974) lúc 12 giờ 20, trong chuyến trao trả thứ nhất, chiếc trực thăng Chinook không vơ trang của chúng tôi sau khi đă đưa đến Lộc Ninh 40 nhân viên quân sự của quí vị để trả cho quí vị, trên đường về đă bị lực lượng dưới đất của quí vị bắn lên gây tử thương cho một nhân viên của phi hành đoàn, máy bay bị bắn thủng với dấu vết, tang chứng tồn tại.
- Trước sự quá lộ liễu trắng trợn của hành động thô bạo trên, chúng tôi sẽ làm một công việc vô ích nếu nhấn mạnh lại tính chất nhân đạo mà phi hành đoàn đang thực hiện: Trao trả về cho đối phương những tù binh quân sự bị bắt trên chiến trường. Chúng tôi cũng sẽ tốn công vô ích khi phân tích cho quí vị biết tính chất chuyên môn riêng biệt của phi xuất Chinook để bác bỏ vấn nạn ngụy tạo mà quí vị sẽ dựng đứng lên: phi hành đoàn đă bay khiêu khích, trinh sát trên các chốt.
- Cũng sẽ vô cùng vô ích, sẽ vô cùng uổng phí để tŕnh bày cùng quí vị những điều hợp lư v́ trí năo của quí vị không đủ sức chứa những giải thích, v́ trí năo của quí vị đặc cứng một khối đá căm thù dậy men máu. Chúng tôi chỉ có thể xác định được như thế! V́ những kẻ cầm súng ở dưới đất, chắc chắn không phải vô cớ, không phải v́ ngẩu hứng, cũng không phải v́ bị khiêu khích nên đă có hành động tàn bạo trên. Kẻ đó phải được chỉ thị từ trước, phải được phối trí để chỉ bắn máy bay từ Lộc Ninh trở về, không bắn máy bay từ Biên Ḥa bay đi. Tất cả vụ vi phạm từ trước đến nay chỉ được thực hiện với các máy bay trên đường từ Lộc Ninh về.
- Chúng tôi nhấn mạnh lại điểm này. Hơn thế nữa, quí vị c̣n biết rơ hơn ai hết, quí vị đă thành công trong công việc làm biến dạng một lớp binh sĩ trẻ tuổi, từ những khối năo trong trắng chất phát trở thành những khối óc trống rổng thiếu trí phán xét, năng lực suy tư để chỉ có thể hành xử theo động tác có điều kiện như một con vật trong thí nghiệm của Pavlov - Binh sĩ của quí vị cũng mất hẳn năng lực phẫn nộ khi chưa được bấm nút! Vậy, phải hiểu rằng động tác của một kẻ nào đó ở dưới đất khi nâng khẩu súng hướng vào trực thăng như vừa kể là một động tác không thuộc về hắn, nhưng đă được hướng dẫn từ một chính sách, từ một đường lối. Chính sách và đường lối máu, đỏ như lá cờ hắn dựng lên trong những “ chiến thắng ” đẫm mùi thây người, những “ chiến thắng ” Mậu Thân Huế, Darksong; “ chiến thắng ” trên chín cây số thịt, da đồng loại của Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng trị!! Chúng tôi quan niệm như thế và chắc rằng đă nghĩ, đă suy diễn đúng từ những tội ác quá hiện thực của quí vị. Quí vị đừng từ chối chính sách đỏ máu đó, v́ đó là chính sách cơ bản, là “ diện ” chiến lược bao phủ lên tất cả mọi đường lối, hành động của quí vị. Chính sách đỏ rực mầu máu đó cũng chính là mầu cờ mà quí vị ngước cao mặt để chào kính mỗi ngày với sự nhủ thầm: Hăy cố gắng để tô thắm thêm ánh đỏ dị kỳ, man rợ... Chính sách đó cũng đầy ắp trong khúc hát mà quí vị đă lập đi lập lại hàng chục ngàn lần trong đời, khúc hát tràn ứ những h́nh tượng quái đản, kinh khiếp: “Thề phanh thây uống máu quân thù... Đường vinh quang xây xác quân thù...”. Quân thù nào trong những ngày tháng này, trên miền Nam này, trong ḷng chiếc máy bay đi thực hiện công tác trao trả? Phải chăng quí vị thiếu đối tượng khích động, thiếu thứ thức ăn để dựng tiệc vinh quang nên quí vị đă bắn lên các phương tiện của ḥa b́nh, bắn vào những người đi thực hiện những đạng thức cụ thể cho ḥa b́nh.
- Phải chăng quí vị muốn kiếm một chút thây người kiếm một chút máu đỏ để tô lá cờ thêm thắm, để câu hát được hiện thực đầy đủ như từ ngữ réo gọi?!!
- Chính sách của quí vị, mầu cờ của quí vị, khúc hát của quí vị đang cố tâm đẩy mạnh thực hiện, biến quí vị trở thành những h́nh tượng siêu đẳng: H́nh tượng của những kẻ sát nhân thấp kém, sa đọa nhất của lương tri con người.
- Chúng tôi chấm dứt nơi đây để quí vị trở về suy nghĩ lại, suy nghĩ trên hai chiều hướng, thứ nhất để giải thích tính chất vô lư phi nhân của sự việc, chiều hướng thứ hai để thú nhận sự man rợ quái đản của một chính sách xây dựng trên thây người và máu nóng. Trong đầu tuần tới, chúng tôi yêu cầu quí vị hăy xử dụng phương tiện chuyên chở của chúng tôi để liên lạc với Lộc Ninh và cho chúng tôi biết đơn vị nào, cá nhân nào đă nhúng tay vào việc sát nhân đó và h́nh phạt nào đă giành cho họ.
Cuộc trao trả đă kết thúc bằng máu đỏ và thây người làm hụt hẫng mất hết cả hy vọng tiến đến những giải tỏa đáng khích lệ để làm nền móng cho ḥa b́nh. Ḥa B́nh, giấc mộng thê thảm của cả khối dân tộc ch́m đắm miệt mài hủy hoại trong hung tai. Cuộc trao trả với kết thúc đau đớn chưa làm tan dư âm của nguồn dư luận v́ thấy con đường đến ḥa b́nh bị nghẽn lối, th́ đến ngày 9 tháng 3 năm 1974, cán binh Cộng sản trong chiến dịch khủng bố và gây áp lực lên quận Cai Lậy làm đầu cầu cho các cuộc xâm nhập vào tỉnh Định Tường cũng như những trận đánh vào tháng 5 năm 1974 sau này đă bắn một quả đạn 82 ly vào trường tiểu học cộng đồng Cai Lậy gây thương vong cho bốn mươi ba em bé và làm bị thương bảy mươi ba em khác. Tội ác vang động như tia sét nổ bùng trong một ngày quang đăng, như đợt sóng thần vọt lên từ đáy đại dương trong nháy mắt cuốn trôi đi cả thành phố... 43 xác chết trẻ thơ cùng 70 thân thể nhỏ bé co quắp lăn lộn vương văi trên biển máu đă khiến cho cả thế giới nhân loại ngơ ngẩn: Tội ác vượt quá ư niệm. Tội ác xảy ra ngày 9 tháng 3, măi đến phiên họp trưởng đoàn ngày 15 tháng 3 phía MTGP mới phát biểu một hai ư kiến liên quan đến. Phải nói chân thật rằng, phái đoàn Cộng sản cũng không thể nghĩ đến một thành quả kinh khiếp như thế đă được cán binh họ thực hiện. Lẽ tất nhiên từ ngày 15-10-1973 khi mệnh lệnh đánh trả được ban bố và vùng Cai Lậy, Định Tường được xem như thí điểm để mở rộng vùng giải phóng ở Quân Khu IV Việt Nam Cộng Ḥa ( Một quân khu vẫn từ lâu tỷ lệ an ninh rất cao ), th́ vùng này đă bị 27 lần pháo kích kể đến gày 7-3-1974 mà mục tiêu là Chi Khu Cai Lậy, các đồn bót dọc theo quốc lộ 4, liên tỉnh 29. Nhưng v́ kỹ thuật tác xạ của du kích Cộng sản vốn quá kém cỏi, các dàn phóng 10 ly, 122 ly phần nhiều là tạm thời làm bằng tre, bắn xong bỏ trốn nên các quả đạn 60, 82 ly, các hỏa tiễn 107, 122 ly hầu hết rớt ra ngoài khu đông dân cư. Tỷ dụ như xóm Búng, nam Cai Lậy bị đến hai lần pháo kích ( lần thứ nhất vào ngày 24-7-73 và lần hai cùng ngày 9-3-74 ). Tuy nhiên, thành quả giết người của hai mươi bảy lần pháo kích, khủng bố chỉ đạt được một kết quả khiêm nhường, cao nhất là kết quả ngày 18-11-73, một quả sáu mươi ly rơi vào xă Nhị Quí làm chết sáu người dân... Thế nên, bốn mươi ba xác chết cùng bảy mươi thân thể nhỏ bé bị thương của ngày 9-3-74 cũng làm luôn phía Cộng sản choáng váng. Phái đoàn MTGP im lặng cho đến ngày 15-3-74 mới phát biểu một tố cáo lật lọng:
- Sau khi các chiến dịch vu khống: “ Cộng sản chuẩn bị tấn công mùa khô, Cộng sản giật ḿn xe đ̣, bắn vào dân chúng ” đă bị phá sản, không giật gân để khích động dư luận nên bây giờ quí vị (VNCH) lại “dựng đứng” lên cái gọi là “ Cộng sản pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy ”. V́ hiện nay mười bảy tiểu đoàn thuộc các trung đoàn 10 và 11 đang hành quân lấn chiếm khu vực đông bắc lộ 4 (Bắc Cai Lậy), các căn cứ hành quân dă chiến đang tiếp tục điều động những lực lượng cơ hữu để đánh phá hủy diệt xóm làng, pháo kích bừa băi vào nơi dân chúng. ( Luận cứ này không có được một chút hợp lư v́ các trung đoàn 10 và 11 thuộc sư đoàn 7 bộ binh đă trấn giữ vùng này hơn mười năm qua, quả đạn rơi vào trường tiểu học Cai Lậy thuộc loại cối 82 ly của Trung Cộng, bộ binh Việt Nam Cộng Ḥa chỉ có các loại cối 60, 81; quân đội Cộng sản dùng các loại cối lớn hơn một ly đường kính - 61, 82 - Trung Cộng - mục đích để có thể xử dụng luôn cả đạn 60, 81 ly. Luận cứ này sẽ vô nghĩa đối với những người có đôi chút kiến thức về phối trí các lực lượng quân sự, cách xử dụng hỏa lực của đôi bên.
Tướng Tuấn tiếp:
- Vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy chỉ là một vu cáo để khỏa lấp các vi phạm do quí vị gây nên mà thôi, chúng tôi sẽ điều tra một cách kỹ lưỡng rộng răi để t́m ra nguyên do đích thực của sự kiện. Quân đội cách mạng không phải mới sinh hôm qua, hôm nay, nhưng đă có hơn ba mươi năm qua, từ dân mà dấy lên, do dân mà chiến đấu nên phía quí vị đừng ḥng “ dựng đứng ” lên tội ác này, tội ác nọ để tố cáo, xuyên tạc được!!
Đầu phiên họp, tướngTuấn đưa ra lập luận trên để chạy tội, cuối phiên họp, Tuấn có thêm một vài yếu tố khác nên đẩy lời chối tội đi xa hơn bằng cách quy trách nhiệm cho phía VNCH là kẻ chủ mưu của vụ Cai Lậy (?!!) Lời tố cáo ngang ngược lúc này có ư nghĩa khác lời chạy trốn trên, v́ ở trên họ cho là Việt Nam Cộng Ḥa dựng đứng tức là chuyện không có, chuyện ngụy tạo, không thật... Đến đây, th́ Tuấn lại gián tiếp nh́n nhận có vụ thảm sát ở Cai Lậy, nhưng do chính phủ phía VCH chủ trương thực hiện(!!). Tướng tuấn cao giọng:
- Đừng tưởng rằng bằng những giọt nước mắt cá sấu qua sự việc gây thương vong cho “ các cháu ” (sic) ở Cai Lậy là chứng minh được chủ trương nhân đạo của phía quí vị, là thương trẻ con, v́ dân, v́ nước... Quí vị đừng tưởng như thế, chỉ là một tưởng tượng “ quạ hóa thành công ”. Nếu quả thật phía quí vị đau xót sôi sục th́ tại sao không triệu tập phiên họp ngay từ ngày 10, 11 mà măi đến hôm nay, 15-3 mới đưa ra chính thức ở bàn hội nghị. Quí vị đừng tưởng dùng xương máu trẻ em để cố lật ngược đổi trắng thay đen, nhưng bản chất của hai quân đội đă làm cho ai cũng thấy ngay được ai là thủ phạm của tội ác?! Bản chất của lực lượng cách mạng vũ trang giải phóng là chỗ nô lệ mà ra, từ chỗ áp bức đứng lên cầm súng đánh hết đế quốc này đến đế quốc khác... Chúng tôi là những ngựi đứng lên đi đầu trong cuộc đồng khởi để chiến đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Khi bảo chúng tôi pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy th́ tại sao khi một nhà báo ngoại quốc dù có giấy phếp của Trung Tướng Tổng Cục Chiến Tranh Chính trị của quí vị vẫn không được vào quay phim chụp ảnh ở phạm trường? Phải chăng v́ quí vị sợ nhà báo này khám phá ra những dấu vết chứng tích cuộc thảm sát là do phía quí vị đề ra. Lệnh cấm này do Tướng Nghi, Tướng chúa vùng IV đề ra!!
Khốn nạn thật, một tội ác sừng sững cao ngất uất hận như thế mà phía Cộng sản đă xóa sạch không ngượng tay, không run giọng, họ đă không những chỉ xóa sạch tội ác, c̣n chuyển tội ác đến người khác một cách điệu nghệ trong tỉnh táo ngang ngược đến phi nhân!!
Hành động quái đản ngược ngạo này sở dĩ được hiện thực là do bản chất uyển chuyển, tính thích nghi vào tất cả mọi hoàn cảnh của người Cộng sản, nhưng cũng góp phần bởi bản tính thụ động đến độ đáng phẫn nộ của phía chúng ta?! Lệnh cấm vào phạm trường do Tướng Nghi hay do Tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường, chúng tôi không rơ được, nhưng quả t́nh lệnh này đă tạo một lối thoát bằng vàng, đă bắt một chiếc cầu cho kẻ sát nhân chạy trốn. Lệnh cấm quái dị phi lư nầy đă như một tấm màn che kín vũng máu oan khiên của thân xác trẻ nhỏ. Người đứng ngoài, dư luận trong và ngoài nước trong giây phút xúc động đầu tiên, ḷng chùng xuống ở trạng thái dễ bị khích động lôi cuốn nhất, nên bỏ qua rất dễ dàng sự trốn chạy ngang ngược lếu láo của kẻ sát nhân lại được một màn hỏa mù do phía chúng ta ném ra. Phải chăng Tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường muốn “ che ” luôn tội ác của địch để chứng tỏ địa phương an ninh, địa phương ta kiểm soát được 100% dân cư, đất đai, trong viễn tượng bắt thêm một sao kỳ thăng thưởng 1-4-74 sắp tới, cũng như muốn lấy lại một chút điểm với “ Mặt Trời ” (1) sau vụ bê bối hàng lậu phát xuất từ Định Tường bị bắt ở Long An?! Nhưng dù bởi lư do nào đi chăng nữa lệnh cấm thông tín viên ngoại quốc và trong nước vào phạm trường buổi chiều ngày 9-3 cũng như sáng ngày 10 đă tạo một đường thoát thân cho kẻ địch ở t́nh thế sinh tử!!
Sau này, anh tỉnh Trưởng Tỉnh Định Tường c̣n làm thêm một màn rất huê dạng nữa; tổ chức một cuộc biểu t́nh phản đối Ủy Ban Quốc Tế khi cơ quan này xuống điều tra vụ thảm sát!! Và v́ không kiểm soát nổi các em học sinh, nên có một, hai em đă vô ư thức ném đá vào phái đoàn điều tra. Tên sĩ quan liên lạc của MTGP lấy cớ địa phương không bảo đảm an ninh xúi dục anh Ba Lan, Hung Gia Lợi chấm dứt cuộc điều tra. Đau khổ hơn hết thảy, thành viên Nam Dương kẻ chống Cộng tích cực nhất của ủy ban cũng là một nạn nhân của vụ ném đá?! Sự kiện làm ngă ngửa cả Ban Liên Hợp chúng tôi; yêu cầu được Ủy Ban Quốc Tế đi điều tra với đủ bốn thành viên là một “ thành công ” đặc biệt, thế mà khi cuộc điều ra đang tiến hành với những kết quả rất có lợi cho Việt Nam Cộng Ḥa th́ xảy ra vụ ném đá?! Anh Tỉnh trưởng này muốn ǵ? Tất cả mọi người đều lắc đầu ngao ngán, phải chăng Tỉnh Trưởng tỉnh Định Tường là một tay nằm vùng có nhiệm vụ vẽ đường cho giặc chạy? Phải chăng anh ta thiếu những lư trí tối thiểu để làm một người trưởng thành hay anh ta mắc bệnh “ đần ”?!! Tôi không nói quá lời, v́ vụ ném đá đă khiến cho phái đoàn MTGP ở bàn hội nghị xoa tay hoan hỉ, họ mạnh dạn, hân hoan tố cáo:
- Quí vị đến bây giờ th́ đă biết ai gây tội ác ở trường tiểu học Cai Lậy chưa? Nếu là chúng tôi sao ở đó lại tổ chức biểu t́nh ngăn cản, ném đá vào Ủy Ban Quốc Tế đến để điều tra, phải chăng họ “ sợ ” Ủy Ban t́m ra vết tích thủ phạm...
Căm hận quá, tôi ngồi ở pḥng quan sát viên ghi lời Tuấn phát biểu, tay run rẩy không viết được thành ḍng, căn pḥng lạnh phút chốc như hầm kín, tưởng như ai đang siết chặt hơi thở, có ai đang đốt lên trong tôi ngọn lửa phẫn nộ đến nổ bùng!! Có lẽ đây là lư do để giải thích tại sao phe ta mạnh, lính ta can trường, chính nghĩa ta rực rỡ, nhân dân đă quá ê chề với Cộng sản thế mà ta vẫn phải thua cuộc với Cộng ?! Tại sao ta chưa thắng ? Phải, chỉ v́ c̣n những người như tên Tỉnh Trưởng tỉnh Định Tường cùng cộng đồng của hắn ta!!
Nhưng, dù được phe ta tiếp tay, dù bản chất lưu manh tráo trở, lời chối tội của Trưởng đoàn MT cũng không gây được một tác động nhỏ nhoi nào ở bàn hội nghị v́ tội ác quá lớn, tội ác đă vượt lên trên mọi bạo ngược, lột trần tất cả bản chất hung tàn bạo động của một chủ trương xây dựng lư thuyết trên thây người và máu nóng. Thân xác của các em học sinh như một khối sáng băo bùng rọi chiếu đến mọi hóc hẻm của địa ngục dựng nên bởi người cộng sản. Không những Tuấn, Giang mà chắc cả Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng cũng phải bó tay bất động trước tội ác thảm sát kinh khủng này... Để đối lại với lời chạy tội của Tướng Tuấn, Tướng Hiệp trong gần ba mươi phút tuyên đọc một văn bản hàm xúc kiểm điểm tất cả mọi tội ác của phía Cộng sản trong tuần lễ qua, từ những việc giết người ngang ngược như bắn lên máy bay đi trao trả, đến việc giết người không duyên cớ như ở chùa Tam Sóc (Ba Xuyên), và đỉnh cao của kỹ thuật giết người là trăm thân xác của đám trẻ nhỏ trường Cai Lậy. Tướng Hiệp phủ lên bàn hội nghị một không khí u uẩn khiến đối phương dù bản chất ngoan cường cứng cỏi cũng phải lặng người chịu đựng...
Tướng Hiệp nói:
- Trước khi đi vào đề mục ngưng bắn, v́ Thiếu Tướng Tuấn đă dành một vài phút để nói lên những sự việc ngoài lề, chúng tôi nhận thấy không cần phải trả lời, nhưng v́ quí vị đă nhắc đến sự kiện máy bay Chinook của chúng tôi bị bắn hạ trên đường trao trả trở về mà hậu quả đă làm cho một nhân viên phi hành đoàn tử thương... Chúng tôi suy diễn từ tŕnh bày của quí vị theo hai chiều hướng: Chiều hướng thứ nhất là: Phải chăng quí vị đă thú nhận sự vi phạm của ḿnh nên đặt vấn đề tại bàn hội nghị để hai bên thảo luận những biện pháp ngăn ngừa những sự kiện đáng tiếc tương tự xảy ra trong tương lai. Hoặc quí vị nêu sự kiện để tố cáo ngược lại hầu t́m cách chạy tội.
- Qua kinh nghiệm đă có của gần hai năm nghị hội, chúng tôi có thể khẳng định rằng quí vị không có, hoặc nếu có cũng không có quyền để sửa sai, thú nhận v́ tầng lớp chỉ đạo của quí vị không cho phép. Thế nên, chúng tôi quan niệm rằng những lời của quí vị vừa tŕnh bày chỉ là một luận cứ chạy tội không hơn không kém, và như thế chúng tôi không hề có ảnh hưởng, tác động bởi những chối bỏ hèn hạ này. Chúng tôi trả lại tất cả mọi luận cứ hèn mạt trên lại cho phía quí vị. Muộn mất rồi, toàn dân đă biết rơ, thế giới đă biết rơ, nhân dân đang lên án, thế giới cũng đă vô cùng xúc động và nguyền rủa quí vị trong những ngày qua. Quí vị đừng bày điều lấp liếm ở đây làm ǵ cho vô ích.
- Quí vị tự dành quyền phản đối, bày tỏ thái độ dùm cho Cộng sản Bắc Việt, bày tṛ tố ngược chúng tôi trong thảm cảnh Cai Lậy. Bởi vậy, chúng tôi không lẽ bỏ qua mà không đáp lễ, dù phải đáp lễ với những kẻ hèn không dám nhận lỗi, phải đáp lễ với những đại diện của phường lang thú, uống máu trẻ thơ vô tội. Chúng tôi muốn dạy cho loài dă thú biết rằng loài người có thể uốn nắn được loài thú dữ, ít nhất là uốn nắn nó để đem đi múa rối làm hề, diễn xiếc cho thiên hạ mua vui. Trong ư hướng muốn làm theo các nhà dạy thú dữ đó, tôi sẽ từ từ đưa ra một cách từ tốn các sự việc, việc nhỏ rồi việc lớn. Thiếu Tướng đừng hung hăn: Hung hăn sẽ bị trừng phạt bằng mọi biện pháp do chính nhân dân miền Nam áp dụng. Để bắt đầu, kiểm điểm lại một vài sự kiện đặc thù của t́nh h́nh chung như sau: Đối với nhân dân miền Nam, tuần lễ vừa qua là những ngày ngập tràn máu và nước mắt. Nhưng đối với những tên Cộng sản đầu sỏ điên rồ đang ngồi tại Hà Nội hay tại mật khu miền Nam th́ trái lại đó là những ngày khoái chí hả dạ. Ai cũng đă biết, Cộng sản Bắc Việt đă dùng mọi thủ đoạn gian manh để đánh lừa thế giới tưởng rằng miền Nam Việt Nam này c̣n có một chính phủ của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng song song với chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa. Cộng sản Bắc Việt đă thậm thụt vận động ḥng dắt díu cái tổ chức gọi là MTGP này vào bàn hội nghị quốc tế về Luật Nhân Đạo tại Genève. Nhưng rút cuộc, dù Cộng sản Bắc Việt có eo sèo dọa dẫm, các quốc gia trên thế giới đă dứt khoát gạt đại diện của quí vị ra ngoài pḥng hội. Bị tổ chức nhân đạo của loài người gạt ra ngoài nên quí vị trả thù “ nhân đạo ” bằng việc bắn máy bay đi làm công tác nhân đạo, dù là làm việc nhân đạo cho chính ḿnh. Rồi cũng trong ngày này, hành động ác độc trả thù ḷng nhân đạo khác nữa cũng được quí vị thực hiện thêm một lần nữa. Đó là việc quân du kích phía quí vị nhẫn tâm tung lựu đạn vào Chùa Tam Sóc ở xă Thuận Ḥa ( Ba Xuyên ), bắn xối xả vào đám dân thiểu số người Thượng đang đi làm rẫy tại Phú bổn, ám sát một nhân sĩ tại Mỹ Ḥa (B́nh Định)... Chỉ một ngày 7-3-74 đó thôi đă có năm hành động nhằm trực tiếp vào những thường dân vô tội mà ḷng nhân đạo của loài người bảo vệ. Tại Chùa Tam Sóc ( Ba Xuyên ) cảnh tượng đă diễn ra vô cùng ghê rợn, chốn tôn nghiêm giảng truyền ḷng nhân ái đă biến thành chốn sát sinh khủng khiếp với mười một tín đồ mộ đạo bị chết không toàn thây và ba mươi tín đồ khác bị thương tích trầm trọng. Họ là những tín đồ tin tưởng vào giá trị của ḷng từ bi nhân ái và đă bị bọn người khát máu là Cộng sản phi nhân giết hại. Chưa hết, sự tàn ác phi nhân c̣n được Cộng sản Bắc Việt và quí vị đẩy cao đến tột đỉnh như sự điên loạn. Đó là việc xử dụng vũ khí tân tiến để sát hại đồng loạt các trẻ thơ, sự kiện đă xảy ra như tin tức truyền thông trong mấy ngày nay. Chẳng hạn một cơ quan thông tấn ngoại quốc, đài BBC Luân Đôn đă kể lại lúc 22 giờ 15 phút ngày 9-3-1974 như sau: “ Tại Nam Việt Nam hai mươi ba trẻ em từ năm tới mười một tuổi đă bị tử thương và khoảng bốn mươi em khác bị thương khi một đạn bích kích pháo của Cộng sản rơi vào một ngôi trường tại Cai Lậy cách Sài G̣n sáu mươi lăm cây số về hướng tây-nam. Nhưng tin cuối cùng cho hay, con số tử thương có lẽ lên tới bốn mươi, có thêm một giáo chức và một người lớn khác bị thương. Đạn bích kích pháo nổ tung trong khi các em nhỏ xếp hàng vào lớp học... Các viên chức quân đội xác nhận mảnh đạn cho thấy đó là loại đạn do Trung Cộng chế tạo và do Bắc Việt nhận để xử dụng trong hiện tại cũng như ở quá khứ ”. Bản tin chúng tôi trích đọc là tiếng nói khách quan của các hảng thông tấn ngoại quốc và chỉ là tin tức sơ khởi, nhưng tính cách trung trực khách quan cũng giúp quí vị hiểu rằng, hành động tàn ác của quân đội Cộng sản Bắc Việt xâm lược đă gây ra đang được nhân dân miền Nam và toàn thế giới đă ghi nhận để phỉ nhổ. Cộng sản Bắc Việt khác với những vụ pháo kích vi phạm ngưng bắn trước đây thường chỉ xảy ra vào đêm tối, lần này đă chọn ban ngày, đúng lúc các em học sinh trường tiểu học cộng đồng Cai Lậy đang có mặt trên sân trường để hành động. Với một sĩ số trên 4.600 học sinh, lúc 14 giớ 15 phút là thời gian đổi lớp học, các em một số đă măn giờ bắt đầu ra về, lớp khác đang chơi đùa trên sân chờ giờ vào lớp, th́ chỉ cần một quả 82 ly thôi đă có hiệu quả biến tiếng cười reo thơ dại phút chốc trở thành những tiếng rú khóc thê lương, những cái chết đột ngột. Những trẻ thơ đang ḥ reo, đùa giỡn bỗng nhiên từ từ quỵ xuống nằm sóng sượt trên vũng máu, thịt xương nát bấy không kịp nhắm mắt trước khi trút hơi thở cuối cùng, bỏ cuộc sống. Thật là một sự tính toán kỳ diệu trong nghệ thuật giết người của những kẻ đang ngồi ở Hà Nội, ở Lộc Ninh, ở Đông Hà và cũng chính là quí vị, những người đang đối diện với chúng tôi tại bàn hội nghị này. Quí vị hăy gục mặt xuống trước khung cảnh thê lương đó nếu c̣n có chút lương tri, một chút lương tri nhỏ trước tội ác không thể dung tha của những ngựi mà quí vị đang đại diện. Nhưng thôi, hăy để cho những kẻ đang say máu trẻ thơ reo vui trên đau khổ của lương dân.
- Phần quí vị, những người ngồi đây một cách yên lành, nếu có được đôi mắt, đôi tai khá tự do để thấy và nghe tất cả sự thật, hăy gác ra ngoài những tính toán bỉ ổi của thủ đoạn, chủ trương, chính sách, để hăy cùng chúng tôi nh́n đến bốn mươi ba em bé đang đi vào ḷng đất, nh́n đến hàng chục em bé khác đang quằn quại rên xiết đau thương trên giường bệnh trước sự chứng kiến đứt ruột của cha mẹ, anh chị chúng. Để chia sớt những khổ đau của gia đ́nh lâm nạn này, để thương xót cho những tâm hồn thơ dại, mới hôm nào c̣n tung tăng đùa giỡn trên sân trường hôm nay đă trở thành người thiên cổ, chúng ta hăy ngưng lại đây năm, ba giây trong yên lặng để tưởng niệm các oan hồn trong trắng đó... ( Tướng Hiệp tạm ngừng lời phát biểu để toàn thể pḥng hội tưởng niệm những oan hồn học sinh bé nhỏ đă chết do đạn pháo kích của Mặt Trận Giải Phóng... Sự im lặng chỉ mới được hai mươi lăm giây th́ Trưởng Đoàn MTGP phá ngang bằng câu hỏi: “ Chuẩn Tướng đă dứt lời chưa...? ”. Chuẩn Tướng Hiệp yêu cầu Tướng Tuấn phải tôn trọng giây phút tưởng niệm thiêng liêng, bi thảm này...)
Chuẩn Tướng Hiệp tiếp:
- Những trẻ thơ đó, hàng trăm mái đầu xanh đó là con em của chúng ta, những người Việt Nam, chúng không có tội t́nh ǵ để gánh một h́nh phạt bằng những mảnh đạn ghim vào ḿnh kết liễu sự sống ngắn ngủi!... Vậy phải chăng căn nhà ấm cúng bên cạnh ba má anh chị các em sinh sống, hay ngôi trường xinh xắn và khoáng đạt mà ngày ngày chúng lui tới học tập là những vùng “ kiểm soát ” của quí vị mà chúng lấn chiếm? Trí khôn thơ ngây, nụ cười tươi tắn của chúng phải chăng là “ phản ảnh những âm mưu thâm hiểm ” đáng cho quí vị phải tiêu diệt? Phải chăng tiếng ê a đánh vần của trẻ thơ là những tiếng nói đụng chạm đến uy danh của người cầm đầu phía Mặt Trận Giải Phóng, những bài học các em đọc lên ở trường học phải chăng quí vị cho đó là những lời nguyền rủa “ trái với tinh thần hiệp định ” mà quí vị là người đă phải ngồi vào kư kết, nên quí vị quay lại trả thù v́ cho rằng chính các em nhỏ đang đọc bài đó đă “ vi phạm tinh thần và lời văn hiệp định ”. Nhân dân miền Nam đă không quan niệm như thế. Đó là quan niệm của những người điên cuồng mất trí. Bởi không quan niệm như thế, nên nhân dân miền Nam cũng như khắp nơi trên thế giới đang lần lượt bày tỏ thái độ lên án hành động giết hại trẻ thơ vô tội này. Quí vị sẽ nghĩ thế nào nếu như bất chợt có người đưa hung tin con cái do quí vị đẻ ra chết một cách bất ngờ lúc đang đi học. Quí vị có chút xúc động nào không nếu chứng kiến cảnh hàng chục trẻ thơ nằm sóng xoài la liệt, có đứa không toàn thây, chết thảm trên vũng máu tại sân trường sau những giây phút cười đùa với bạn bè vừa dứt. Hăy hồi tâm để cho ḷng ḿnh lắng xuống, nghĩ đến t́nh trạng khổ đau của hàng trăm gia đ́nh có con em chết v́ đạn pháo kích của người quí vị tại trường tiểu học Cai Lậy. Hăy lắng nghe tiếng nguyền rủa, phỉ nhổ và oán hận của nhân dân Cai Lậy trong ngày 9-3-74 vừa qua. Hăy từ bỏ những ngôn ngữ rỗng tuếch huênh hoang về thiện chí ngưng bắn, trong khi tiếp tục bào chữa khỏa lấp tội lỗi tầy trời của những tên Cộng sản khát máu dân lành để cố t́nh đồng lơa với tội ác.
Phải nói rơ thêm một chi tiết, những lời tuyên cáo này do Cao Xuân Hiệp - Đại Úy - viết theo chỉ thị, ư kiến của Tướng Hiệp. Chúng tôi gọi hai người là Hiệp lớn và Hiệp nhỏ. Hiệp “ nhỏ ” nhỏ người, tướng gầy ốm, tất cả năng lực và sức mạnh của Hiệp toát lên trên đôi mắt đen thẩm và sáng loáng, Hiệp người dân Nghệ An quê hương vùng Hồ Chí Minh, có thân nhân là những tay kiệt liệt. Với một “ cơ sở ” gia đ́nh, quê hương như thế, ngày đi Hà Nội, Hiệp “ vờn ” cán bộ Cộng sản tại thủ đô miền Bắc dễ dàng như tṛ chơi, những huyền thoại về Hồ Chí Minh, những thêu dệt, bịa đặt chung quanh căn nhà tranh, nơi họ Hồ khai sinh được Hiệp bào láng từng chi tiết, từng sự kiện. Hiệp kể chuyện Nghệ An, chiếc nôi cách mạng Việt Nam, Hiệp tŕnh bày diễn tiến, lư do và hậu quả Sô-Viết Nghệ An 1930, Hiệp cũng nhắc lại cuộc “ Kháng chiến chống Tây ”. Hiệp đi quá đủ nên biết quá nhiều, quá thừa, giữa ḷng thủ đô miền Bắc, Hiệp với thân h́nh bé nhỏ đă có vóc dáng vĩ đại của một hiệp sĩ mang thân vào chốn hận thù để đốt lên ngọn lửa và niềm tin về tự do. Với một cơ sở vững chắc như thế, cộng với một thiện chí làm việc khốc liệt, Hiệp đă viết bản văn trên với ba mươi trang giấy lớn trong một đêm để sáng mai Tướng Hiệp đưa ra bàn hội nghị. Bản văn chấm dứt, phiên họp chấm dứt, đồng thời cũng chấm dứt tất cả huyền thoại dân tộc, dân chủ, của ngựi Cộng sản, cũng tan vỡ luôn hy vọng ḥa giải, ḥa hợp với những kẻ giết người.
Vụ pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy như giọt nước làm tràn ly, t́nh h́nh trở nên ngột ngạt, căng thẳng và bế tắc trầm trọng. Liên tiếp các phiên họp ngày 8, 12 tháng 3 bị bỏ dỡ; phiên họp ngày 15-3, Trưởng Đoàn VNCH đọc tuyên cáo bản văn trên, không thảo luận vào đề mục của chương tŕnh nghị sự là ngưng bắn. Gần cuối tháng Ba, vào ngày 22, phái đoàn MTGP tại La Celle Saint Cloud đưa ra một đề nghị sáu điểm có nội dung như sau:
1 - Chấm dứt tiếng súng, thực hiện ngưng bắn. Hai bên Bộ Tư Lệnh tối cao ở miền Nam cùng ra lời kêu gọi chung một nội dung, kêu gọi các cấp chính quyền, các đơn vị, lực lượng vơ trang cảnh sát dưới quyền triệt để tôn trọng ngưng bắn.
2 - Trao trả hết số Nhân Viên Quân sự và Dân sự gồm 200.000 của phía MTGP và của lực lượng thứ ba, 15.000 NVQS/CS bị bắt trước 28-1-73.
3 - Bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
4 - Nhanh chóng thành lập Hội Đồng Quốc Gia ḥa hợp, ḥa giải dân tộc, thừa nhận thực tế hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị, chậm nhất là ba tháng sau lời kêu gọi chung.
5 - Tiến hành tổng tuyển cử trong tự do, dân chủ, chậm nhất là một năm sau khi hội đồng thành lập, thông qua tổng tuyển cử nhân dân bầu ra quốc hội, quốc hội lập ra hiến pháp, tiến tới thành lập chính phủ miền Nam Việt Nam.
6 - Giải quyết vấn đề các lực lượng vơ trang, hai bên giảm quân số thích đáng, phục viên số quân này. Tiến tới việc thành lập một quân đội thống nhất.
Sáu điểm đề nghị này cũng như các điểm đề nghị trước chỉ là một cái bẫy giăng ra với phần chủ động phía người đề nghị. Phía đề nghị đă tŕnh bày các vấn đề theo những từ ngữ và thứ tự thực hiện theo chủ đích: Quy trách hết trách nhiệm, phần sai trái về cho đối phương. Ví dụ như đề nghị 1, phái đoàn Mặt Trận tŕnh bày đề nghị với nội dung: “ Kêu gọi các lực lượng vơ trang, cảnh sát dưới quyền...” Câu văn này nếu được thi hành th́ chỉ nhằm vào phía VNCH, v́ chỉ chúng ta mới có lực lượng cảnh sát, cũng như cố ư đặt ra ngoài kiểm soát của hai bên miền Nam ( Nếu thực hiện theo đề nghị ) hệ thống Đảng ủy rất tinh vi, hữu hiệu của phía Cộng sản. Các đề nghị sau cũng có nội dung chứa những ư tưởng tương tự, nhất là ở đề nghị 4 và 5 về việc thành lập hội đồng ḥa giải và tổng tuyển cử. Phía MTGP quy trách hoàn toàn cho VNCH về những bế tắc của t́nh h́nh hiện tại: Chỉ v́ VNCH không chấp nhận thực tế hai chính phủ, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị, cũng như hạn chế sự thực hiện các cơ cấu quan yếu ( Thành lập hội đồng, tổng tuyển cử...) để tŕ hoăn việc thực hiện hiệp định theo phương thức MTGP đề ra. Tại Ban Liên Hợp Quân Sự, đúng tác phong của những quân nhân, bằng một “ cú ” phản công dứt điểm. Đại Tá Đóa phê điểm đề nghị này thẳng thừng không thương tiếc:
- Trước khi vạch rơ tính chất man trá sáu điểm đề nghị của quí vị, chúng tôi cần nói trước rằng, những đề nghị này chỉ là một món hàng giả mạo, v́ là một món hàng giả nên quí vị cố sức bán rao, quảng cáo; rồi đến khi không được đối phương chấp nhận lại lấy đó là cớ để tấn công phê phán. Hành động này tương tự như h́nh ảnh một mụ bán hàng đi bán một món hàng giả. Mụ ta thoạt tiên đi cùng khắp để rao hàng với những lời lẽ xảo trá: “ Quí ông, quí bà hăy mua hàng tôi v́ hàng tôi tốt, hàng tôi mới, hàng tôi đáp ứng với nhu cầu của quí ông, quí bà..”. Nhưng đến khi không thấy ai chú ư đến lời rao của ḿnh ( Do đă biết tính chất gian manh trí trá củ mụ là chuyên bán hàng giả ) th́ mụ ta chột dạ, bỏ quăng gánh xuống xong, chống đ̣n gánh xuống đường lồng lộn tru tréo: “ Tại sao các ông, các bà không mua hàng tôi, hàng tôi tốt như thế này đẹp như thế kia mà các ông các bà bảo là xấu, là giả!!! ”... Phản ứng của quí vị khi bị chúng tôi vạch trần tính chất gian trá của đề nghị sáu điểm cũng lố bịch tương tự như mụ bán hàng giả kia..
Sáu điểm đề nghị này sau một vài ngày gây xôn xao đă bị tiếng súng của những trận đánh ở đông-bắc Kontum, Đức Huệ (Hậu Nghĩa), căn cứ Chí Linh (Trên quốc lộ 14 đông bắc Chơn Thành, B́nh Long)... lấn át. Thoạt tiên, dư luận khắp nơi, những dư luận tốt đẹp và hy vọng, dư luận tội nghiệp mong ước ḥa b́nh và sợ hăi chiến tranh nghĩ rằng những trận đánh trên chỉ là cơn sốt vỡ da báo hiệu cho ḥa b́nh, dù là ḥa b́nh què quặt, cuối mùa. Và h́nh như khắp cùng thế giới chẳng ai muốn có chiến tranh, không ai muốn nghe đến sự chết bởi đă cạn đáy tuyệt vọng. Cũng là thái độ bi thiết của những người khốn khổ luôn mong ước ḥa b́nh. Ḥa b́nh đến bằng máu, thây người và nước mắt. Trong t́nh trạng thê thảm của những ngày súng đạn ngang trái này, những người Việt càng không muốn vuột mất giấc mơ ḥa b́nh, giấc mơ đau đớn kết tinh bởi thống khổ vô bờ nên mọi người phải nh́n các trận đánh như dấu hiệu của ḥa b́nh. Lưỡi dao tàn nhẫn cấp thiết cắt đứt phần thân thể bị ung thư.
Nhưng tất cả vẫn chỉ là giấc mơ, tiếng súng Kontum, Đức Huệ, Chí Linh chưa dứt th́ được “ bồi dưỡng ” thêm hơi khói của Tống Lệ Chân -Tống Lệ Chân - điểm nổ cao nhất của chiến tranh “ hậu ḥa b́nh ”. Căn cứ bị vây từ mùa hè 1972 lúc An Lộc bắt đầu đỏ lửa đến nay vừa đúng hai năm. Hai năm bị vây hăm, tưởng như không có trong chiến sử hiện đại, thời đại của chiến tranh chớp nhoáng, chiến tranh kỹ thuật, chiến tranh khoa học và không gian. Một căn cứ chiều dài không quá trăm thước đứng vững trong hai năm hay hơn bảy trăm ngày bị vây khổn trong một t́nh thế cực kỳ quái dị, t́nh trạng của “ chiến tranh trong ḥa b́nh ”. Bỏ đi thời gian từ tháng 4-72 đến 28-1-73, ngày hiệp định kư kết, suốt năm 73, Tống Lệ Chân như một quả bóng thăm ḍ của Ḥa b́nh, như một nhiệt kế đo độ chiến tranh của t́nh trạng “ ḥa hợp ḥa giải ”. Tống Lệ Chân nút thoát hơi, ống thở, mạch máu chính của thành quả rất mong manh yếu ớt do hiệp định mang tới. Ngày 14-4-74 căn cứ Tống Lệ Chân bị tràn ngập... Quả bóng an toàn của hiệp định vỡ bùng, giấc mơ ḥa b́nh phai nḥa như ảo giác!!
Hội nghị không c̣n là nơi thảo luận các điều khoản của hiệp định, không c̣n là nơi hai bên nói về ḥa b́nh, ḥa giải, ḥa hợp. Chỉ c̣n lại không khí hận thù, những đối thoại căng thẳng và công phạt thù nghịch. Những phiên họp cấp trưởng phái đoàn của thời gian tháng 4-74 không c̣n việc phải thảo luận theo một chương tŕnh nghị sự nữa, mặc dù rằng trong thời gian qua hai bên cũng chỉ dùng bàn hội nghị để đả kích nhau, nhưng cũng chỉ đả kích trong khuôn khổ của đề tài thảo luận ( Với hai đề tài chủ yếu là ngưng bắn và trao trả ), để từ đây đánh rộng ra chủ trương của mỗi bên. Nhưng đến giai đoạn này ( 4-74 ), sự thỏa thuận về một chương tŕnh nghị sự cũng không thể đạt được, bàn hội nghị biến thành một đấu trường căng thẳng để hai bên tranh đấu cho lẽ tất thắng của phe phái ḿnh. Những phiên họp kéo dài quá thời lượng ấn định để cấp trưởng đoàn “so cựa” nhau tối đa, sau đây là một “trận” điển h́nh:
Đại Tá Giang, phía MTGP nói:
- Tất cả những điều đổi trắng thay đen của quí vị không thay đổi được thực chất, âm mưu leo thang chiến tranh phá hoại ḥa b́nh, phá hoại hiệp định của phía quí vị. Trắng trợn hơn nữa, Hoa Kỳ đưa thêm máy bay F-5E vào Nam Việt Nam và quí vị cố gắng b́nh thường hóa hành động nghiêm trọng này bằng cách bày tṛ đưa ra những lời giải thích, trong khi một số nhân vật Hoa Kỳ của Ṭa Bạch Ốc và “ Lầu 5 Góc ” tuyên bố láo lếu, dọa dẫm sẽ can thiệp ồ ạt ở Nam Việt Nam nếu chúng tôi dám có hành động tấn công. Mỗi lần Mỹ đẩy mạnh chiến tranh tăng cường dính líu, “ lầu 5 góc ” tuông ra những lời lẽ hăm dọa, phía quí vị lại tham gia vào bản ḥa tấu, vu cáo chúng tôi đẩy mạnh tội ác. Trước đây, Hoa Kỳ và quí vị tuyên bố: Cộng sản Bắc Việt mở rộng tấn công trước hoặc sau Tết, xây dựng phi trường, v.v... Sau đó là chiến dịch ném bom dă man vào vùng chúng tôi kiểm soát kể cả vùng đông dân! Khi sự việc không xảy ra, quí vị nói rằng: Cộng sản không dám tấn công! Và quí vị lại “ bịa đặt ” tiếp chuyện chúng tôi tấn công vào các tiền đồn đông-bắc Kontum, chuyện Cai Lậy, chuyện ấp Cây Dừa ǵ đó. Tất cả đều nằm trong âm mưu có hệ thống, không làm ai ngạc nhiên, v́ âm mưu phát động chiến ranh của quí vị là theo lệnh của Hoa Kỳ.
Đại Tá Đóa, VNCH phản pháo:
- Tôi ngỏ lời khen ngợi Đại Tá Giang đă có giọng nói tốt, có một cách diễn tả lời nói với chiếc đầu gật gù rất nhiều nghệ thuật, Đại Tá Giang đă trợn mắt khi dùng lời tấn công, tḥ đầu ra, thụt cổ vào, nghiêng người qua trái, nghiêng người qua phải một cách rất điệu nghệ. Tôi cũng khen Cộng sản Bắc Việt đă đào tạo được một cán bộ diễn xuất rất cừ khôi trong các lời phát biểu, khi tấn công, khi dọa dẫm, khi nói xấu chính phủ đối phương... Nhưng tất cả luận điệu, điệu bộ này chỉ có công hiệu nếu Đại Tá Giang đang ở một lớp huấn luyện những người bị bắt đi học tập, đặc biệt nếu đang hướng dẫn các thiếu nhi, c̣n ở đây, yêu cầu Đại Tá Giang đừng khiêu khích, v́ sẽ không đi đến đâu. Sau đây, chúng tôi trả lời từng điểm một mà Đại Tá Giang vừa nêu ra. Quí vị tố cáo chúng tôi tiếp nhận máy bay F-5E vậy th́ quí vị phải trả lời câu hỏi: Từ khi kư hiệp định đến nay, quí vị và cộng sản Bắc Việt đă đem bao nhiêu hỏa tiễn SAM, bao nhiêu đại bác hỏa tiễn, pháo 130 ly, 85 ly, vết tích ghi nhận sau lần pháo kích căn cứ Lai Khê của Việt Nam Cộng Ḥa vào miền Nam Việt Nam. Quí vị có can đảm xác nhận sự kiện và số lượng này không? Về luận cứ chạy tội bằng cách tố cáo Hoa Kỳ c̣n tiếp tục dính líu, tiếp tục cổ vơ chiến tranh... Đây là một điểm thật đặc biệt. Đặc biệt là v́ từ sau Tết, hơn một tháng rưỡi qua, hôm nay quí vị mới lập lại tố cáo “ Hoa Kỳ xâm lăng”. Một tháng rưỡi qua, quí vị hoàn toàn im lặng, đặc biệt không nhắc đến từ ngữ “ đế quốc xâm lăng ” nữa. Hơn ai hết quí vị biết rơ, Đại Tá Giang chắc cũng biết rơ: Phía quí vị “ há miệng mắc quai ”... Quí vị phải nhớ “ cái quai ” c̣n đó, “ cái quai ” sẽ siết chặt vào cổ quí vị. Đó là quai Hoàng Sa! Nếu Đại Tá Giang nhớ, th́ sau Tết, phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa đă đề nghị: “ Cả hai bên cùng ra thông cáo chống mọi đế quốc nào có tham vọng đất đai của Việt Nam và quí vị đă chạy trốn. Chạy trốn v́ sợ: Sợ cái “ quai Hoàng Sa ” siết chặt vào cổ. Thế nhưng hôm nay đảo Hoàng Sa c̣n đó, quân xâm lăng c̣n đó, những bài của báo Sự Thật, báo Nga Sô ở Mạc Tư Khoa kết tội liên tiếp Trung Cộng chiếm đảo Hoàng Sa c̣n đó, và quí vị hoàn toàn im tiếng!! Quí vị phải biết, người Mỹ muốn vào lănh thổ Việt Nam phải có chiếu khán, nhưng quân Trung Cộng th́ thập tḥ ra vô ở những vùng bắc Quảng Trị chẳng cần chiếu khán. Phải chăng sự kiện Trung Cộng xâm lăng Hoàng Sa cũng là một cách thức nhập nội không cần chiếu khán theo lời mời của Mặt Trận Giải Phóng? V́ t́nh hữu nghị Trung-Việt đẹp đẽ này, chúng tôi hiểu lời Mao Trạch Đông cảm ơn Nguyễn Hữu Thọ “ v́ cuộc chiến đấu lâu dài của Mặt Trận Giải Phóng ” là lời cám ơn đă để cho Trung Cộng có cơ hội xâm lăng miền Nam Việt Nam!! Đang ở trong thế kẹt nói cũng chết, không nói cũng chết vậy quí vị đừng nên nhắc lại từ ngữ “ đế quốc ” nếu có th́ chỉ nên nói đến đế quốc Tàu đỏ mà thôi, đế quốc hàng bao thế kỷ đă gây tang tóc cho toàn dân Việt Nam. Quí vị hăy đọc lại lịch sử để t́m xem trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, có thế kỷ nào dân tộc Việt Nam không bị tấn công bởi giặc Tàu? Quí vị tấn công thái độ chúng tôi khi cầu viện kinh tế Hoa Kỳ nhưng sự thật chính phía quí vị, kẻ cầm đầu của quí vị tức Cộng sản Bắc Việt mới là kẻ “ thèm đô-la Mỹ ” nhất! Quí vị bảo chúng tôi bị bế tắc phá sản kinh tế, nhưng nền kinh tế Cộng sản Bắc Việt mới thật sự bi thảm nhất, thấp kém nhất vùng Đông Nam Á... Tại sao thế? V́ Cộng sản Bắc Việt cần tài lực, vật lực để nuôi dưỡng bộ máy chiến tranh tại miền Nam, để lực lượng vơ trang của quí vị cũng như đám quân xâm lược Cộng sản Bắc Việt có cái ăn để tiếp tục đánh phá miền Nam... Cộng sản Bắc Việt kiệt quệ kinh tế đến nỗi phải buôn đến xác chết. Trong dịp chuyển giao 23 hài cốt lính Mỹ, Cộng sản Bắc Việt đă không quên nhắc nhở, nài nỉ Hoa Kỳ: Tôi giao xác chết cho ông, ông nhớ cho chúng tôi tiền!!
Đaị Tá Giang hứng chưởng của Đại Tá Đóa gật gù chiếc đầu t́m ư nghĩ từng chữ, từng câu, ghi ghi chép chép vào cuốn sổ tay, đợi Đại Tá Đóa nhường lời, Giang phóng tiếp cú hóa giải:
- Đại Tá nhắc lại vụ Hoàng Sa th́ chúng tôi cũng có ư kiến, cho đây là một tṛ đánh lạc hướng về nguy cơ đặc biệt nghiêm trọng: Đó là sự can thiệp của Hoa Kỳ vào t́nh h́nh miền Nam Việt Nam đe dọa Hiệp Định Ba Lê mà bốn bên đă kư kết. Quí vị làm ồn ào nhưng hăy liếc mắt qua báo chí Sài G̣n th́ thấy sự cô lập của quí vị về việc này! Nhiều nhà báo hỏi tôi: “ Các vị có biết họ làm ồn ào vụ Hoàng Sa để làm ǵ không ?” Sau khi tôi trả lời, họ đáp: “ Tưởng đâu quí vị không thấy ”. Bây giờ tôi giải thích tại sao Chủ Tịch Mao Trạch Đông cám ơn Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ? Đại Tá biết quá rơ nhưng v́ t́m đường xuyên tạc nên tôi cần phải vạch rơ: “ Toàn thế giới cám ơn nhân dân Việt Nam dưới sự lănh đạo của chúng tôi, v́ nếu không có chúng tôi hy sinh đánh bại Mỹ th́ Ông Ngô Đ́nh Diệm đă biến Nam Việt Nam thành một căn cứ hoàn chỉnh lư tưởng của đế quốc Mỹ để tấn công miền Bắc. Ông Ngô Đ́nh Diệm đă hô hào “ Lấp sông Bến Hải, Bắc tiến ” để phá hoại Hiệp Định Genève 1954, đặt toàn bộ Việt Nam dưới ách của chủ nghĩa thực dân mới của Hoa Kỳ. Nếu điều đó đă thực hiện được, điều ǵ sẽ xảy ra đối với nền ḥa b́nh Đông Nam Á? Vậy không những Trung Quốc mà cả Liên Xô cũng cám ơn chúng tôi.” Chúng tôi giải thích tiếp cho quí vị: “ Tại sao có việc Hoa Kỳ thua sút Liên Xô về vơ khí chiến lược (!) khiến cho Hoa Kỳ từ thời Johnson phải cố sức đẩy lên... V́ nếu không có chúng tôi buộc Hoa Kỳ phải chi tiêu hàng chục tỷ mỹ kim th́ làm ǵ có việc Hoa Kỳ phải đổi ngân sách từ vũ khí chiến lược sang vũ khí thông thường để tiến hành chiến tranh ở Việt Nam? Nếu Hoa Kỳ dành được ưu thế này ( vơ khí chiến lược ) điều ǵ sẽ xảy ra cho toàn thế giới? Ai lại không biết Hoa Kỳ qua bao nhiêu Tổng thống vẫn giữ chính sách căn bản là chuẩn bị thế chiến thứ 3 (!) Nếu họ đạt được ưu thế về vũ khí chiến lược, cái ǵ sẽ xảy ra đối với Liên Xô? Cái ǵ sẽ xảy ra đối với thế giới? Chúng tôi không chỉ nói tới thế giới Xă hội chủ nghĩa, chúng tôi đề cập luôn tới thế giới Tư bản và thế giới thứ ba cám ơn chúng tôi. Tại sao thế giới thứ ba cám ơn Mặt Trận Giải Phóng? V́ ngay khi Hoa Kỳ c̣n tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt ở Nam Việt Nam, họ đă tuyên bố không úp mở rằng: Họ dùng Nam Việt Nam làm thí điểm cho chiến lược chiến tranh đặc biệt của họ, mà họ cho rằng loại chiến tranh “ nửa vời ” này sẽ không dẫn tới thế chiến thứ 3 để làm kinh nghiệm dập tắt các phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Tôi không nghĩ rằng Đại Tá không biết những điều đó nhưng chỉ v́ Đại Tá cố t́nh xuyên tạc sự thật nên tôi cần phải nói đến. V́ th́ giờ không cho phép, tôi nghĩ cũng không cần phải nhắc lại lời của từng người đại diện chân chính của các nước cám ơn chúng tôi. Khi Hoa Kỳ ồ ạt đưa quân vào Nam Việt Nam, những người này đă nghĩ rằng: Không có ǵ đọ nổi ( Điều này bản thân tôi đă thấy có dịp đi thăm các nước trên thế giới ). Nhưng sau đó người ta thấy, khi cuộc chiến tranh cục bộ ở Việt Nam đă lên tới đỉnh cao ( V́ Hoa Kỳ đă huy động gần hết lực lượng tổng trừ bị ) và bị đánh bại, chính quyền Nixon phải chuyển qua chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, th́ các lực lượng bạn của Mặt Trận Giải Phóng đă nói rằng: À, té ra Hoa Kỳ không phải là lực lượng không thể bị đánh bại!... Một dân tộc người không đông, đất không rộng nhưng không phải ai muốn làm ǵ th́ làm nếu dân tộc đó có ư chí kiên tŕ đấu tranh! Kết luận có tính cách thời đại này không phải của tôi, mà của toàn thế giới. Nếu có thể tôi sẽ nêu từng danh người nói. Thậm chí đến Hoa Kỳ, một dân tộc quen thói rất bàng quang cũng thấy được rằng: Họ phải chịu ơn nhân dân Việt Nam, họ phải chịu ơn chúng tôi v́ nhờ chúng tôi họ thấy được chính phủ của họ, gọi là một chính phủ dân chủ đă che dấu họ rất xấu xa! Vậy, Chủ tịch Mao Trạch Đông cám ơn Chủ Tịch Nguyễn Hữu Thọ có ǵ là khó hiểu...
Những phiên họp căng cứng như khẩu súng đă lên đạn, không khí ngột ngạt chỉ chực vỡ tung, t́nh h́nh chiến trường càng ngày càng tàn tệ, quân đội Cộng sản ra mặt tấn công đều khắp bốn vùng chiến thuật. Những tiền đồn vùng cận sơn Quảng Nam, Quảng Ngăi, Chi Khu Dakpeck, pháo đài cực bắc của tỉnh Kontum, mục tiêu của mặt trận B3 từ mười năm qua, nơi lá cờ Vàng luôn luôn được bảo tồn để chứng minh một chính phủ, thực tế lâu dài ở miền Nam, phi trường Pleiku bị pháo kích lần thứ hai, ở vùng III những chốt cứng dọc đường 13 bắt đầu chuyển động... Sau khi bứng được căn cứ Chí Linh (đông-bắc Chơn Thành) quân Cộng sản chuẩn bị hai hướng tấn công để kẹp đầu các căn cứ: Chơn Thành, Lai Khê, Bến Cát của VNCH. Chiến trận nổ bùng như một sự kiện tất nhiên, chứng minh bế tắc toàn diện cách thức giải quyết ḥa b́nh do bản hiệp định đưa lại, một văn bản “ tào lao ” được thực hiện do áp lực, do thâm ư của các cường lực hơn là nhằm tới ư hướng chính: Thực hiện một nền ḥa b́nh thực sự cho miền Nam Việt Nam. VNCH phản công trên chiến trường đúng theo thành ngữ của Tổng Thống Thiệu... “ Phải đánh trước, phải du côn hơn thằng du côn, phải không cho cộng sản ở yên ”; đồng thời cũng đổi chiến pháp tại bàn hội nghị; không bàn căi lang thang ở những đề tài rộng răi nữa, mà chỉ thảo luận trên những đề tài cụ thể như: Khôi phục lại chức năng của UBQT. Nghĩa là hai bên cùng viết một lá thư cùng chung một nội dung mời UBQT đi điều tra vi phạm tại một địa điểm xác định.
Phái đoàn MTGP cũng xác định: Chỉ thảo luận về sự phục hồi các quyền ưu đăi miễn trừ cho họ, và chỉ khi nào VNCH thỏa thuận thực hiện đủ các quyền này th́ họ mới thảo luận vấn đề khác. Quyền ưu đăi miễn trừ đă có 11 điều được BLHQS 4 Bên thỏa thuận trên nguyên tắc để các phái đoàn cộng sản có điều kiện hoạt động trong thời gian từ 28-1-73 đến 28-3-73. Sau ngày 28-3-73 qua giai đoạn hai bên, phía VNCH nại cớ: V́ t́nh h́nh thay đổi, mười một điểm này phải sửa đổi lại cho phù hợp thực tế. Phái đoàn MT đ̣i tiếp tục duy tŕ. Đồng thời phải thêm vào những quyền rộng răi hơn tương đương như một phái đoàn ngoại giao. Trong suốt thời gian hai bên chưa thỏa thuận chính thức, VNCH tạm thời chấp thuận một số quyền ưu đăi cho phái đoàn MTGP như họp báo, liên lạc Lộc Ninh... v.v.... Sau ngày 7-3-74, máy bay Chinook bị bắn; 9-3-74 pháo kích trường tiểu học Cai Lậy và các vi phạm như tấn công căn cứ Biệt Động Quân Đức Huệ (Hậu Nghĩa), Chí Linh (Chơn Thành); 4-4-74 đông-bắc Kontum... Phái đoàn VNCH hạn chế tối đa các quyền ưu đăi này.
Hai mục tiêu thảo luận hiện đối nghịch tột độ, không thể ḥa giải đưa hội nghị đến chỗ tan vỡ toàn diện. V́ cả hai bên không thể đồng ư về một đề tài cần thảo luận huống ǵ là thỏa thuận cùng nhau về một vài đề nghị trong một đề tài. Nghị hội không c̣n đúng theo danh xưng nhưng chỉ c̣n là nơi ŕnh rập, tố khổ nhau qua chữ nghĩa và tiếng nói. Phiên họp ngày 30-4-74 đă diễn tiến theo dạng thức sau:
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Lưu ư quí vị nên thảo luận thẳng vào vấn đề, nếu không đồng ư về vấn đề mời Ủy Ban Quốc Tế như chúng tôi đưa ra trong chương tŕnh nghị sự th́ có thể đề nghị một vấn đề nào xét thấy ưu tiên để thương thảo...
Mặt Trận Giải Phóng:
- Ghi nhận lần thứ nhất, phía quí vị cắt lời...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Ghi nhận lần thứ nhất, quí vị đă chạy trốn để không thảo luận vấn đề ngưng bắn - Một vấn đề bức thiết hiện nay.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Lần thứ hai, quí vị đă cắt lời...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Lần thứ hai, quí vị không chịu thảo luận về chương tŕnh nghị sự.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Lần thứ ba, quí vị cắt lời...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Lần thứ ba, quí vị chạy trốn không thảo luận vấn đề ngưng bắn.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Yêu cầu quí vị không được lợi dụng sự b́nh tĩnh của chúng tôi để muốn phát biểu thế nào tùy ư.
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Chưa chắc! Quí vị không b́nh tĩnh đâu. Tay áo Đại Tá Giang đă xăng lên đó là triệu chứng sắp tấn công chứ không phải b́nh tĩnh...
Mặt Trận Giải Phóng:
- Lần thứ mấy quí vị cắt lời rồi?
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Lần thứ tư, nếu cần lần thứ mười, thứ một trăm, một ngàn... Chúng tôi kiên tŕ kêu gọi quí vị trở vào chương tŕnh nghị sự để thảo luận vấn đề cụ thể là ngưng bắn.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Ghi nhận quí vị cướp lời lần thứ sáu... Cần nói rơ, quí vị không được lợi dụng sự tôn trọng nghị hội của chúng tôi để muốn phát biểu thế nào cũng được. Khi đến lượt chúng tôi phát biểu quí vị lại cướp lời. Chúng tôi không cho phép làm như vậy.
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Lưu ư quí vị, đây là cảnh cáo chứ không phải cướp lời...
Mặt Trận Giải Phóng:
- Một lần nữa yêu cầu quí vị chấm dứt phá hoại bằng cướp lời và cắt lời đối phương...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Yêu cầu đưa vấn đề cụ thể nhất để thảo luận, không nên phê phán khi máu chiến sĩ hai bên đang đổ trên chiến trường v́ mức độ vi phạm đang gia tăng trầm trọng. Chúng tôi quan niệm không thảo luận thực chất của vấn đề là chạy trốn.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Quí vị đă cắt lời lần thứ mười...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Quí vị nhầm mới lần thứ tám!
Mặt Trận Giải Phóng:
- Cũng được, nghĩa là bớt đi hai lần...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Cũng có nghĩa là cảnh cáo lần thứ tám!
Mặt Trận Giải Phóng:
- Có nghĩa là quí vị làm việc cảnh cáo xong rồi?
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Tự hiểu, khỏi cần hỏi.
Mặt Trận Giải Phóng:
- Hỏi cho chắc...!
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Cứ quan sát th́ biết, cần ǵ hỏi!
Mặt Trận Giải Phóng:
- Lần thứ mười ba quí vị cắt lời, chúng tôi buộc ḷng phải tuyên bố phiên họp hôm nay không thể tiếp tục được...
Việt Nam Cộng Ḥa:
- Đó là quyền của quí vị...
Những phiên họp tan vỡ nửa chừng, cuối cùng phái đoàn MTGP công khai tuyên bố: Hoăn tất cả các phiên họp cấp trưởng đoàn cũng như tiểu ban kể từ 10-5-1974. Hai ngày sau, Phái Đoàn MTGP ở La Celle Saint Cloud tiến xa hơn một bước lớn nữa, tuyên bố: Hủy bỏ vô hạn định hội nghị cấp cao này và sẵn sàng trở về Việt Nam...
Ngày 20-5-1974 mặt trận Bến Cát - B́nh Dương nổ lớn, từ vùng Hố Ḅ, Bời Lời, quân Cộng sản ào vào An Điền vượt sông Thị Tính chiếm Bến Cát, cô lập Lai Khê xuôi theo đường 13 đánh xuống B́nh Dương... Về phía đông, mặt trận Phú giáo ( ranh B́nh Dương, B́nh Long ) cũng phát nổ, hai mũi dùi tây-bắc, đông-bắc đều nhắm xuống B́nh Dương, Biên Ḥa, để từ đây tiến vào Gia Định, tức thủ đô Sài G̣n... Suốt mười năm chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, chiến xa Cộng sản đă đến gần Sài G̣n nhất, cách ba mươi cây số đường chim bay. Ba mươi cây số, bước chót của hành tŕnh giải phóng miền Nam, mũi súng phe Cộng sản đă sẵn sàng bắn những quả đạn cuối mùa, viên đạn xé ngang trời ḥa b́nh bi thiết của dân tộc... Ḥa B́nh, xem như là một giấc mơ. Tưởng như là một giấc mơ.
Cuối cùng, có một trường học trẻ con ở Vĩnh Long, gọi là Song Phú bị Cộng sản pháo kích chết mười bảy và bảy mươi trẻ nhỏ bị thương vào ngày 4-5-74. Không ai có can đảm để đọc rơ tin tức về vụ thảm sát. Tôi chấm dứt bút kư này, không c̣n đủ sức để viết thêm một chữ.
Tháng 5-1974

17. Nhật kư trong chiến tranh Của Ḥa B́nh....

Ngày 27 tháng 1 năm 1973 trên thế giới, ngày kư kết Hiệp Định tái lập Ḥa B́nh tại Việt Nam. Những người dân văn minh, những người mang áo quần đẹp trong những căn nhà sang trọng, nơi đường phố ở những thủ đô thị tân tiến cùng nhau hân hoan nâng rượu, tung giấy ngũ sắc, hoa giấy lên bầu trời trong xanh vàng rực ánh nắng hay trắng mênh mông mưa tuyết để chào mừng Ḥa B́nh Việt Nam, nơi xa họ nửa ṿng thế giới, cách biệt bởi Thái B́nh Dương, hai giải đại lục Âu - Á ngút ngàn. Nơi bây giờ là đêm tối dằng dặc với những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời và dưới trần thế, trên đất đen, có những bước chân th́ thầm độc địa, những mũi súng lạnh và âm vang của tiếng nổ trái phá vừa dứt. Nơi xa xôi, trong đáy cốc rực rỡ của Paris, Rome, Washington, NewYork người ta hân hoan trao cho nhau những nồng nhiệt của ḥa b́nh, siết chặt tay nhau với nụ cười rạng rỡ của văn minh, thế giới tiến bộ nhân loại. Ḥa B́nh, báo hiệu sự thắng lớn của ánh sáng xua tan bóng tối, ḥa giải chiến tranh, của ư hướng xây dựng trên phá vỡ tiêu hủy. Ở Việt Nam, đêm 27 rạng 28-1-1972 có những tiếng động tức tưởi hơi thở bị dứt khúc, tiếng thét kinh hoàng của kẻ sắp chết bị một lưỡi dao sáng loáng ngập xuống thân thể nồng ấm sức sống!!
B́nh minh ngày 28-1-93, cũng như mọi sáng sớm khác của đất nước cùng khổ điêu linh này, người Việt Nam bóp chặt hai bàn tay vào nhau xôn xao xúc động tự hỏi: Phải chăng là buổi sáng ḥa b́nh? Ở Sàig̣n, các toán Nhân Dân Tự Vệ đi đập cửa từng nhà hối thúc treo cờ, radio đầy ứ âm thanh loại nhạc giữa hai tuyên ngôn như những ngày biến động 1965, 1966... Không một ai của miền Nam xác định được có một hiện trạng ḥa b́nh trong buổi sáng cảm giác có một họng súng đang nhắm vào.
Mặt trận Cửa Việt, Đông Hà bùng nổ, phe Cộng sản đóng chốt trên quốc lộ 1 bắc quận Trảng Bàng, bắc Xuân Lộc (Long Khánh), đường 15 nối dài Sài G̣n - Phước Tuy - Vũng Tàu bị đứt bởi hai chốt nhỏ ở bắc, nam Long Thành. Trên đoạn đường dài dọc theo duyên hải từ đèo B́nh Đê đến đèo Nhông - đèo Cả, nổ bùng những tận đánh cấp đại đội, tiểu đoàn giữa đám quân Cộng sản từ mật khu ào lên quốc lộ với đám lính Cộng ḥa giữ an ninh đoạn đường. Trong vùng cận sơn Quảng Trị, Thừa Thiên vùng động Ông Đô, núi Tang Téo, núi Trường Phước, đám binh sĩ Bắc quân từ từ nhô ḿnh lên khỏi chốt ngoắt tay đám lính Nhảy dù, sư đoàn 1 bộ binh... Họ đă đối đầu cùng nhau qua ba trăm ngày chiến trận kể từ ngày 29-4-1972. Hai giờ chiều, một bóng dáng mặc quần áo kaki Nam Định, đội nón ông sao, chân đi giầy vải rời khỏi hầm bước qua sáu mươi thước đất núi đến bắt tay thiếu úy Thắng thuộc đại đội 94 Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù. Ly nước trà nóng, thuốc Ruby quân tiếp vụ đổi lại cùng Điện Biên.
- Ừ, Chúng ḿnh ḥa giải, ḥa hợp dân tộc theo tinh thần và lời văn của hiệp định...- Ha.., ha.. “ông” đi qua một ḿnh không sợ à? - Tụi tui không đánh “ông” đâu, ḿnh bồ mà!!... Nửa giờ sau có mười hai người lính mặc áo rằn ri đi qua chốt “bạn” thăm giao hữu. Một giờ qua, họ không trở về. Không có tiếng súng, chỉ có âm động của lưỡi lê đi qua da thịt. Giờ thứ tám của Ḥa B́nh Việt Nam. Không có một ai trong chúng ta xác định được ḥa b́nh đă có. Vâng, ḥa b́nh chỉ tới với một văn kiện, trên bàn giấy yên lành ở thủ đô Ba Lê. Ḥa B́nh chỉ có trong đáy cốc.
Tội nghiệp như cô bé lọ lem đột nhiên gặp được bà tiên hạnh phúc, toàn khối dân miền Nam ngửa bàn tay bất hạnh để nh́n hạt ngọc ḥa b́nh, kết tinh nỗi mơ ước thiên thu của một dân tộc khốn khó. Không ai tin được vào phép lạ hoang đường này, không ai tin được giấc mơ có thật với ánh sáng của ngày, giữa ḷng đau đớn trùng điệp. Người dân miền Nam nh́n ánh ngọc lấp lánh, bậm môi đến nức máu để tự thức tỉnh, để tự nhủ: Đây chỉ là ảo giác, ảo ảnh, đây chỉ là giấc mơ... Nhưng nếu không có những giấc mơ hạnh phúc, không tin vào giấc mơ th́ c̣n ǵ. Chúng ta chỉ có những giấc mơ mang tính chất hy vọng.
Tôi đi giữa những con đường b́nh yên Sài G̣n trong buổi sáng dịu dàng của ngày ḥa b́nh, ḷng vang dội những chấn động xao xuyến bồn chồn...
Những phiên họp đầu tiên của Ban Liên Hợp Quân Sự 4 Bên được thành h́nh trong những căn pḥng ŕ rầm tiếng máy lạnh, các bên trao đổi với nhau những đối thoại mềm dẻo, ḥa hoăn và... ít nội dung nhất. Tham dự vào cuộc đấu tranh cùng đối phương với tất cả say mê và thành thật trong ḷng, nhưng dù với tâm t́nh trong sáng của số tuổi trẻ vị tha đôn hậu, cuối cùng tôi cũng phải nhận ra: Ngoài những nụ cười thật rộng, những bắt tay sẵn sàng, những câu nói ḥa hợp và ḥa giải... Người Cộng sản không có được điều ǵ hơn nữa. Họ không thể có điều ǵ hơn nữa để cho Ḥa B́nh. Dù người đó là Trung Tá Tuấn Anh (Bắc Việt), nữ Thiếu tá Ngọc Dung (MTGP), những người có nụ cười thẳng thắn và hiền ḥa, những người bộc lộ sự chân thành trong mọi động tác, mọi lời nói (Dù là lời nói theo chỉ thị, bởi những chỉ thị...) Và họ chỉ có thế. Chỉ là những con người đôn hậu thụ động của một chủ trương cứng rắn! Nên dù rất thành thật, ân cần, khi qua sông Thạch Hăn, đến phi trường Lộc Ninh để cùng người Cộng sản làm việc, giải quyết sự kiện đau đớn nhất của chiến tranh, sự kiện người tù. Tôi cũng phải luôn luôn tự nhủ: Phải coi chừng, phải đề pḥng, phải sửa soạn tấn công, phải quan tâm pḥng ngự!! Trong không khí váng vất nhẹ nhàng của rừng cao su Lộc Ninh, tay nâng ly trà nóng ḷng phải trang bị một vũ khí để sẵn sàng nhả đạn. Người Cộng sản đă tập cho tôi quen với nghi kỵ và lừa dối. Ḥa B́nh đă dạy cho tôi biết rằng đây chỉ là bộ mặt khác của chiến tranh - Mặt sau của Ḥa B́nh.
Tập rất mau công việc phải làm và quen rất nhanh với môi tường chung sống để một phía rất thành thật, kính nể cùng đối phương v́ đó là những người lớn tuổi, khắc khổ và đă chịu nhiều khổ nạn. Một mặt khác tôi sẵn sàng tấn công không thương tiếc, hạ đ̣n độc địa không nương tay v́ đây cũng là những đối phương cực kỳ hiểm độc. Ví dụ như trên chiếc máy bay đến Pleiku, tôi châm lửa thật ân cần, nhắc nhở chu đáo với Thiếu Tá Sĩ rằng:
- Trời Pleiku rất lạnh, ông ta nên mặc áo len vào v́ tuổi già, sức yếu.
Tôi nói rất thành thật v́ nh́n thấy những sợi tóc bạc trắng rơi ḷa x̣a xuống một vầng trán nhăn nheo. Nhưng khi đến địa điểm trao trả Đức Nghiệp th́ không c̣n những cử chỉ và lời nói “ḥa hợp” tốt đẹp đó nữa, để hét vang giữa núi rừng, tay chỉ vào lá cờ ông sao, gằn từng tiếng:
- Ở địa điểm Thạch Hăn không có lá cờ này, ở Lộc Ninh, Minh Thạnh, Quảng Ngăi; cũng không có nó trong pḥng làm việc của những nhân viên thuộc Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương... Vậy tại sao ở đây có, phải chăng quí vị nằm ngoài cái hệ thống “chính phủ” của quí vị, phải chăng quí vị ở đây là quân đội ngoại nhập, là quân xâm lăng... Nếu quí vị duy tŕ lá cờ này th́ ngay tại pḥng làm việc của Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương ở Sài G̣n chúng tôi sẽ dựng lá cờ Việt Nam Cộng Ḥa... Quí vị bảo chúng tôi xâm phạm “không phận Đức Nghiệp” phải chăng quí vị nói giỡn, ai chứng nhận Đức Nghiệp này là của quí vị?!! Quí vị đă nói những điều vô lư mà người có một chút kiến thức quân sự và pháp lư tối thiểu không thể nào nghe vào được. Quí vị bảo chúng tôi vi phạm không phận địa điểm trao trả này, địa điểm trao trả được xác định bởi một tọa độ sáu số, tức là một điểm vô h́nh trên thực tế, từ điểm này có một đường thẳng tưởng tượng chạy thẳng góc với mặt đất lên khí quyển vào ngoại tầng không gian. Đó là không phận của địa điểm trao trả này chăng? Phải chăng quí vị kiểm soát không phận quái đản và vô lư đó? Và khi nói chúng tôi cho phi cơ đi qua “điểm không phận” của quí vị, th́ quí vị lấy ǵ làm bằng cớ. hay quí vị nghe tiếng phi cơ bay qua địa điểm trao trả (Theo như lời của trưởng đoàn quí vị nói tại bàn hội nghị Sài G̣n)... Lạ thật, Hiệp Định Ba Lê có qui định cả “vi phạm” phát sinh bởi tiếng động nữa sao?!!
Tôi “vờn” đám sĩ quan tóc bạc của Cộng sản, toàn là dân trên dưới năm mươi tuổi, mặt xanh màu lá và tóc trắng v́ ngă nước không xót thương. Hai thái độ có thể xen kẽ, lồng vào nhau nhịp nhàng khắng khít. Trong ḷng ḥa b́nh cùng ngựi Cộng sản, tôi chỉ học được những thủ đoạn độc địa không ngần ngại đó.
Những phiên họp bốn bên, những phiên họp hai bên, hàng chục lần trao trả, mười một địa điểm từ Thạch Hăn đến Cà Mau, từ anh “ chiến sĩ ” mặt nặng như ch́ gác cổng ở Lộc Ninh đến anh Trung tá Chỉ Huy Trưởng vùng Gio Linh, Trung tá mang kính lăo và tóc bạc trắng nói dối ngon lành: “ Tôi người quê ở Gio Linh “sơ tán” vào núi để chống Mỹ cứu nước nay trở về tiếp quản Quảng Trị ”. Trung tá nói tiếng Nam Định, Thái B́nh không trật một âm. Tiên sư, vậy mà cũng là cán bộ cấp tá của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa!! Cái tṛ dối trá thô thiển đă được hệ thống hóa bởi Cục Chính Trị, cấp Đảng ủy phổ biến, học tập và kiểm soát từ tên lính mười sáu tuổi mặt búng ra nước cháo đến gă Trung tá sắp sửa đóng cửa quan tài đều ào ào một lời: Quảng Trị sơ tán!! Tṛ dối trá hạ đẳng này chắc đă được những bộ óc cỡ “ thiên tài ” Vơ Nguyên Giáp, Lê Duẫn, Đồng nghiên cứu và chỉ đạo... Thế mà sao Cộng Sản thắng thế hở trời?!! Tôi “ ḥa hợp, ḥa giải ” với những người như thế, nghe Hoàng Anh Tuấn ngậm ngùi nhắc lại:
- Các cháu học sinh ở Cai Lậy bị thảm sát, chúng tôi sẽ điều tra rộng răi để t́m ra ai là thủ phạm. Để tháng sau chứng kiến vụ Song Phú, vụ Biên Ḥa..!! Và ông giáo sư đại học Nguyễn Văn Trung đặt vấn đề nghiêm túc: “Vấn đề có thể nh́n một cách đích thực như sau: Người Việt theo cộng sản và ngựi Việt không theo cộng sản... Nghĩa là về căn bản chỉ khác nhau về ư thức quốc gia...” . Ông nhà văn Sơn Nam khẳng định trong một cuộc phỏng vấn: “ Tôi nghĩ rằng hai miền Nam, Bắc có thể ḥa hợp với nhau bởi con đường văn hóa...” Ông chính khách Hồ Ngọc Nhuận: “ Ḥa giải là con đường cuối cùng của dân tộc...”. Đồng ư, tôi hoàn toàn đồng ư với các ông khoa bảng, tên tuổi trên với quá tŕnh tranh đấu, chính trị, văn hóa này. Nhưng nh́n quanh trong suốt một năm, khi nghe Hoàng Anh Tuấn, Vơ Đông Giang ở bàn hội nghị, nghe Trung tá Phụng ở Gio Linh, Thiếu Tá Giang ở bắc Thạch Hăn, Trung tá Năm Tích ở Lộc Ninh, Thiếu tá Dũng ở Rạch Giá. Tôi cam kết một điểm:
- Không thể ḥa giải với mấy cán bộ này, tôi cũng không thể ḥa giải với hai gă lính gác ở thuyền bắc Thạch Hăn v́ khi tôi hỏi: “ Anh học ở Hà Nội hay ở đâu? ”. Th́ nó đă sững cồ nói vung bọt mép: “ Tôi không phải là người Hà Nội, anh đừng xuyên tạc hiệp định, phá hoại tinh thần ḥa giải ḥa hợp dân tộc, tôi là người Quảng Trị sơ tán ”... Lại sơ tán, tôi chửi ra tiếng: “ Tiên sư mày 17, 18 tuổi Bắc Kỳ trăm phần trăm th́ Quảng Trị cái quái ǵ được!!! ”. Vậy ḥa giải ḥa hợp với ai? Ḥa giải, ḥa hợp là ḥa với một người nào đó, một lớp người nào đó. Đặt vấn đề cụ thể như ông Cha ở nhà thờ Tân Định hôm mở đầu cho buổi thuyết tŕnh về Canh Tân và Ḥa Giải: “ Ta phải cúi xuống cùng kẻ thù để chuyển yêu thương đến cùng kẻ thù... Hăy có can đảm yêu kẻ thù như yêu chúng ta vậy!!! ”. Amen, Chúa có phán như thế v́ Chúa hy vọng T́nh Thương Chúa sẽ được hóa giải được kẻ thù, chứ nếu Chúa biết chắc kẻ thù đó đang thủ sẵn lưỡi dao để đợi lúc Chúa cúi xuống th́ chắc phải có tinh thần và thái độ khác. Tôi không chống Cộng quá độ, tôi cũng không chống Cộng để được trả lương và hưu bổng; vị thế người lính chỉ là một phương tiện giúp biết rơ người Cộng sản, tôi cũng sắp giă từ vị thế này để trở thành một cá nhân hoàn toàn tự do không bị ép buộc bất cứ từ một hướng nào, nên câu hỏi luôn đặt ra là: Ḥa giải là cần thiết, nhưng ḥa giải với ai và như thế nào? Nếu đối tượng để ta ḥa cùng là lực lượng đối nghịch, luôn luôn sẵn sàng tiêu hủy ta th́ làm sao ḥa được? Ông thầy Chùa hôm buổi thảo luận tại nhà thờ Tân Định có ví von: “ Ḥa là ḥa nước với nước, chứ không ḥa với dầu? ”. Ông thầy tu này nói chưa đủ, phải nói lại rằng: “ Làm sao ḥa máu cùng a-xít được!!”
Phiên họp hôm 15 tháng 3-74 cấp trưởng đoàn sau khi Tướng Hiệp đọc tuyên bố tố cáo lực lượng vũ trang Cộng sản pháo kích vào trựng Tiểu Học Cai Lậy, Tướng Tuấn (MTGP) phản đối lời buộc tội với một luận điệu yếu ớt; tôi ngồi nghe, tán thêm cùng những người ngồi chung quanh: “ Thằng cha này phản pháo yếu v́ chưa biết được các yếu tố chạy tội, hơn nữa tai nạn quá lớn cũng làm nó phát hoảng... Thằng du kích nào dưới Cai Lậy chắc chuyến này bị “khiền” nặng...”. Quả t́nh chúng tôi đă “ chạy tội ” cho người cộng sản rất nhiều qua ư kiến trên. Chúng tôi nghĩ, cuộc thảm sát chỉ là do rủi ro v́ quả đạn cốt nhắm vào Chi Khu Cai Lậy, nơi đặt bộ chỉ huy hành quân tại khu vực này; cũng có thể kỹ thuật tác xạ quá kém, nên du kích vùng đó đă “lỡ” bắn vào trường Cai Lậy. Nghĩ như thế cũng là để giải thích cho tội ác quá phi lư, quá man dại của người cộng sản. Làm sao có thể bắn vào trẻ em, sự nghiệp giải phóng nào xây dựng trên thân xác trẻ thơ, những con người chưa có ư niệm về chữ nghĩa, về hận thù?!! Chúng tôi không tin tội ác phi lư quá độ này do từ một chủ trương hoạch định và hoàn tất bởi những sinh vật gọi là người. Nhưng quả t́nh chúng tôi đă lầm, lầm rất lớn v́ người Cộng sản lại dựng thêm “ chiến tích ” ở Song Phú vào ngày 10-4-74 và Biên Ḥa ngày 3-6-74... Đến đây th́ không c̣n ǵ để che dấu được nữa. Người Cộng sản quả thật có một chủ trương giết người. Tôi khẳng định chắc quyết như vậy. Họ giết trẻ con, giết thựng dân v́ đây là trẻ con “ ngụy ”; họ giết người v́ muốn dựng vinh quang trên nỗi sợ hăi, dựng thành quả trên xác người và máu nóng. Cách mạng phải có kích thích tố thù hận. Cách mạng vô sản Việt Nam đă có những men gây máu kia. Thực dân Pháp, Phát-xít Nhật, địa chủ, cường hào, ác bá, thực dân phong kiến, Mỹ - Diệm, Thiệu-Kỳ, Mỹ và chính sách thực dân mới. Nay, năm 1974, quả t́nh tất cả chất men trên đă không c̣n, đă hết, người Cộng sản phải có kích thích tố mới, phải có hận thù mới, xác người mới. Vậy phải tạo nên những đối tượng chém giết khác như “ Ngụy quân, ngụy quyền, bè lũ ngoan cố, phản động không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định ”. Đó chính là chúng ta, là đứa trẻ ở Cai Lậy, là người dân Tam Hiệp, Biên Ḥa... Vậy thưa các ông cấp tiến, ông khuynh tả, các ông đối lập, các ông vô t́nh đang cổ vơ cho lũ giết người, cho tṛ giết ngựi, các ông đă khuyến khích tội ác qua những danh từ được cố t́nh sơn phết thành linh động, đẹp đẽ và ḥa b́nh. Ḥa B́nh, đây lại là một danh từ lạm phát, người Cộng sản đă có vũ điệu Ḥa B́nh, đoàn quân giết ngựi là đoàn quân Ḥa B́nh. Hiệp Định chia đôi đất nước là Hiệp Định Ḥa B́nh và bây giờ là những ngày tháng 73, 74 họ lại xử dụng danh từ phá sản đó trong một cường độ to lớn và tích cực hơn để thực hiện “ Ḥa hợp, ḥa giải theo tinh thần và lời văn của Hiệp Định Ba Lê...”. Quái dị thật, những chữ nghĩa thô thiển như kia vẫn c̣n hiệu lực để che đậy những tội ác ngập đầu?! Tối 21 tháng 5-1935 trước khi xua 300.000 quân vào Rhéanie, Hitler đọc một diễn văn để làm yên ḷng Anh, Pháp, trấn an Hội Quốc Liên với câu kết luận là: “ Nước Đức cần Ḥa B́nh và mong mỏi Ḥa B́nh...”. Đẩy quân đi như một tia chớp, chiếm được xong mục tiêu Hitler trở lại với “ Ḥa B́nh ”; mỗi lần đọc diễn văn xong có chuông giáo đường khua ầm ĩ, cùng câu kết: “ Ḥa B́nh đầy t́nh thương của Chúa... Amen ” hoặc: “ Xin Chúa hăy ban tự do để khiến tạo Ḥa B́nh cho nước Đức, cho Âu Châu...”
Hai chữ ḥa b́nh được xử dụng như bảng hiệu của một cuộc tấn công, thành quả của một lần tàn sát. Kỳ lạ thật, giữa những chữ nghĩa và hành động đă có những tan vỡ, chống đối và hủy diệt nhau trận cùng như thế, nhưng sao vẫn có rất nhiều người, rất đông người ở trên những vùng đất văn minh, trong ḷng những xă hội văn minh tin vào chữ nghĩa quái dị kinh khiếp này. Cả Âu Châu đều tin cậy vào câu nói: “ Tôi dâng hiến ḥa b́nh, tôi không phát động chiến tranh chống Pháp và Anh Quốc ” của Hitler sau khi tràn qua Ba Lan bắt tay với Nga ( Lại một lực lượng ḥa b́nh, nữa!!...) tại Brest Litovsk. Cũng tương tự như đối với Hitler; rập một khuôn mẫu của Staline, cả thế giới hôm nay lại a ṭng kẻ giết người nên đă hân hoan hănh diện trao giải Nobel Ḥa B́nh cho Lê Đức Thọ. Và đau đớn hơn hết thảy, mỉa mai hơn hết thảy là cùng ngày 3-6-74, ngày của hai trăm trái hỏa tiển rơi vào Biên Ḥa “ giải phóng ” cho trẻ em và những người vô tội bằng phương thức dă man ghê rợn tàn tệ nhất mà con người với giác quan, tâm lư của một sinh vật có lương tri không thể nào nh́n đến, không thể nào chịu đựng được. Cùng ngày thê thảm khốn nạn này, chính phủ Nga Sô nhân danh “ Ḥa B́nh ” trao cho Nguyễn Thị B́nh Huân Chương Lenine Ḥa B́nh!!! Lại Ḥa B́nh, phải chăng tiếng nói của con người hôm nay đă biến đổi, đă tan vỡ tính chất, phải chăng đây là thời đại của lừa đảo, ngược ngạo, để con người thường nhân danh những tỉnh từ, danh từ cao quư để thực hiện những tội ác đê hèn khốn nạn. Ḥa B́nh, người Cộng sản đă xử dụng như một dấu hiệu của sự chết.
Hai năm, tưởng chừng như qua một đoạn đường địa ngục dài, tôi tự hỏi: Tại sao chúng ta vẫn không có một ngày b́nh yên để sống, một ngày không có tiếng súng, một ngày không mưu toan, một ngày không nằm trong hệ thống thời gian của một chủ trương, một sách lược, bạo lực. Một ngày b́nh yên cho quê hưong nhiệm mầu, xứng đáng cho dân tộc vĩ đại, một gịng giống da vàng căng cứng trên khổ nạn. Tôi cũng tự hỏi: Tại sao sau một cuộc chiến triền miên với giá máu hằng trăm ngàn người lính ngă gục, những người lính đă chiến đấu cho một mục đích cao quí: Chiến đấu cho Tự Do - Nhưng chưa bao giờ được xiển dương thành hệ thống để cảm phục như anh hùng, kẻ tử đạo, kẻ vị quốc vong thân. Mà trái lại ngựi lính và khối gia đ́nh của họ trong những ngày của ḥa b́nh lại là những kẻ bị đánh vỡ trước tiên, bị bóc trần từng sớ thịt, bị cạn dần từng giọt máu. Trung tá K, Chiến Đoàn Trưởng Dù ngày nào mười năm trước, nay hàng ngày lột lon, cất nón, đạp chiếc xe trong đựng vắt cơm đến nơi làm việc. Trung Tá H, sếp cũ của tôi nay chỉ c̣n lại một h́nh ảnh tồi tàn của một ông già thèm từng điếu thuốc lá đen. Và c̣n ǵ nữa...
C̣n quá nhiều, nhiều như đống xương vô định của những người lính đă chết, như lớp máu đỏ của hàng trăm ngàn người đă chảy xuống mạch đất miền Nam. Cảnh quả phụ cùng bốn con tự vẫn tại mồ chồng, người lính vừa chết cho ḥa b́nh tại Nghĩa Trang Quân Đội. C̣n người mẹ thuốc chết hai con trước khi tự sát v́ lương lính từ trần không đủ tiền đong gạo. Quá nhiều, đám vợ con lính ở trại tỵ nạn dẫn nhau đi trên đám đất cháy nắng vùng Quảng Ngăi để t́m củ xương rồng. Những ngựi lính này chết cho ai? Phải chăng họ chết để nuôi dưỡng một thiểu số khốn nạn như tỉnh trưởng Định Tường, tỉnh trưởng Long An, những kẻ chuyển trăm triệu hàng lậu, những kẻ dấu trăm triệu phân bón, kẻ kư quota gỗ vài trăm triệu... Tại sao? Câu hỏi muốn bật máu trong tim, muốn nổ tung con người, muốn vỡ tan từng tế bào... Tại sao? Tại sao? Thượng Đế không giải thích, Phật Tổ không giải quyết và Chúa cũng buông xuôi.
Cuối cùng, chiến tranh vẫn c̣n nguyên như đời sống lầm than; chiến tranh như cơn mộng dài không hết của đêm đen muôn đời; chiến tranh là cảnh sống thường trực,là thực thể miên man, là thực tại không rời. Đất nước ta với chiến tranh là một trạng thái băo ḥa liên kết không tách rời được. Tôi lại đi đưa những người quen đến nghĩa địa... Nh́n chiếc quan tài phủ Quốc kỳ của Đại Tá Nguyễn Thế Nhă, tiểu đoàn trưởng cũ của tôi, người từng có hai mươi năm chiến trường khốc liệt nhất, cuối cùng chết v́ một trái đạn pháo kích trên căn cứ La Sơn, Huế. Anh linh người chết tức tưởi không thể giải thích được nỗi đa đoan của hậu quả do một thứ ḥa b́nh dậy non mang lại, người chết chắc không thể an ḷng khi biết ḿnh chết trong ḥa b́nh, do hoà b́nh, sau quảng đời dài đă kinh qua DMZ, Mậu Thân ở Huế, Tây Ninh, Hạ Lào... Người chết với mối hận khó nguôi ngoai. Tôi tin chắc như thế. Cuối cùng, ḥa b́nh cái bóng dáng mơ ước lừa bịp đê tiện và tiếng gọi của lũ giết người dùng như một dấu hiệu truyền thông trước một cuộc tàn sát nhân danh nó.
Chiến trận lại xẩy ra ở An Điền, bên kia sông Thị Tính, lại cảnh người chạy loạn gồng gánh mang vác tất tả trên quốc lộ 13, lại cảnh đứa bé bốn, năm tuổi co quắp v́ cơn đau mảnh đạn ghim đầy, lại cảnh bà già đưa đôi mắt lạc thần nh́n lượng nắng cuối cùng đang lịm dần ngoài cửa đời sống... Tôi không thể đọc hết mẫu tin chiến sự, tôi không có can đảm nh́n đoạn phim thời sự về đám ngựi chạy loạn, tôi kinh sợ đến độ phiền muộn. Tôi ê chề đến cuối đáy điêu linh. An Điền, sông Thị Tính của mười năm trước, tháng 12-64 tôi là gă thiếu úy trẻ tuổi cổ quấn khăn đỏ, ḿnh mặc áo saut ngụy trang hào hùng dẫn quân đi đầu tiểu đoàn kể từ khi vượt qua chiếc cầu xi măng cũ kỹ để tiến sâu vào đám rừng chồi xanh ngắt. Mười năm, đêm ở khu đồn điền ông Thịnh, quả lựu đạn lóe sáng, bóng tên Việt Cộng loáng thoáng trong ánh lửa, chiếc trực thăng tải thương lập ḷe ngọn đèn đỏ và hàng lửa đạn súng cối pháo kích đứt đoạn. Mười năm, cái bối cảnh khốn nạn đó vẫn c̣n, vẫn tồn tại, c̣n và phát triển đến cực độ, phát triển đến tối đa khủng khiếp. Ngày xưa, chỉ cần Tiểu đoàn Dù của tôi cùng Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến đủ sức “xấn” từ cầu Thị Tính vào An Điền lên đồn điền Alimot, Bussy, ṿng qua trái đến đồn điền ông Thịnh để từ đây ra quốc lộ 13. Vũ khí lúc ấy là carbine M2, cối 81, nay quân phải cấp sư đoàn, mỗi hướng tấn công là một trung đoàn có một thiết đoàn yểm trợ và giàn đại pháo dập nát không gian. Lúc xưa đám du kích ở vùng đồn điền pháo bằng súng cối, đột kích bằng lựu đạn, nay bóng dáng nhỏ bé “ khiêm nhựng ” đó đă không c̣n, để chỉ thấy nườm nượp đậm hơn rừng xanh từng trung đoàn chính quy Bắc Việt đưọc “ tùng thiết ” với hàng T54 bề thế. Mười năm, một cái xă nhỏ bé tội nghiệp ở quận Bến Cát cũng như hàng trăm ngàn thôn xóm khác của quê hương chỉ được mỗi vinh hạnh - Làm chiến trường tận lực cho hai bên - Nỗi vinh hạnh hiển thảm sầu như oan nghiệp không giải.
Chiến tranh, chiến nạn, chiến binh, nạn nhân chiến cuộc, chiến trường, chiến địa, chiến tích, chiến cụ... Sao ngôn ngữ nước ta quá nhiều từ ngữ để gọi lên binh đao mà chỉ có vỏn vẹn một chữ Ḥa B́nh, một chữ đơn độc mỏng manh thụ động giữa rừng gươm giáo ngút ngàn. Khốn khổ hơn nữa, Ḥa B́nh cũng đă bị ngụy danh bị đánh vỡ, bị khuynh đảo và biến dạng toàn thể yếu tính. Ḥa B́nh, phải chăng không c̣n nữa cho con người. Không c̣n nữa cho chúng ta. Sắp đến ngày kư Thông Cáo Chung 13-6-1973 - ngày Quốc Hận 20-7-54.

18. Trên Chiến Địa - Trong Sài G̣n

Những buổi chiều từ Lộc Ninh trở về, tôi bay qua đồi Gió, qua đồi 69, những ngọn đồi ở đông-nam An Lộc. Cũng những buổi chiều tháng 5 và tháng 6 như thế nầy của hai năm tước, 1972, nơi đây những người bạn tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 3 pháo binh, Lữ đoàn I Nhảy Dù đào vội chiếc hố, khoét xâu rănh giao thông hào dưới cơn mưa đại pháo của Bắc quân. Cũng những buỗi chiều muộn khi ngày sắp hết, ánh mặt trời hồng đỏ đă bị mờ dần bởi hơi sương lam bốc lên từ dăy rừng cao su ngút ngàn xanh ngắt. Nơi đây, trên dăy cao độ chập chùng trống trải này những Phạm Tường Tuấn, Phạm Kim Bằng, Lộc “ĺ”, Vinh “con” của Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù bậm môi đến bật máu, nhô chiếc nón sắt lên khỏi giao thông hào chờ đợi bóng đen của những T54 đang lố nhố, ŕ rầm dưới chân đồi sắp sửa tấn công. Hôm nay, trên chiến địa điêu tàn đó chỉ c̣n vương văi vài chiếc nón sắt, túi đeo lưng và những mảnh xương trắng xám rơi rớt trên lớp đất đỏ màu máu. Dăy đồi nằm lặng dưới bóng chiều trông oan khiên như nấm mồ vĩ đại. Tôi bay qua chiến trường của hai năm trước, bay qua bầu Đồng Cỏ thấy xác chiếc Chinook bị rớt ngày 4-6-72; bay qua Chơn Thành thấy lại chiếc trực thăng chở Chuẩn Tướng Đức bị cháy nát chỉ c̣n trơ chong chóng nằm sát bờ lộ. Những phi công trực thăng nghĩ ǵ khi từ trên không nh́n xuống những thân tàu cháy xám, đống tro tàn của bộ máy, họ có tưởng đến những chiến hữu đă vỡ tan cùng cát bụi, những phi công lâm nạn của mùa chiến trận 72 trên đường bay dọc con lộ tử thần nầy. Đi qua chiến địa quá khứ không phải chỉ bùi ngùi v́ chứng kiến dấu tích của binh lửa tang thương, nhưng để biết rằng chiến tranh chưa hề chấm dứt, ḥa b́nh chưa bao giờ có thực, chỉ có chiến trận đổi vùng, chiến trường ngụy trang dấu mặt. Bay qua đồi Gió, suối Tầu Ô, Tân Khai, Chơn Thành, qua các chốt của bộ đội, qua các căn cứ hỏa lực của ta, qua thôn xóm vây bủa bởi giao thông hào c̣n mùi đất mới để biết rơ một cách đau đớn và chua xót rằng, chiến trận không bao giờ ngừng nghỉ trên quê hương tàn khốc này. Không có một giây phút b́nh yên nào trên xứ sở tên gọi Việt Nam.
Tháng 5, tháng 6-74 đi qua, Phái đoàn Mặt Trận bỏ họp vô hạn định, chiến trận bùng nổ không che dấu, phi trường Nha Trang, Đà Nẵng, lần đầu tiên sau ngày Hiệp Định bị pháo kích. Phe Cộng sản vứt bỏ chiếc mặt nạ “ḥa b́nh” không ngần ngại. Đă đến lúc họ không c̣n cần dấu mặt sau cái vỏ ḥa b́nh; họ cần phải chạy đua với thời gian, chạy đua với sự sáp vô ngày càng khít khao giữa Nga, Hoa quanh cái trục “Đế Quốc Mỹ”. Cộng sản Bắc Việt phải tự cưú trước khi bị hai cái gọng ḱm này nghiền nát. Tháng 6 đi qua để bước vào tháng 7 với ngày 20-7, ngày Cộng sản xem như thắng lợi vinh quang, ngày rực rỡ sau chiến công Điện Biên, ngày đuổi hẳn thực dân Pháp thanh toán 100 năm nô lệ. Nhưng ngày 20 tháng 7 cũng là ngày di cư, ngày uất hận ngàn đời không nguôi ngoai, ngày chia ly tan tác của khối dân miền Bắc đi về Nam để được sống tự do - 20-7-1954 - đến nay đă hai mươi năm, khoảng thời gian ngút ngàn tưởng chừng như giấc mơ, cuộc ra đi ngày nào nghĩ rằng sẽ trở lại trong thời hạn tối thiểu, ai ngờ trở thành một dứt khoát quyết liệt, một chọn lựa nghiêm trọng đành đoạn giữa tự do và ḱm kẹp, giữa đời sống thênh thang và lạnh lùng trong một hệ thống kiểm soát ngặt nghèo. Hai mươi năm qua như ngọn lửa lớn đăi lọc tinh tuyền sự chọn lựa ban đầu đó, chẳng ai trong khối người ra đi phải hối hận v́ tất cả đă chọn đúng. Tôi biết chắc như vậy. Nhưng tháng 7-74 trên báo chí đối lập khuynh tả, trong những cuộc hội thảo của lực lượng đối lập tiến bộ yêu nuớc, của đám trí thức Sài G̣n nhan nhản xuất hiện một loại luận cứ: “Chỉ v́ Hiệp Định Genève 1954 không được thi hành nên mới xảy ra chiến tranh trong hai mươi năm qua và v́ “mâu thuẫn” vẫn c̣n nên Hiệp Định Ba Lê 28-1-73 không được thực hiện, Ḥa B́nh cho Việt Nam v́ thế chưa có. Cuối cùng, chỉ c̣n con đường ḥa giải và ḥa hợp dân tộc, con đựng độc nhất để hoàn thành ḥa b́nh...”. Loại luận cứ này được coi như đỉnh chót của ư thức tiến bộ của đám trí thức đối lập ở miền Nam. Song, tôi muốn hỏi những người này những câu hỏi cụ thể: Tại sao không dừng lại xác định: V́ Hiệp Định Ba Lê không được thi hành (Như đă dùng với Hiệp Định Genève) mà chỉ lấy cớ miền Nam c̣n “mâu thuẫn”? Mâu thuẫn ǵ? Ai mâu thuẫn với ai? Tại sao các anh không dám nói thẳng: Cũng chính bởi v́ Hiệp Định Ba Lê không được thi hành nên ḥa b́nh chưa có và chính phe Cộng sản là phe phá hoại nhiều nhất thâm độc nhất, có hệ thống nhất. Hai mươi năm chiến tranh, hai năm “ḥa b́nh” khốn nạn chưa làm cho đám người này thấy đủ, biết được một sự thật. Sự thật rất đơn giản. Làm thế nào ḥa giải được người Cộng sản. Người Cộng sản mang quốc tịch Việt Nam!!!
Trận cầu quốc tế giữa hai đội Đông - Tây Đức, phe cộng sản, phe không cộng sản, gặp nhau, bắt tay nhau, tranh tài trong tinh thần ḥa hợp, thân ái của môi trường thể thao. Nhưng làm sao có đưọc cái cảnh này cùng Cộng sản Việt Nam? V́ anh ta sẽ gọi cầu thủ của ta là “cầu thủ Ngụy”, của phe tư bản rẩy chết, tay sai của chính sách thực dân mới Hoa Kỳ. Phe Cộng sản sẽ không bao giờ thỏa thuận để cho ḥa giải, gặp gỡ những cầu thủ “ giải phóng dân tộc, của cách mạng vô sản, của giai cấp công nông ” với đám cầu thủ của “ Ngụy quyền ”, cầu thủ áp bức nhân dân, cầu thủ ác ôn Mỹ Ngụy. Tôi không nói quá nhưng chỉ xác định lại sự thật qua những kinh nghiệm quá năo nề cùng ngựi Cộng sản Việt Nam.
Đến đây, những ḍng cuối cùng của tập bút kư, tự nhiên trong ḷng bỗng rực sáng một niềm tin thanh thản. Quả t́nh tôi đă có một thái độ quyết liệt thật đúng đắn với người Cộng sản. Tôi xác định thái độ này chính thức, công khai mà không hề e sợ những dè bĩu, chụp mũ: Muốn được thưởng công bởi chính quyền. C̣n lâu, chính quyền, chính phủ chỉ là những lực lượng nhất thời, tôi không chống Cộng để cho một cơ cấu chính trị, một cơ quan quyền lực. Tôi chống Cộng v́ ghê sợ cái hướng đi hà khắc ḱm kẹp vô nhân tính của chế độ đó. Giản dị và chính xác như thế. Ngày 20-7, đọc lại một bài viết ngắn của anh Doăn Quốc Sỹ nói về ngày uất hận thiên thu này, anh Sỹ nhắc lại trong “Một vài kư ức h́nh nổi của giai đọan 20-7-54 - 20-7-72 (Báo Đời số 140): H́nh ảnh đồng bào khắp nơi vượt mọi gian lao để tới Hải Pḥng được phổ biến sâu rộng tại bất cứ nơi đâu c̣n gọi là đất Quốc gia, những h́nh ảnh đặt biệt sỉ nhục một cách thậm tệ cho ông Hồ đăng tải trên các tạp chí lớn ở Âu Châu: Đó là h́nh ảnh hàng ngàn người xuất hiện trên băi bể Bùi Chu, h́nh ảnh họ kéo lê chiếc bè lao nhào vào lớp sóng bạc đầu, h́nh ảnh họ chen chúc trên chiếc bè mỏng manh, đàn bà đứng bế con, ống chân ngâm dưới nước quên mỏi, phần trên rét run, đàn ông khom lưng cố chèo ra khơi cho kịp những chuyến tàu đương thân ái đợi họ để rồi xă hết tốc lực ra khơi xa hơn nữa để chuyển họ sang những tàu vận tải lớn hơn...”.
Và h́nh ảnh bi thiết, rực rỡ nhất của cuộc di cư thần thánh đă tụ lại trên điểm cao hoạt cảnh dưới đây:
- Xe lửa từ Hà Nội xuống đến Hải Dưong ngừng lại ở ga Phú Thái, nơi đó cán bộ Cộng sản khám dân chúng, tha hồ dân chúng văng tục, chửi rũa, đám cán bộ vẫn cười tươi ngọt ngào như không. Có bà gần như khỏa thân từ trong pḥng khám bước ra, có bà c̣n ra ngồi xuống tiểu tiện rồi mới đứng dậy, bận quần áo đầy đủ, có bà xoay đủ một ṿng, nghều nghện hai bầu vú nuôi con rồi mới bận áo... Ôi! Những người đàn bà Việt Nam cực kỳ thông minh và biết trọng nhân phẩm đó! Tất nhiên đám cán bộ Cộng sản nam nữ vẫn luôn luôn giữ nụ cười nhă nhặn b́nh tĩnh. Trên cái nền khỏa thân của các bà, nụ cười đó quả đă bị bóc trần đến chất lơi máy móc vô nhân của nó. Hàng bao tấn giấy tờ của người trí thức Quốc gia viết để chống đối Cộng sản không nặng bằng một đồng cân so với cái cử chỉ vừa khôi hài vừa thâm trầm chua chát của h́nh ảnh cố ư kéo dài cuộc khỏa thân của các bà...”.
Anh Sỹ đă cất cho tôi được gánh nặng ngàn cân v́ gần hai năm nay đi đâu tôi cũng thấy người Cộng sản... cười. Những nụ cười tươi, rộng, rất vồn vă, rất nồng nghiệt, tràn ứ đầy khắp trên các báo Quân Đội Nhân Dân, Quân Đội Giải Phóng, trên tạp chí “ Đường Đến Vinh Quang của Nam Việt Nam...”. Đâu đâu cũng thấy người Cộng sản cười, Vơ Nguyên Giáp cười, Lê Duẫn cười, Phạm Văn Đồng cười, Song Hào cười, Văn Tiến Dũng cười, Phạm Văn Bạch cười, Nguyễn Hữu Thọ cười, chiến sĩ “ tên lửa ” cười, đội làm cầu cười, người nữ chiến sĩ miền Nam cười, những “ Người Con Tây Nguyên ” cười... Tất cả đều mở rộng miệng đến tối đa kích thước, hàm răng tràn ra khỏi những ghè môi nhăn nhúm, choáng chật cả khuôn mặt bị căng cứng, bị gấp nếp v́ nụ cười quá khổ... Rồi tôi lại phải “ tiếp thu ” thêm những nụ cười trên thực tế của Thiếu tá Trần Tín ở Hà Nội, của Thượng tá Năm Tích ở Lộc Ninh, của Nguyễn An Giang ở bắc sông Thạch Hăn... Những nụ cười như trong báo chí đó được lập lại đúng cỡ, đúng điệu, tràn ngập khắp nơi khi người Cộng sản tiếp xúc cùng người lạ. Một lần, hai lần,... Lần thứ một trăm, lần thứ một ngàn, nụ cười tràn ứ đó gây nên một cảm giác kỳ lạ trong tôi. Cảm giác nửa nhờm tởm, nửa bị đe dọa. Nụ cười vỡ như lửa lóe ra khi trái lựu đạn nổ, nụ cười ghê ghê, vô nhân, vô nghĩa như con vượn, con dă nhân khi được kích thích, v́ được luyện tập. Tôi không nói quá lời, tôi không “ hạ ” đối phương nhưng quả t́nh nụ cười đó suốt hai năm gây cho tôi câu hỏi: Có phải chăng người Cộng sản có một “ chủ trương cười ”? Người Cộng sản đă cười theo chỉ thị, theo công tác, theo tiêu chuẩn? Nếu không th́ tại sao, đâu đâu, ai ai cũng có một cách cười, một vẻ cười chung giống nhau như thế? Sông Hào, Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, những cá tính khác biệt, những con ngựi khác nhau về khả năng,tính chất, môi trường trong một bức h́nh ở khóa hội thảo đều cùng có chung một nụ cười hả hê, thống khoái rạng rỡ. Cho đây những nụ cười thật v́ các ông ấy là tướng, là cán bộ cao cấp được điểm Bác và Đảng... Nhưng rồi, sao đám nhân công nhà máy dệt, đội làm cầu, cán bộ mậu dịch... Những người gầy c̣m, mắt trắng, những kẻ tóc bạc mệt nhọc dầy như cỏ rối, trên nét nhăn, những người nầy có ǵ để phải cười giống như Giáp, như Đồng?!!! Vậy chỉ có thể hiểu, và chắc chắn như thế: Người Cộng sản đă được huấn luyện, kiểm soát và thi đua cười theo một tiêu chuẩn nào đó về nụ cười. Họ phải tập cười theo một mô thức được hoạch định bởi Đảng và nhà Nước. Vậy, trước nụ cười đó c̣n ǵ xứng đáng và sít sao hơn là những thân thể tinh khôi, cao quí phẩm hạnh của con người trần truồng toàn diện. Phải, chỉ có cái thân thể nồng nhiệt tự do, thân thể ấm áp sức sống nhân bản của con người cao quư mới gọi là ngọn triều lớn cuốn bay đi lớp nụ cười vô nhân khô héo của người Cộng sản... Hiểu như thế. Và phải hiểu như thế.
Tôi nhớ buổi chiều ngày 18-2-1973 tại bờ bắc sông Thạch Hăn, giữa bóng tối mờ mịt, khi tự xé chiếc áo phơi lồng ngực trần để chỉ cho đám sĩ quan quốc tế cùng đám cán bộ Cộng sản biết so sánh thế nào là “ sự thật ” về người tù Cộng sản bị “ tra tấn ” tại trại giam ở Phú Quốc. Với sự thật của chính thân thể tôi. Nhưng tôi đă làm chưa đủ, thật ra tôi phải làm như những người đàn bà cao quư nọ.
Trong những tháng 8, 9, 10 năm 1974 tại Sài G̣n có phong trào chống tham nhũng tố đích danh Tổng Thống Thiệu bằng cáo trạng sáu điểm; phong trào đ̣i Tự Do, Dân Chủ, đ̣i hỏi hủy bỏ sắc luật 16-69 và 007, những sắc luật ḱm kẹp báo chí một cách chặt chẽ hà khắc. Cuộc tranh đấu lên đến cao điểm: Đ̣i hỏi chính phủ Thiệu phải thực thị Hiệp Định Ba Lê, thành lập Hội Đồng Ḥa Giải gồm có ba thành phần và chấm dứt ngay tiếng súng để cùng ngựi Cộng sản ḥa hợp và ḥa giải trong tinh thần dân tộc.... Phong trào tập trung được toàn thể những linh mục Công giáo cấp tiến cánh tả như Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần, Chân Tín... Những người của nhóm Đối Diện trước đây. Phía Phật giáo cũng nhập cuộc trên một địa bàn khác với sự đồng ư của giáo hội Ấn Quang tích cực yểm trợ cho Lực Lượng Ḥa Giải, Chủ tịch là Vũ Văn Mẫu.
Bỏ đi sự có mặt của những người như các dân biểu đối lập ngụy danh, những chính khách cấp tiến tiền chế, những lănh tụ tôn giáo tả khuynh có điều kiện, những đào kép cũ của những tuồng tích héo úa, trong đó do thúc đẩy quyền lợi, với khí thế ma đầu, những hào hùng cải lương... Những ḍng viết sau đây tôi chỉ muốn nói đến cuộc nhập trận tích cực của các vị linh mục. Trong tập thể linh mục nhập cuộc cùng những phe khối của họ có thể chia ra làm hai thành phần rơ rệt. Thứ nhất, là nhóm linh mục cấp tiến khuynh tả như Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Trương Bá Cần cùng những ngựi viết Đối Diện, Tŕnh Bày như Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Lư Chánh Trung... Và thành phần thứ hai gồm những linh mục trước đây đă có một quá tŕnh chống cộng như Nguyễn Viết Khai, ông Cha rửa lễ cho Tổng Thống Diệm, người lập trường “Ngô Đ́nh Khôi” tại Phan Thiết, thủ lănh chống Cộng của Khu Tư sau 1945, Đặc Sứ lưu động của Tổng Thống Diệm liên lạc các trại định cư của những người Nghệ Tĩnh B́nh, cũng là tiền đồn chống Cộng của giai đoạn 54... Và Cha Thanh cũng là lư thuyết gia của Phong Trào Nhân Vị ở Vĩnh Long trước đây, một linh mục thuộc Ḍng Chúa Cứu Thế nổi tiếng về hùng biện và tinh thần chống Cộng sản của người dân gốc Quảng Trị.
Mục đích của phong trào thoạt tiên rất chính đáng, v́ đó cũng là cơ hội cuối cùng để miền Nam kiện toàn lực lượng đối lập trong thế tranh đấu đối với Cộng sản lẫn phe Quốc gia, h́nh thành một lực lượng ḥa giải trong giai đoạn sắp tới khi Hiệp Định Ba Lê được thi hành theo từng chi tiết nhỏ. Thái độ và tinh thần chung của Cha Trần Hữu Thanh, chủ tịch phong trào là thái độ tích cực đấu tranh với tinh thần cấp tiến, thiết tha đến tương lai của miền Nam, một tương lai rất gần phải chung sống cùng người Cộng sản. Phải nh́n nhận rằng Cha Thanh đă dựng lên một phong trào rất đứng đắn và cấp thiết, miền Nam sở dĩ tồi tệ quá mức như hiện nay với nạn lạm phút đứng nh́ của thế giới (sau Chí Lợi) chính là do tác dụng phá hoại tích cực của tham nhũng. Tham nhũng không chỉ có trong một vài động tác đầu cơ, hối lộ của giới chức chỉ huy hành chánh cao cấp, nhưng tham nhũng là một đặc thù của sinh hoạt miền Nam, tham nhũng bao trùm lên tất cả mọi dịch vụ giữa nhà cầm quyền và dân chúng, giữa những cán bộ hành chánh, quân sự với đám thừa hành, giữa giới chức lănh đạo và toàn thể mọi đối tượng tiếp xúc. Thật là bỉ ổi và ghê tởm khi bên cạnh cảnh đe dọa của cuộc chiến (chưa hề dứt) với đám dân chúng lầm than tan tác, có những sự kiện tham nhũng bỉ ổi tàn nhẫn như vụ buôn lậu có xe c̣i hụ dẫn đầu bị bắt ở Long An, những dịch vụ buôn gạo, xăng cho Cộng sản được điều động bởi những tỉnh trưởng, sư đoàn trưởng với giao kèo, chia chác đến lạnh người. Khi một chức trưởng ty cảnh sát quận 5 ở Chợ Lớn được”mua” với giá trên một trăm triệu th́ “tính tham nhũng” của chế độ đó đă đi đến mức siêu đẳng tồi tệ. Cha Thanh đă dựng lên một phong trào sinh tử v́ không thể nào sống với người Cộng sản ( sẽ nói rơ lại tính chất của những người nầy sau ) khi c̣n tập đoàn lănh đạo ung thối khiếp đảm như thế, cộng thêm cơ cấu dân cử gồm đa số dân biểu tay ngang, khí phách và khả năng tại nghị trường chỉ là thái độ quỵ lụy khiếp sợ người cầm quyền hành pháp. Phong trào đă lên thật mạnh và đáp ứng được nỗi mơ ước đau đớn của toàn khối dân chúng đang lăn xuống cuối dốc đói khổ.
Nhưng phong trào đă không phải chỉ ngừng ở phạm vi chống tham nhũng thuần túy như danh xưng, cũng trái ngược luôn với lời của linh mục Thanh nói ở Xóm Mới hôm 6 tháng 10... “ Chúng tôi không đ̣i lật đổ Tổng Thống Thiệu, ông Thiệu muốn ngồi thêm năm, mười năm nữa cũng được, nhưng cần nhất là ông Thiệu phải quyết liệt bỏ tham nhũng v́ ba, bốn tháng nữa là Việt Cộng vào đây ở với chúng ta, mà với t́nh trạng tham nhũng thối nát thế này th́ chúng ta “lúa rồi”... Lời nói của Cha Thanh, hướng đi của phong trào, mục tiêu của phong trào lần lần có những xa cách, nếu không nói là trái ngược nhau. Mà sau hơn một tháng bùng nổ, phong trào đă đi đến điểm cao “ vận động trưng cầu dân ư về việc bất tín nhiệm Thổng Thống Thiệu hay không...”. Mục tiêu chót đă không dấu diếm. Để chuẩn bị thế ḥa giải sống chung với người Cộng sản. Tôi dừng lại ở đây để trở lại vấn đề ban đầu: Có thể ḥa giải hay không cùng người Cộng sản Việt Nam.
Phải, không thể nghi ngờ thiện chí và ḷng tha thiết muốn hướng dẫn dân chúng vào một phong trào sinh tử để chuẩn bị thế nhân dân tranh đấu với đối phương, một kẻ quỷ quyệt tinh vi, vô cùng thâm độc trong việc khuynh đảo, gây hỗn loạn, cướp chính quyền. Nhưng hướng tấn công chính của phong trào ( Tổng Thống Thiệu ) cùng mục tiêu tối hậu ( Ḥa giải cùng người Cộng sản ) đă gây trong tôi những công phá mạnh mẽ bởi mối phát hiện nghi ngờ: Phong trào hay nhóm linh mục lănh đạo hay cụ thể hơn là cha Thanh chỉ là những lực lượng dọn đường để sống chung cùng người Cộng sản. Tiến tŕnh được điều động bởi một áp lực tinh vi ghê gớm. Sức công phá gây đến nỗi năo nề khi theo dơi các cuộc biểu t́nh ( to lớn và quan trọng nhất ), như cuộc biểu t́nh ngày 10-10-74 tại Sài G̣n. Nh́n thấy tận mắt một lớp đào kép cũ diễn tṛ vui trên đau đớn và hy vọng cuối cùng của nhân dân. Phong trào phải chăng đă xử dụng nhân dân như là một con ngựa chiến để đi đến đấu trường. Cảm giác năo nề cũng không phải v́ thấy phong trào chuẩn bị cho “ thế đứng chung với người Cộng sản ”. Người lănh đạo quần chúng hơn ai hết có trách nhiệm hướng dẫn, báo động, chuẩn bị cho nhân dân những t́nh huống mới; huống ǵ những t́nh huống khắt khe bắt buộc sẽ phải xẩy đến. Nhưng là cảm giác gây nên bởi tinh thần gọi là cấp tiến “ Có thể sống chung được cùng người Cộng sản ” của những người đă có kinh nghiệm máu với cộng sản. Tôi khai triển tiếp vấn đề này.
Trong cuộc viếng thăm Á Châu của Đức Giáo Hoàng Paul VI; lần viếng thăm Á Châu đầu tiên của một vị Giáo Hoàng Hội Thánh Công Giáo La Mă. Hội Thánh có một quá tŕnh chống cộng tích cực, hữu hiệu nhất. Đức Thánh Cha đă không ghé thăm Đài Loan và Việt Nam nơi có tập thể giáo dân đông đảo với một hoàn cảnh bi thiết, nơi đất nưóc bị tàn phá khốc liệt bởi chiến tranh. Một xung đột hệ quả từ những tư tưởng chính trị đối nghịch Tây phương, trong đó Giáo Hội La Mă mặc nhiên có ảnh hưởng lớn. Ngài không vào hai nơi này để chứng tỏ tinh thần mới của Giáo Hội, khai phóng từ đời cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, sau Công Đồng Vaticano II, Công Đồng mở màn cho kỷ nguyên tiến bộ canh tân và ḥa giải. Người Cộng sản là một trong những đối tượng lớn của cuộc ḥa giải vĩ đại này. V́ “ chỉ sau hơn năm mươi năm, chế độ Cộng sản đă chi phối và tác động lên trên 1500 triệu của toàn cầu, trong khi đó Giáo Hội Công Giáo sau gần 2000 năm truyền đạo cũng chỉ mới có 613 triệu tín đồ” ( Báo Đối Diện ). Thế nên vấn đề ḥa giải với người Cộng sản không chỉ trong phạm vi Thần học, Triết học mà c̣n là một hướng chính trị chiến lược lớn của Giáo Hội. Dưới ảnh hưởng bởi ư hướng mới nầy nhóm linh mục trẻ cấp tiến, xuất phát từ các đại học Âu Tây muốn đẩy mạnh cường độ hiện thực hơn với môi trựng “ chiến tranh Việt Nam ”; trong đó kẻ thù gớm ghiếc nhất không phải là Cộng sản mà là Thực Dân, Đế quốc Mỹ cùng chính quyền tay sai, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa, một lực lượng phản động, một ngụy quyền làm cục đá chận đường, vật ngăn cản không để những người cấp tiến khuynh tả có cơ hội “ đối diện, ḥa giải ” cùng người anh em Cộng sản trong tinh thần dân tộc!! Thái độ này không lạ, đó là ư hướng được khai triển từ lâu với J.P. Sartre, Bertrand Russell những người “ lậm ” nặng bởi mặc cảm trí thức bất lực, bất lực để tham dự cùng đời sống, bất lực để giải thích đời sống. Mặc cảm nhỏ bé, có tội trước Cộng Sản, vô dụng đối với Tư Bản. Những sản phẩm chính cống của hệ thống triết học Tây Phương. Mà họ chính là những người mang vác cồng kềnh mệt mỏi trên vai cùng với tất cả nỗi vô ích canh cánh đè nặng tinh thần. Thế nên, tôi không nói nhiều đến nhóm linh mục trên trong bài viết này v́ hiểu rằng đây là thái độ độc nhất của họ. Họ không thể thỏa hiệp được với khối siêu quyền lực đă chi phối, nuôi dưỡng và xây dựng lên họ, v́ kiến thức, mặc cảm và vị thế cao quư đầy đặc quyền mà họ thụ hưởng được cũng là hệ quả của một xă hội tư bản thoái hoá. Trở lại với nhóm linh mục hữu khuynh, những ngựi có số tuổi trên dưới năm mươi, có những kinh nghiệm cụ thể sống chết với người Cộng sản. Bỗng nhiên trong một sớm một chiều. Họ xoay một ṿng lớn và: “ Xét về vấn đề Tổ Quốc th́ chúng ta phải thực tâm mà thú nhận rằng phía Bắc Việt họ đă chiến đấu v́ Tổ Quốc mà chúng ta chiến đấu v́ đô-la, v́ địa vị...”. Linh mục Khai - Đối Diện 21- nên tóm lại:
-Thứ nhất: Đừng quá sợ sệt, trốn chạy và thù ghét Cộng sản như lâu nay.
-Thứ hai: Người Công giáo phải là một chiến sĩ Ḥa B́nh, nhưng luôn “ đề cao cảnh giác...”
- Thứ ba: Phải biết đối thoại ( với người Cộng sản ) trên căn bản tự do, công lư, chân lư.
- Thứ tư: Phải xây dựng một Đức Tin sáng suốt để có đủ điều kiện sống chung với Cộng sản ( nếu cần ) và thu phục được họ.
- Thứ năm: Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối Giáo Hội để có thể “ không c̣n cần thắng cộng sản bằng B52 của Mỹ...”
Những điều của linh mục Khai viết trong tháng 2-71 bây giờ đang được phong trào quảng diễn lại ở Xóm Mới, Chí Ḥa, Hốc Môn và hiện thực hơn bằng cách yêu cầu Tổng Thống Thiệu từ chức để phong trào đẩy mạnh thế nhân dân vào cuộc chiến đấu tranh với người Cộng sản trong tinh thần ḥa giải ḥa hợp dân tộc. Những điều của cha Khai nói gây trong ḷng tôi nhiều xao động và nẩy sinh ra nhiều câu hỏi. Hỏi để trước tiên giải thích cho hành động của chính ḿnh và sau đến t́m hiểu công việc, tinh thần của ngựi khác. Những vấn đề cụ thể với những câu hỏi như sau đây:
- Chúng ta có thể ḥa giải cùng người Cộng sản Việt Nam không? Tôi trả lời dứt khoát: Không được. Để giải thích khẳng định nầy, tôi lần lượt đi qua từng yếu tố. Trước tiên, chúng tôi những người trẻ, trên dưới ba mươi tuổi không hề có một mặc cảm, một năo trạng ( chữ của cha Khai ) nặng nề đối với người Cộng sản: Nghĩa là chúng tôi không có thiên kiến sợ, chạy trốn, thù hận, đánh đuổi, tiêu diệt đến cùng người Cộng sản. Cộng sản đối với chúng tôi trên lư thuyết là một hệ thống tư tưỏng có tính “ thực dụng ” để giải thích và điều động xă hội theo ư niệm công bằng và hợp lư. Chúng tôi không “ hữu thần ” quá độ đến nỗi sợ hăi Cộng sản khống chế tiêu hủy Thượng Đế hay tôn giáo của ḿnh. Chúng tôi không đến đỗi “ nỗi loạn, vô chính phủ ” nên sợ hăi chống đối với một cơ cấu quyền lực chính trị tổ chức chặt chẽ với những định chế khắc khe. Trên phương diện tư tưởng chúng tôi có quan niệm Cộng sản trước hay sau cũng chỉ là hệ thống tư tưởng với khuynh hướng tiến bộ xă hội có thể áp dụng cho một vài nơi, một vài hoàn cảnh xă hội nào đó để h́nh thành một t́nh trạng b́nh đẳng tương đối, chỉ là những tương đối so với những bất công trầm trọng của chế độ chính trị trước đó..” Riêng tại quê hương Việt Nam, nơi đă có một tinh thần tổng hợp tuyệt vời Nho - Phật - Lăo thấm sâu vào mạch sống dân tộc, tạo nên một sức mạnh dẻo dai, bền bĩ đối kháng với mọi công phá, từ ngoài như ngoại xâm, từ trong như tầng lớp lănh đạo suy đồi, để luôn tồn tại vững chắc thầm lặng. Thực dân Pháp đến và cũng đi sau 100 năm, thực dân mới kiểu Mỹ đến và cũng ra đi và chắc chắn cũng sẽ bị tiêu vong ảnh hưởng. Tóm lại chúng tôi không bị ảnh hưỏng bởi một thần quyền hay một thế quyền nên chống lại người Cộng sản. Trên b́nh diện tư tưởng, chúng tôi chỉ v́ không chịu được tư tưởng độc tôn yêu nước và độc tôn cách mạng xă hội của người Cộng sản. Với cơ cấu làng, xă của dân tộc Việt, với tinh thần tổng hợp Tam Giáo, với cốt tủy “ Nhân chủ và Dân chủ ” của người Việt, chúng tôi không thể chấp nhận chiếc mũ Cộng sản độc tôn phát sinh từ trời Tây. Cũng chỉ là một sản phẩm của Âu Tây tư bản.
Chúng tôi cũng không chống Cộng v́ “ khủng Cộng ” ( chữ của Cha Khai ), v́ sợ hăi, tê liệt trươc người Cộng sản. Mười năm chiến tranh (63-73) nặng nhất của hai ư hệ, chúng tôi là tầng lớp gánh chịu đau đớn nhất và cụ thể nhất. Chúng tôi cũng không như Cha Khai, Cha Quỳnh, Cha Nguyễn Lạc Hóa phải nhờ Tây giết Cộng ( Lẽ tất nhên chúng tôi xài súng của Mỹ cũng như người Cộng sản dùng súng AK ) mà đă chiến đấu bằng chính đời sống ḿnh, c̣ng lưng xuống mang một chiếc ba-lô, tay cắp súng, tay cầm thêm thùng đạn bấm đôi chân trên rừng núi bạt ngàn của miền Nam để đánh Cộng sản. Trong mười năm dài và chắc sẽ c̣n tiếp tục nếu Cộng sản nhất định đi bước chót của “ Di chúc Hồ Chủ Tịch...”
Cũng thật là xấu hổ và vô liêm sỉ khi bảo rằng chúng tôi chiến đấu v́ quyền lợi. Quyền lợi nào ở đồng lương chỉ sống đủ nửa tháng, dăm bộ quần áo lính chỉ để mặc đủ trong chuỗi ngày dài của thời gian mười năm chiến trận. Chúng tôi cũng chưa hề được đăi ngộ ( tinh thần và vật chất ) như ngang với đám chiến sĩ, cán bộ của đối phương, huống ǵ bảo rằng chúng tôi có những “ quyền lợi ” để có thể trở thành đối tượng của phong trào chống tham nhũng. Đành rằng trong nhà binh ( và cũng là một môi trường chính ) tham nhũng hoành hành và tác hại gớm ghiếc. Nhưng thiểu số thụ hưởng đó quá nhỏ bé so với tập thể bao la những người chỉ mơ ước được một giấc ngủ ngắn và bữa cơm không pha mùi thuốc súng cùng máu nóng... Và quả t́nh thật đốn mạt và hèn hạ khi gọi chúng tôi là: “ Những kẻ hiếu chiến trong cuộc chiến tranh này. Những tên diều hâu thực thụ. Thứ nhiên liệu tinh hảo và rẻ mạt ném vào ḷ đúc kim cương. Những kẻ đánh thuê, và khi đă là lính đánh thuê bao giờ cũng được trả một giá cao v́ ư thức rơ bản chất của điều họ muốn và điều họ làm...” - Nguyễn Tử Lộc báo Đối Diện số 20 -. Ai thuê và với giá nào? Phải chăng là người Mỹ với giá tiền lương một sĩ quan cấp úy chưa đủ tiền mua gạo cho gia đ́nh?! Đừng nói như trên v́ nói thế là vô ân, là kẻ ngụy trí thức, là kẻ bạo dâm liêm sỉ. Hắn ta chỉ có thể viết như thế v́ đang ở trong một thành phố của miền Nam. Miền đất bảo vệ bởi chính máu của chúng tôi.
Đă giải thích rơ các yếu tố về ḿnh, coi như đă soi sáng một phần câu hỏi: Có thể ḥa giải với người Cộng sản Việt Nam được không? Chúng tôi cần khẳng định lại, v́ ngay ở xưng danh, trong khi chúng tôi gọi họ là những người Cộng sản Việt Nam, những người Việt theo chủ nghĩa Cộng sản; trái lại họ gọi chúng tôi là “ Ngụy quân ”. Họ dành riêng do ḿnh quyền và bổn phận phải làm “ Cách mạng, dân tộc, giải phóng miền Nam...”. Chỉ có họ mới là người Việt Nam yêu nước; người Hà Nội, Thanh Hóa, ở các xă giải phóng mới là nhân dân yêu nước, tiến bộ, yêu ḥa b́nh c̣n nhân dân ở An Lộc, Quảng Trị, ở Tân Mai ( Biên Ḥa ), ở Cai Lậy, Song Phú là nhân dân “ Ngụy ” không được quyền sống mà cần phải giết bỏ và tiêu hủy.
Không thể ḥa giải cùng người Cộng sản Việt Nam cũng bởi v́ họ là người Cộng sản Việt Nam mà không là Cộng sản Đức, Ư, Nhật, Pháp. Cho dù là Cộng sản Nga. Tổng Bí Thư Đảng như Khrouschev, Brezhnev cũng chỉ là những giới chức hành chánh cao cấp hành nghề chỉ huy tương tự như thủ tướng W. Brand, Tổng Thống Kennedy; Cộng sản ở Nga chỉ là một chính sách, một đường lối để canh tân và hiện đại hóa một nước với lănh thỗ quá mênh mông, sắc dân đa tạp. Và có là Trung Hoa Đỏ đi nữa Mao Trạch Đông vẫn là tổng hợp của Tần Thủy Hoàng, Khổng Tử và một chút của Staline. Nhưng Cộng sản Việt Nam là một tổng hợp tuyệt hảo của niềm tin cách mạng vô sản, của giải phóng dân tộc, là khối kim cương của tất thắng, là toàn hảo tận thiện, mỹ không kẽ nứt. Năm 1930 ở Hoa Lục Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch vẫn chỉ là hai người Trung Quốc yêu nước có đường lối cải cách xă hội, chỉ huy quốc gia khác nhau, nhưng “ ḥa giải ” trong một thế Quốc - Cộng chặt chẽ. Năm 1930 chủ tịch Staline trong chiến tuyến chống phát-xít vẫn luôn muốn bắt tay với ngựi bạn Mỹ tốt đẹp. Thế nhưng năm 1930 ở Việt Nam đă có Sô Viết Nghệ-Tỉnh, Sô Viết Quảng Ngăi, Cộng sản không chỉ đánh Tây cứu nước nhưng c̣n chặt đầu công giáo ở Trà Kiệu, Thăng B́nh ( Tam Kỳ, Quảng Tín bây giờ, Quảng Nam lúc đó ), nửa đêm đốt đuốc diệt Đại Việt ở Quảng Ngăi, phục kích Phục Quốc Quân Việt Nam ở Tàu về, v.v... Cộng sản Việt Nam đă tạo dựng truyền thống tin truyền cho chủ nghĩa từ thuở phôi thai, từ ngày nhập cuộc. Một thủ đô văn hóa dài lâu như Hà Nội đă bị đánh vỡ hẳn yếu tính thanh nhă cao quư của một chốn xưa đầm thắm, hóa thân thành một thành phố lạnh lùng quái dị, bị vô tính hóa đến độ tàn nhẫn phi nhân, tràn ngập đầy đường phố, trong trụ sở, nơi nhà giam một đám cán bộ nghiêm nghị, cẩn mật với tiếng nói âm thanh vùng Nghệ Tĩnh. Tôi không thấy, không nghe được h́nh ảnh, tiếng lời trong sáng dịu dàng của những người Hà Nội như trong ư niệm, trong trí tưởng. Ở Hà Nội tôi chỉ gặp được một số cán bộ gốc Nghệ Tĩnh B́nh nếu không cũng là B́nh Trị Thiên hay Nam Tín Ngăi. Và ở địa điểm trao trả Bạc Liêu, Rạch Giá trong ruộng đồng trái tim miền Nam những người kháng chiến Nam bộ hào hùng đánh Tây thuở trước cũng hoàn toàn vắng bóng. Cụ thể hơn hết, hai năm ở bàn hội nghị, Hoàng Anh Tuấn, Vơ Đông Giang, Bùi Thiệp, Trần Văn Vầy cũng chỉ là những người Cộng sản khu V (Nam-Ngăi-B́nh-Phú: Liên khu V của cộng sản từ thời 1945 ). Phải chăng đây là những người từ đầu của Mặt Trận ở những năm 59, 60 khi mới thành lập hay là đào kép chính xuất hiện diễn màn cuối khi những người như Năm Quốc Đảng, Hai Chủ Tịch xe ngựa, Tư Thắng những người Cộng sản kháng chiến miền Nam đă lót đường dưới bom đạn của chiến tranh hoặc vào quên lăng. Vậy ḥa giải sao được với những người Cộng sản nay khi trí năo họ chỉ có một ư niệm, khi ngôn ngữ chỉ có một lư luận, khi hành động đă là một động tác phản xạ có điều kiện. Họ có muốn ta ḥa giải cùng họ không? Chắc chắn là không. Vậy ta ḥa giải với ai và như thế nào?? Tôi xin trao lại phần trả lời cho những người ḥa giải. Nói thêm một điều: Nếu người Cộng sản chịu ḥa giải trong một chiến thuật đoản kỳ nào đó, chắc chắn rằng họ cũng không ngồi chung chiếu với “ lănh tụ ” Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu chứ đừng nói đám đào kép cải lương mới nổi từ đồng lầy chính trị miền Nam.
Qua phần câu hỏi thứ hai, tôi muốn tŕnh bày một tâm trạng năo nề khi thấy các linh mục hữu khuynh đổi thái độ... “ Phải đánh thằng quỉ lớn trước, đánh thằng quỉ nhỏ sau ”, lời Cha Thanh. Thằng quỉ lớn là tham nhũng, là chính phủ của Tổng Thống Thiệu, là người Mỹ với chính sách thực dân kiểu mới. Tùy theo mỗi cách đặt vấn đề trên mục đích của mỗi phe nhóm và thằng quỉ nhỏ là Cộng sản. Một thằng “ quỉ nhỏ ” sẵn sàng đối thoại, có thể đối thoại và nên đối thoại! Tại sao như vậy được? Ông Thiệu và chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa hiện tại đâu có phải một sớm một chiều bỗng dưng mà có. Chiến tranh hiện tại cũng không phải v́ “ không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Ba Lê ” cũng không phải v́ “ Người Mỹ vẫn c̣n dính líu vào miền Nam Việt Nam để thực hiện chính sách Thực Dân Mới ” mà có. Ông Thiệu, ông Khiêm, t́nh trạng tham nhũng bất công thối nát, chiến tranh hôm nay chỉ là hệ quả tất nhiên của các giai đoạn 45-54, 54-63, 63-73. Là hệ quả của các lực lượng Quốc gia không chịu tập trung và hoạch định hoạt động theo đúng hướng đi chung của lịch sử, dân tộc và thế giới; cũng như sau khi các lực lượng tôn giáo nhất quyết tựa vào phe cầm quyền để củng cố và phát triển giáo quyền ( che dấu mặc cảm đă cộng tác với những người khống chế dân tộc ). Đó cũng là hệ quả của lần “ sẩy tay ” trầm trọng nhất khi miền Nam đánh mất cơ hội tốt đẹp, một hoàn cảnh thuận tiện (54-63) kiện toàn miền Nam, để có đủ khả năng và lực lượng cân bằng, hiệp thương cùng miền Bắc. Để rồi sau đó lại mất luôn khí thế cùng thời gian sau năm 1963 trong những sa đọa giành giật, cấu xé và phân hóa thô thiển v́ quyền lợi cá nhân, rơi vào hố thảm bại cả một phong trào nhân dân năm 1966. Và t́nh h́nh hiện tại với ông Thiệu chỉ là ngọn cuối của một cơn cuồng phong thổi tàn khốc qua quê hương khốn khổ. Có ai ngăn chặn một luồng gió ở cuối đựng để đề pḥng một cơn băo? Có ai chặt đi một ngọn cây để hủy diệt những hư thối từ gốc rễ?! Cha Thanh, Cha Hoàng Quỳnh, Cha Nguyễn Viết Khai chắc không thể bảo rằng đă vắng mặt ở các giai đoạn kể trên. Các Cha đă đứng vào đâu trong đoạn thời gian đằng đẵng hiểm nghèo đó? Đă làm ǵ và làm được ǵ? Phải chăng các Cha đă tựa vào thế của Tổng Thống Diệm, đă dưạ vào thế của Chủ Tịch Hành Pháp Nguyễn Cao Kỳ và gần đây, chắc cũng hơn một lần các Cha thỏa hiệp với ông Thiệu. Và các Cha đă làm ǵ được cho nhân dân qua những thỏa hiệp quyền lực đó? Năm 1974, phải chăng các thế lực đó không c̣n là nơi nương tựa chắc chắn nên các Cha phá bỏ. Thủ đọan chính trị cho phép làm mọi chuyện nhưng nỗi khốn cùng của nhân dân không cho phép bất kỳ ai đem hy vọng cuối cùng của họ vào một cuộc trả giá.
Giả sử rằng trong giai đọan sau 1954, các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu dùng khả năng và ư thức trọng trách của ḿnh ( như bây giờ đang khai triển ) đối với Quốc gia và nhân dân, đặt vấn đề thẳng thắng cùng ông Diệm để cố Tổng Thống Diệm hữu hiệu hóa guồng máy chính quyền, quân đội, kiện toàn cơ cấu lănh đạo Quốc gia, chấp nhận đối thoại với Cộng sản. Giả sử, Cha Thanh, Cha Khai gần gũi, thường xuyên với Đức Cha Thục, Tổng Thống Diệm, dùng uy tín và thành tâm của ḿnh để ngăn chận những sai lầm chủ quan của ông Diệm và nhất là dùng “ Đức tin vào Chúa để sẵn sàng đối thoại với người anh em không tín ngưỡng...” và “ Để không những yêu mến thân nhân và hăy ghét thù địch mà phải mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ anh em... (MT 5, 53, 45). Giả sử rằng các ông Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín đừng di cư vô Nam tiếp tục ở cùng người cộng sản Hà Nội để sau khi đi Pháp học ( Do sự điều động của Giáo Hội, của học bổng chính phủ Pháp th́ phải chăng cũng là một “ nhánh ” của tư bản...), trở về Bắc đ̣i hỏi “ Canh Tân và Ḥa Giải ”, và nhận định ngay từ giai đoạn đó (giai đọan sau 54): “ Từ một thế kỷ nay Giáo hội đă thông qua chế độ tư bản... Ít phù hợp với luân lư các Tiên Tri và Tin Mừng...” - Báo Đối Diện
Nhưng, tất cả chỉ là giả thuyết v́ mọi người đă ùa vào miền Nam để “ T́m Tự Do ”, đă dựng nên một mặt trận chống Cộng khốc liệt và dứt khoát, đă đẩy nhân dân vào trong hai thế đối nghịch sống chết và đẩy đưa đất nước dần vào cuộc chiến tan vỡ. Cuối cùng, đoạn cuối này chúng tôi gánh hết, không quyền ta thán, không ư kiến, không phẫn nộ trong mười năm dài. Mười năm ê chề của màn kịch “ chống Cộng ” nửa vời, mười năm đau đớn của hệ luận “ t́m Tự Do ” nơi miền Nam. Chiến tranh toàn diện là “ cái đuôi ” của “ cách mạng 63 ”, của vận động ḥa b́nh 64-66, mà tất cả đă trôi đi như một thứ bèo tan tác trong đại dương cuồng nộ bi thảm. Tất cả cũng chỉ là giả thuyết và đôi khi cũng là những phản đề thô bạo đáng kinh ngạc, v́ đă có những tố cáo trong quá khứ: “ Đến nỗi Linh Mục Trần Hữu Thanh c̣n dùng cả thần học lư luận ”(?) để biện minh loanh quanh cho việc tra tấn ( của Chính Phủ VNCH ) trên các báo Công Giáo như Sacredo,Thẳng Tiến, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Lư Chánh Trung - Đối Diện số 19.. Như vậy có nghĩa lư ǵ? Các người đă bày nên canh bạc máu, tham dự chán chê xong đứng dậy phủi tay. Ông Thiệu đâu có xa lạ với các vị trong cuộc chơi tàn bạo đau đớn đó. Bây giờ phải chăng các người bày tṛ chơi mới với một số đào kép khán giả mỏi ṃn.
Cuối cùng, chỉ là chúng tôi, những người chống Cộng cuối cùng và cay đắng, chống Cộng v́ không thể là Cộng sản, v́ đă ở một phía đối địch với Cộng sản lập nên từ những đám tiền bối cực đoan bất lực, một đám đàn anh xoay rất lẹ và nhạy cảm đến độ phi nhân. Hai mươi năm của cuộc đấu tranh chống Cộng đến đây phải tạm dừng sao? Tôi lật đống ảnh của ngày xưa... Trên băi bể Trà Lư, đoàn người tan vỡ xao xác, mắt lạc thần và môi tái xanh v́ giá rét đứng ngâm ḿnh trong nước đón tàu đi Nam. Trên đại dương mênh mông của vùng biển Bắc phần, chiếc mảng nhỏ gồm những thân cây tre ghép lại, nhóm dân áo đen rách gồm cả đàn bà và con trẻ ra sức chèo trong đêm về hướng đông, hướng mặt trời đợi ngày tới gặp được đoàn tàu đi Nam. Đi về Nam. T́m Tự Do. Tất cả là thực tế hiển hiện đầy nhiệm mầu cao quư. Tôi đă đi đúng đường cùng lớp người rực rỡ cao cả của ngày xưa đó. Tôi đă đi đúng đường và viết những gịng chữ xứng đáng để ca ngợi Tự Do.
Miền Nam Việt Nam, Tháng 10-1974

19. Những lời kết

NHỮNG TÙ BINH TOÀN THỂ BỎ QUÊN
MỘT H̉A B̀NH THẬM TỆ DỐI GẠT
CUỐN SÁCH CẦN PHẢI VIẾT LẠI

Phan Nhật Nam tên thật Phan Ngọc Khuê, sinh ngày 9 tháng 9, năm 1943, chánh quán Thôn Nại Cữu, Huyện Triệu Phong,...Tỉnh Quảng Trị. Do một lư do ( thật chưa biết rơ ), cha mẹ đổi nên Phan Nhật Nam với ngày sinh mới, 28 tháng 12, 1942, làng Phú Cát, Huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn lính tác chiến Nhảy dù ( Ám số chuyên môn 240.7 - Chỉ huy một đơn vị bộ binh ), kể từ ngày măn khóa Trường Vơ Bị Đà Lạt, 23 tháng 11, 1963; qua các tiểu đoàn 7, 9, 2; Lữ Đoàn II Nhẩy Dù. Thế nên, măi đến mùa xuân 1968 cũng không hề chuẩn bị, sắp sẵn cho việc viết văn. Dấu hiệu tài năng thiên phú lại là điều không khả thể, cho dù với tỷ lệ nhỏ nhất. Trong chức vụ sĩ quan hành quân Lữ đoàn với lệnh hành quân, máy truyền tin, điều động phối hợp, theo dơi bốn tiểu đoàn bộ chiến Nhẩy dù, hai tiểu đoàn pháo cơ hữu, một tiểu đoàn pháo diện địa, hai liên đội Địa Phương Quân, một Giang Đoàn Xung Phong tăng cường... Công việc đúng nghĩa 24/24 giờ của một ngày. Một tháng đúng ba mươi ngày bắt đầu kể từ ngày vào vùng hành quân. Không một chút ngơi nghỉ, bởi một điều giản dị - Lực lượng Cộng sản không hề có dấu hiệu chấm dứt Tổng Công Kích kể từ đêm giao thừa Tết Mậu Thân. Sẵn giấy bút, đêm khuya không hết; và người bạn thời niên thiếu ( Đă là nhà văn Nguyên Vũ ) đang luôn ngồi bên cạnh làm sĩ quan liên lạc pháo binh thúc dục... Định Mạng của một Nghiệp Vận kỳ lạ mở ra - Người Lính Cầm Bút cùng lần với Vũ Khí. Và viết đă trở nên một nhu cầu. Viết mở ra một thế sống mới, một cứu viện sinh tử - Không có không được. Bởi cơn đau với dấu ấn binh lửa không phải chỉ cảnh nhà cháy, súng nổ, đạn bom rơi văi... Điều kinh khiếp vô phương cứu nạn của chiến tranh lần hiện rơ - Thật lần tận diệt Con Người. Người Việt Nam hoàn toàn bị coi khinh, đầy ải ngay chính trên Quê Hương ḿnh. Và Chiến Tranh không hề có dấu hiệu, khả năng chấm dứt. Cũng như tính tất yếu ( được Lựa Chọn ) của Tự Do - Người Việt chỉ có quyền đứng về phía của Chiến Tranh.
Từ trong t́nh cảnh khốn cùng khắc nghiệt kia: Dấu Binh Lửa - Dọc Đường Số I - Mùa Hè Đỏ Lửa, phải viết nên cho buổi Sống Thật và Chết Oan Khiên. Không phải của một cá nhân đơn lẻ mà toàn Dân Tộc Nghiệp Hận... Kẻ Bắc - Người Nam; trong binh ngũ, với dân lạc loài... Tất cả cùng chung mang dấu lửa, càng ngày càng đậm sắc, xuyên sâu. Và dẫu rằng đằng sau cái chết, vẫn sừng sững nỗi oán hờn thiên thu của ḍng sống oan nghiệt thật đă h́nh thành từ rất lâu. Tận đáy vực không phương thế trốn thoát ấy, tiểu thuyết của: Dựa Lưng Nỗi Chết - Ải Trần Gian, cũng chung một cảnh sắc bi thiết - Đất nước thật nơi tan vỡ với Sự Chết Thường Hằng.
Ngày 27 tháng 1, 1973, Hiệp Định Tái Lập Ḥa b́nh tại Việt Nam được kư kết. Bởi cơn đau không sút giảm, cuộc chiến chỉ thoáng đổi thay cường độ, không phải để kết thúc. Người viết đă nên quả quyết - Ḥa B́nh là trạng thái không Thật - và bản văn Hiệp Định chỉ hoàn tất chuyện dối lừa.
Tính Thiện và Tâm Thành đưa Người Lính Viết Văn bước cao hơn, vượt quá mưu toan biển lận của chính trị - TÙ BINH VÀ H̉A B̀NH v́ thế PHẢI ĐƯỢC VIẾT.
Ngày 28 tháng 1, toàn thế giới tung dây ngũ sắc, rót rượu uống mừng Ḥa B́nh. Ở Việt Nam, người viết với tâm cảnh bi thương trên quê hương khổ nạn đă cất lời cảnh cáo: “ Kẻ lảnh giải thưởng Nobel huân công Ḥa B́nh kia là một lũ bợm băi sát nhân...”. Thế giới, loài người, kể cả ở Sài G̣n... Nào mấy được ai nghe!!
Có ai nghe tiếng kêu trầm thống của người tù mặt trận Hạ Lào nơi thung lũng Việt Hồng, xă Việt Cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn... Những Đại Tá Nguyễn Văn Thọ - Lữ Đoàn Trưởng; Trung Tá Trần Văn Châu, Thiếu Tá Đức, các Đại Úy Châu, Thương, Trụ của Lữ Đoàn III Dù; Thiếu Tá Trần Ngọc Huế của Sư Đoàn I Bộ Binh và hằng trăm người của những toán Biệt Kích mang bí danh: Bear, Cat, Lance, Red Dragon, Remus.. Những Biệt Kích Quân bị bắt từ những năm đầu của thập niên 60, Nguyễn Huy Luyện, Hà Sơn, Nguyễn Công Thành... ở “ Cổng Trời ” Quyết Tiến, Hà Giang - biên giới Việt-Trung, chịu đựng suốt hai, ba mươi năm ( 60, 70, 80...) cách đối xử tàn nhẫn đă vượt hẳn kỷ lục và kỹ thuật giết người của Đầm Đùn - Lư Bá Sơ, thuở Cộng sản c̣n trong giai đoạn “ chuẩn bị cho tổng tấn công sau 1950 ”. Danh sách trao trả do phía Cộng sản chuyển đến phái đoàn Việt Nam Cộng Ḥa tại Ba Lê không có tên những người tù kể trên. Phía Cộng sản nhận đủ 26.508 người không một sai sót. Trại giam tù quân sự Phú Quốc hoàn toàn giải thể và ba tiểu đoàn Quân cảnh ( coi giữ tù ) biến cải thành bộ binh, đưa trở về đất liền.
Lê Đức Thọ, Nguyễn Thị B́nh ở Ba Lê; Trần Văn Trà, Lê Quang Ḥa, Vơ Đông Giang ở Tân Sơn Nhất; Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh ở Hà Nội đều đồng loạt trịnh trọng tuyên bố “Nếu có quân nhân phía Việt Nam Cộng Ḥa bị bắt ở mặt trận đường 9 Nam Lào th́ (có thể) họ bị quân đội Pathet Lào bẳt giữ?!...”. Ở Hà Nội đồng thời cho phổ biến phim Người Khách Không Mời với nhân vật chính, Thiếu Tá Huế, sĩ quan cùng khóa, cùng đại đội với Phan Nhật Nam ở trường Đà Lạt. Huế bị bắt ngay tại LZ, băi đáp mục tiêu Tchépone, Hạ Lào đầu năm 1971.
Năm 1976, Ngựi Lính Viết Văn Bị Tù gặp đủ chiến hữu của ḿnh ở thung lũng Hoàng Liên Sơn. Ngày 21 tháng 2, 1979 vào pḥng kiên giam số 2, trại 5 Lam Sơn, Thanh Hóa, Phan Nhật Nam nghe từ buồng số 4 có tiếng hát “Bảo vệ làng thôn Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa...” giọng khàn đục mệt mơi - Anh Nguyễn Công Thành bị kiên giam từ 1964 - Năm anh bị bắt.
Cuối cùng, ba mươi năm sau, những Biệt Kích Quân c̣n lại, khoảng bảy mươi người của tổng số hơn bốn trăm bị Cộng sản Bắt Việt giam giữ kể từ những toán đầu tiên: Atlas, Bart, Bear, Bell, Becassine, Bull... Tellus, Swan ( Lưu ư bạn đọc, danh hiệu đă quá hai mươi bốn chữ cái ) của giai đoạn 1961 -1962 đến những người cuối cùng được ghi nhận, Mai Văn Tuấn bị bắt năm 1969, chết ngày 2 tháng Tám, 1970 tại Trại Phong Quang, Yên Bái, trở về Nam... Khi thiết lập hồ sơ H.O. những người lính trở về từ cơi chết này KHÔNG ĐƯỢC CHẤP NHẬN LÀ QUÂN NHÂN THUỘC QUÂN LỰC VNCH. Cơ quan tuyển mộ, huấn luyện điều động họ - TOÁN NGHIÊN CỨU VÀ QUAN SÁT/BỘ TƯ LỆNH YỂM TRỢ QUÂN SỰ ( Military Assistance Command Studies and Observation Group - Viết tắt MACSOG hoặc SOG ) từ đầu năm 1960 - 61; sau này thuộc Bộ Quốc Pḥng, nhận quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư Lệnh Thái B́nh Dương ( Kể từ biến cố 1963 tại Việt Nam mà các bộ phận kia trước đây có dính líu chặt chẽ với tổ chức, nhân sự của Đệ Nhất Cộng Ḥa ) - Đổi qua Kế Hoạch mang bí danh Alpha 34, mà chính Bộ Trưởng McNamara cũng không hề tŕnh đến Tổng Thống Mỹ - sự kiện không hề được ai biết. Không một ai muốn nhắc lại. Lính Biệt Kích Việt Nam Cộng Ḥa không được kể đến trong tiêu chuẩn, chính sách di dân của chính phủ Mỹ qua chương tŕnh ODP. Một người Mỹ, Sedgwick “ Wick ” Tourison, trước 1975 là nhân viên t́nh báo Lục Quân Hoa Kỳ, sau này phụ trách công tác Nghiên Cứu thuộc Ủy Ban Tù Binh và Người Mất Tích/Pḥng T́nh Báo Bộ Quốc Pḥng Mỹ ( 1983-1988 ) lật khối hồ sơ bi thảm về những người bị cả bạn lẫn thù đẩy vào bóng tối lăng quên và sự chết. Chiến hữu cao thượng này không ḱm được phẫn nộ. Anh gióng lên lời báo nguy: Secret Army Secret War - được thành h́nh. Thế nên, Người Viết Văn không thể im lặng. Người Lính không thể bỏ cuộc chiến đấu cùng đồng đội; lời tố cáo tội ác xảo quyệt cần phải được nhắc lại. Hơn hai mươi năm sau, Tù Binh và Ḥa B́nh vẫn c̣n nguyên giá trị về một lời báo động - Tù Biệt Kích VNCH vẫn thăm thẳm vũng tối đọa đày nơi vùng đất có cái gọi là Hà Nội - Niềm Tin Yêu và Hy Vọng - Thủ Đô của Phẩm Giá Con Người ”. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt hôm hay lập lại t́nh cảnh của Đại Úy Biệt Kích Nguyễn Huy Luyện ba mươi năm trước, ở trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa; cũng là nơi Phan Nhật Nam đă đến từ ngày 17 tháng 4, 1986. Lúc ở đấy không c̣n một ai là tù người Nam. Vâng, phải đến ba mươi năm để cốt giết một người. Những người tù miền Nam kia không được làm người biết đau đớn; họ là bọn “ ngụy quân, ngụy quyền có nợ máu với nhân dân ” nên con người vẫn tiếp tục bị đồ h́nh ở Quyết Tiến, Hà Giang; Phố Lu, Yên Bái; ở hệ thống trại Thanh Cẩm, Thanh Phong, Lam Sơn ( Thanh Hóa ). Hoặc khắp cùng Vĩnh Phú, Hà Tây, Nghệ Tĩnh... Bao nhiêu đất bấy nhiêu trại tù. Không mấy người nghe đến. Loài người khó ai nhận ra điều đau đớn đơn giản trên; kể cả các vị lănh đạo tôn giáo, cầm đầu các Quốc gia, người tranh đấu cho nhân quyền, ḥa b́nh thế giới. Chỉ mới kể một nửa nước, vùng phía Bắc Việt Nam.

CUỐN SÁCH V̀ THẾ CẦN PHẢI VIẾT LẠI.

Sự kiện về người tù dù sao vốn dĩ cũng là vấn đề với bản chất khép kín, che dấu, như thân phận tội nghiệp của họ. Thế nhưng, lại có những điều tồi tệ khác xẩy ra dưới ánh sáng như những biểu hiện công khai và hợp lư - Cũng được xem như h́nh thái của xă hội văn minh và tiến bộ: Sinh hoạt chính trị và những con người đặc thù của nó - Những người luôn luôn kêu gọi, nại đến, trưng ra những danh xưng cao thượng Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ với những đối tượng mục tiêu có giá trị tuyệt đối - Tổ Quốc, Dân Tộc. Tiến tŕnh mang tính “ Chính Danh, Chính Nghĩa ” này qua Hiệp Định dối trá ngang ngược kia cũng bị lộ hẳn toàn thể xấu xa sa đọa với những người gọi là: Chủ tịch, Tổng thống, Trưởng đoàn đại biểu, những ủy viên trung ương, hằng loạt đủ các thứ loại chính khách, chính trị gia... Kể cả những kẻ gọi chung danh nghĩa “ đấu tranh cách mạng ”... Tất cả đă bày ra trước mắt nhân dân và lịch sử nguyên h́nh đám múa rối vô duyên và cực kỳ xuẩn động. Những kẻ dụng bạc giả để mưu định buôn bán sinh mạng Quốc gia, đánh lừa hy vọng của toàn khối miền Nam. Cuối cùng, Dân Tộc Việt đồng bị xiên ngược trên giàn lửa bởi chính những người đồng chủng được ngụy danh nên thành “ Người cộng sản Việt Nam ”. Chung bàn tiệc máu kia c̣n xuất hiện vô số những người rất mực hân hoan và kiêu hănh; họ lạc quan và chủ quan một cách bất b́nh thường rất đỗi kinh ngạc - Những kẻ được gọi là thành phần tiến bộ, ưu tú của miền Nam.
... Ngày 24 tháng 7, 1973, tại địa điểm trao trả Lộc Ninh, những người tuổi trẻ như Vơ Như Lanh, Trịnh Đ́nh Ban, Cao Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần Thị Huệ... Ngồi dưới gốc cây cao su vỗ tay hát lời ca hàm xúc... “ Nếu là chim tôi sẽ là một loài câu trắng. Nếu là hoa... Sẽ là một đóa hướng dương. Là người, sẽ chết trên quê hương tôi!! ” Suốt hai thập niên 70, 80, những người tuổi trẻ đấu tranh cho Ḥa H́nh, Tự Do, Hạnh Phúc, Công Bằng, Huynh Đệ kia... Những người đă cùng vỗ tay ḥa nhịp với Trịnh Công Sơn hát “... Từ Bắc vô Nam tay lại nắm tay..” Nối ṿng tay lớn mừng “ bộ đội cách mạng giải phóng Sài G̣n ”; những người tay mang băng đỏ như Cung Tích Biền, Nguyễn Hữu Đống ( Chủ Tịch sinh viên Đại Học Kiến Trúc ), Kim Cương đi lùng Ngụy, bắt “ văn nghệ sĩ Sài g̣n phản động ” trong buổi sáng ngày 30 tháng 4, năm 1975... Tất cả những người nầy đều được chứng kiến, hoặc tự thân dự phần vào cuộc “ vượt chết ” bi tráng kỳ vĩ của Dân Tộc Việt - Hai triệu người xé thân trên đường vượt biên với giá máu sáu trăm ngàn người chết. Người Việt ra đi từ mũi Cà Mau đến biên giới sáu tỉnh phía Bắc... Hai đứa bé tuổi vừa quá lên mười vượt biển với chiếc thuyền thúng, hướng về Hồng Kông. Bà ngoại ôm cháu chết nghẹt trong chiếc ghe bị công an bắn ch́m nơi cầu Rạch Chiếc ngay trên Xa Lộ Biên Ḥa.
Không tiếng lời nào của tuổi trẻ, của văn nghệ sĩ ở Sài G̣n, ở Việt Nam nói về Một của tổng số Sáu Trăm Ngàn lần chết đau thương này. Trịnh Công Sơn thêm một lần nổi tiếng là người tài hoa lăng mạng với bài hát “ Huyền Thoại Mẹ ” có lời dạo đầu... “ Mẹ ngồi dưới hầm sâu nghe từng đêm đạn nổ...” Anh ta cũng có Người Mẹ hóa điên vỗ tay hoan hô Ḥa B́nh chiều đi qua Băi Dâu, nơi chôn sống người ở Huế sau Tết Mậu thân, 1968, khi người Cộng sản rút quân đi.

NGƯỜI CHỈ MỘT LẦN SỐNG.
NGƯỜI CHỈ MỘT LẦN CHẾT.
NGƯỜI CHỈ CÓ MỘT NGƯỜI MẸ.
CÓ NHIỀU MẸ LÀ MẸ NUÔI-ĐÓ LÀ CON HOANG.

Năm 1990, ông dân biểu một thời nổi tiếng đối lập chống độc tài Nguyễn Văn Thiệu: Lư Quư Chung, Bộ Trưởng Thông Tin cuối cùng của chế độ Cộng ḥa miền Nam, khi trả lời với báo chí thiên tả Pháp, đă nói lên niềm hân hoan của người trí thức dưới chế độ xă hội chủ nghĩa “...Hôm nay có điều kiện để viết hơn bao giờ hết!! ” Người này nói thật - Anh ta là người viết chuyện đá banh khéo nhất, cũng là chủ tiệm ăn đông khách nhất của Sài G̣n. Có một điều người nầy quên kể ra, Anh ta là thành phần thứ ba - Đă một lần thuộc lực lượng tranh đấu cho Ḥa B́nh và Ḥa Giải Dân Tộc. Danh xưng đưa đến sự nghiệp vinh quang của hiện tại. Thành Phần Thứ Ba, đứa con hoang đẻ vội mà người Cộng sản đă đạp xuống dưới đế dép lốp xe hơi một cách thậm tệ khinh miệt ngay trong buổi sáng ngày 30 tháng 4, 1975.
Cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng. Cái gọi là Chính Phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam cùng với Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đ́nh Thảo, Lâm Văn Tết, Trần Văn Trà, Nguyễn Hộ, Nguyễn Thị B́nh, Dương Huỳnh Hoa... Tất cả đă cùng chung hố rác vô dụng và tầm phào, đừng nói ǵ cỡ Nguyễn Long, Tôn Thất Dương Kỵ, Huỳnh Văn Trọng, Phạm Thị Thanh Vân ( Vợ Ngô Bá Thành ). Riêng những kẻ ăn ké đồ thừa “ cách mạng chống Mỹ cứu nước ” - loại Ngọc Lan, Chân Tín, Lư Chánh Trung... Đám ruồi nhặng vây vo quanh tờ Đối Diện; báo Tia Sáng của nhóm Ngô Công Đức... Được một năm ân huệ. Sau 1976, hai tờ báo nhận lệnh đóng cửa; những kẻ gọi là “ trí thức cấp tiến yêu nước và yêu chủ nghĩa xă hội...”, thứ chuyên viên xuống đường “ đ̣i quyền sống và cải thiện chế độ lao tù ” ở đường phố Sài G̣n suốt thời gian của 1973, 1974 được nhận chức đại biểu nhân dân hữu danh vô thực. Để rồi tất cả đồng bị ném đi như một loại cặn bă tồi tệ phải loại trừ khẩn cấp - Nếu cần thiết cho vào trại cải tạo không ngại ngùng - Điều đơn giản tàn nhẫn này không lạ - Hăy xem gương Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường... Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm có thiếu mặt ai trong chín năm kháng chiến chống Pháp?! Chống Mỹ cứu nước, chống tham nhũng Nguyễn Văn Thiệu kiểu các linh mục cấp tiến ḍng Chúa Cứu Thế có là bao công trận mà đ̣i chuyện đền bù. Ḍng Chúa Cứu Thế ở băi biển Nha Trang biến thành pḥng ngủ và chỗ giải trí - Trừng Phạt của Thiên Chúa hiện thực nơi năm tháng đang phải sống. Ngay hôm nay.
Cũng năm 1990 nầy, Huỳnh Tấn Mẫm bị hạ tầng công tác v́ vợ đi buôn lậu, móc nối tham nhũng, hối lộ. Chức vụ có được cũng chẳng cao sang ghê gớm ǵ. Ngang với một chức Trưởng ty.

CUỐN SÁCH V̀ THẾ CẦN PHẢI ĐỌC LẠI.

“... Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam sẽ lần lượt đóng hết vai tṛ đoản kỳ của nó. Và trận đấu cuối cùng vẫn là giữa chúng ta với những sư đoàn chính quy Cộng sản Bắc Việt qua tấm đệm Ba Mầu - Lá Cờ Mặt Trận Giải Phóng - Thứ phế phẩm sẽ nhanh chóng bị vất bỏ khi trận chiến tàn cuộc ”. Hai mươi hai năm trước người viết đă có lời cụ thể chính xác như thế và cũng khẩn thiết khẳng định: Chúng ta có thể Ḥa Giải cùng người Cộng sản Việt Nam được không? Tôi trả lời dứt khoát - Không được!! Chúng tôi chống Cộng bởi không thể là Cộng sản; không thể chịu được tư tưởng “ độc tôn yêu nước và độc tôn cách mạng xă hội của họ ”. Và nếu người Cộng sản chịu ḥa giải trong một chiến thuật ngắn hạn nào đó, chắn chắn họ cũng không ngồi chung chiếu với “ lănh tụ ” Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu chứ đừng nói đến đám đào kép cải lương mới nổi từ đồng lầy chính trị miền Nam -Trang 411-417, ấn bản 1974, Hiện Đại, Sài G̣n -
Ngày viết những lời trên, Người Lính Viết Văn vừa đúng ba mươi tuổi.
Hôm nay, nơi đất Mỹ, Phan Nhật Nam bị cáo buộc “ Hô hào ḥa hợp ḥa giải với Cộng sản ” bởi những người không một ngày chiến trận; không một lần tù tội và chưa hề tiếp xúc với một cán bộ Cộng sản nào, cho là thứ Cộng sản hạng bét sau ngày 30 Tháng 4, 1975.

Mùa Hè Uất Hận nơi Đất Mỹ
Tháng 5 - 1995


20. KHI VIẾT LẠI TÙ BINH - H̉A B̀NH VÀ NGHE HÁT CHIẾN CA MÙA HÈ 72

Có tiếng nói khẽ thầm người nghe được
Gịng lệ sâu nín nuốt giữa đêm khuya
Âm kêu thét rền núi sông gào ngất
Ḥa B́nh đâu...
Không hề đến bao giờ!!

1945.

Mẹ gánh con chạy loạn dơi trăng non ...
Buổi tháng Tám ứa bầm màu máu cặn
Giải trầm cát phá Tam Giang mờ sóng (1)
Bé khóc ch́m thiêm thiếp sợ cơn đau

1955.

Băi Trà Lư đồng chiêm loang loáng nước (2)
Thủy triều chậm dồn lên ngầu lớp lớp
Lực Thánh Thần, nâng vai nặng thân con
Chớm b́nh minh suốt hoàng hôn sẫm bóng
Sức cùng kiệt - Cầu vỡ tim Danh Chúa
Gió tháng chạp thịt da sâu nức cứa
Ḍng mồ hôi sống lạnh động đêm đông
Trời và Người chung nghiệt cảnh trầm luân

1965.

Đứa bé lớn lên cùng thống khổ
Phận người nung sôi vũng lửa
Bao nhiêu năm sống trong đời
Bấy dịp qua kỳ sinh - tử
Tôi đứng đây,
Thật không... Ở nơi đây??
Giữa đường phố Sài G̣n đục cay lựu đạn
Cơn lăng nhục lấm lầy dơ tṛng mắt
Chập chùng ném đá nhẫn tâm
Chiến trận ngày qua...
Máu dính gây tanh nón sắt
Quá tuần chưa bữa ăn no

1975.

Người bắt đầu chết khi qua sông Ba (3)
Người hấp hối lúc tới Tuy Ḥa (4)
Chết chùm lườn tàu nơi chợ Hàn, cầu Đá (5)
Chết dặm trường mỗi cây số vỡ miền Nam
Những người chết chưa kịp biết Ḥa B́nh
Hiệp Định cợt đùa ngữ ngôn đàng điếm
Người Việt chết trần truồng không tẩm liệm
Toàn cầu khiếp nhược ngậm thinh

1985.

Mười hai năm sau lần ngưng bắn
Miền Nam lậm nhục lưu đày
Dài thập niên hậu khổ chiến chinh
Đất Việt ấm no, hạnh phúc, công b́nh khẩu hiệu
Dân Tộc cùng đành phá thân phơi băo biển
Bé mười ba, hai mươi bận, cướp xé toang hảm hiếp
Mẹ lịm ngất, cha đâm nhầy vứt xuống biển
Bể Đông đồng dậy oan khiên
Bồng bềnh xô lớp sóng đẫm thây người,
Mắt chống ngược ngước về trời,
Máu bầm đóng khô khóe miệng...
Tiền nhân Nghiệp Ác vọng rền!!


1995.

Năm mươi năm...
Thật không năm mươi năm??
Hồn cháy bỏng vết hằn tù nhân biệt xứ
Ngày đang hết chiều mờ bên quê cũ
Loáng đỏ nhừ đất lạ tiếp chân mây
Ta ở đây...
Lơ đăng những riêng tây
Nhịp thở nghẹn
Gợn hơi men Thống Khổ
Chuỗi Oan Hận xuyên sâu tầng lịch sử
Người thiếp đau từng tấc dạ Quê Hương
Ḥa B́nh - Việt Nam
Mất hút cuối con đường...


Phan Nhật Nam
9 tháng 9, 1995,
Sinh nhật 53 tuổi,
Không c̣n chỗ, nơi xứ người.


 


VĂN CHƯƠNG

Cây viết Bất Khuất

Thuyền đời
Highway of Heroes
Nắng ấm quê hương
Truyện dài Bất Khuất
Thuyền đời ơi !
Những thằng chúng tôi
Bài thơ trên đồi Bác sĩ Tín
Viên đạn vang rền
Chuyện t́nh trái ngang
Khối diễn hành
Băi tập
Lễ măn khóa
Một Đời Bất Khuất
Kỷ niệm Quân Trường - Về phép
Kỷ niệm Quân Trường - Cúp phép
Hồi tưởng chiến trường 1062 Thượng Đức
Dọc đường gió bụi
T́nh Bất Khuất
Ngày xưa thân ái
Tôi đi lính
Bất Khuất
Quan Âm Tây Du Hí truyện
Làm trong sáng tiềng Việt
Hạ cờ tây
Thù dai
Kỷ niệm khó quên
Trận cuối trong đời lính của tôi
Khúc hát Quân Hành
Một nỗi đau
Thủ Đức - Tuần huấn nhục
Tâm thư của Cố Thiếu Úy Trần Văn Quí
Trận Ô-Căm
Một lần vĩnh biệt
Một lần đi
Chuyến đi cuối năm
Nhớ về mái trường xưa
Phạm Xuân Tịnh - Một cuộc đời
Những ngày tháng không quên
Tự do ơi, tự do!
V́ hai chữ Tự Do
Ngh́n trùng cách biệt
Thầy Chín
Để nhớ để quên


Người lính VNCH

Soái hạm HQ5 và trận hải chiến Hoàng Sa
Ngày 19-01 Kỷ Niệm ngày Hoàng Sa nhuộm máu
Đi vào ḷng địch: Câu chuyện thật của người Nhái HQ VNCH
Người bạn 101
Năm tháng tuổi thơ thuở nào
Lực lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ Hải Quân VNCH
Đối diện tử thần
Một thời để yêu
Phi Công thời chiến
Người con dâu nước Mỹ
Tưởng bỏ anh em
Đành bỏ anh em
Mai
Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời
Một đời binh nghiệp hai màu Mũ
Biệt Hải trên vùng biển băo tố
Chuyện người lính trinh sát
Nhan sắc cư tang
Niềm vú quân trường
Sự trịch thượng
Hộ tống hạm HQ11 & Những ngày biến loạn tháng Tư đen
Bạn tôi, những SVSQ khóa 2 Học Viện CSQG
Cuộc sống của người lính chiến ĐPQ và NQ
Sông Mao, Ngày tháng cũ
Tự truyện của một phi công

Chập chùng tủi nhục
Tâm sự người lính

Nén hương tưởng nhớ bạn Dương Quang Ngọc
Một mai giă từ vũ khí
Mối t́nh đầu
T́nh lính
Đời lính
Tàn cuộc hoa này
Nó và Tôi
Viên ngọc nát
Những năm dài qua đi... hội ngộ
Ngày Quân Lực : Lời thú tội
Nhớ An Lộc - Chuyện người Thương Binh bị bỏ quên
Nghĩ về người vợ lính
Chuyện t́nh với chàng cựu Không Quân Y 2 K
“Hát Ô” qua Mỹ
Anh hùng tử - Khí hùng bất tử
Thằng lính bạc t́nh
Cuối đường
Đó đây trên quê hương
Here and There In The Homeland
Người c̣n nhớ hay người đă quên
Những ngày tù chung với Ông Đạo Dừa
Cây cầu biên giới
Khu trục bọc thây
Tướng Đỗ Cao Trí và Tướng Nguyễn Viết Thanh Dưới Cái Nh́n Của Người Ngoại Quốc

Đêm liêu trai
B̀NH-TUY, những ngày cuối cùng...
T́nh Anh Lính Chiến Biệt Động
Trận chiến đẫm máu của HQ/VNCH: Trận Ba Rài
Mặt trận Miền Đông vẫn yên tĩnh
Charlie ngày ấy và Charlie bây giờ
Màu cờ và sắc áo
Tù binh và ḥa b́nh
Tây Ninh, chút c̣n lại trong ḷng một người lính
Hoài niệm
Tâm tư và cuộc sống quả phụ
Thượng Tọa Thích Quang Long
4 ngôi mộ lính nhảy dù Vị Quốc Vong Thân
Hai người bạn
Đôi ḍng về “Cỏ Thu Hoàng thị”
Cái chân gỗ
Một H.O. muộn màng
Vài hàng gởi anh Tŕu mến
Thiên bi hùng ca QLVNCH
Để nhớ lại những ngày Mùa Hè Băo Lửa
Trận chiến cô đơn
Biệt đội 817 - LĐ81 BCD
Trận đánh cuối cùng của ĐPQ...
Qua những trại tù cộng sản...
Sông Mao, phi vụ ngày 30 Tết
Nước mắt mẹ già
Viên đạn cuối cùng
Điếm Cỏ Cầu Sương
Người lính ấy của tôi...
Khóc một ḍng sông
Cái muỗng
Tử thủ
Những tiếng hát bừng sáng A 20
Thiên đường đỏ
Khoác áo chiến y
Chuyện t́nh của một Phi Công
Hai v́ sao lạc
Tôi thương nhớ vợ tôi
Bông hồng tạ ơn
Viết về Lê Hữu Lượng
Chinh nhân và người t́nh
Tôi vào học viện Cảnh Sát Quốc Gia
Cảm nghĩ của một người Lính về Ngày Quân Lực 19/6
Nhiệm vụ
Cô gái B́nh Long
Những ngày hồi đó
Ngày QL19/06 - Người Lính VNCH ... Tôi nợ Anh ..
Nhớ đến Biệt Đội Thiên Nga
Viết về ngày QL 19/6/2011
Người không nhận tội  
Chào cô ... em gái Biệt Cách Dù
Chuyện t́nh chị Hạ và anh Nuôi
Huấn luyện Sĩ Quan tại Hoa Kỳ
Ở cuối 2 con đường
Đêm Cao Miên
Đồn Dak Seang
Giải toả căn cứ hỏa lực 6  Tân Cảnh
Quan Âm chí lộ
Rải tro theo gió
Một chuyến đi toán phạt
Chinh chiến điêu linh
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Người không nhận tội
Tháng 4 xót xa
T́m lại thương đau
Nụ cười người tử tội
Ngày về
Người lính miền Nam
Phan Rang nỗi hờn di tản
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Găy súng
Chuyện người Nghĩa Quân
Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh
Đại Bàng Gảy Cánh Tháng Tư
Trại gia binh
Viết về người lính Địa Phương Quân
Quốc lộ 20 - hành lang của tử thần
Phnom Penh, ngày ấy c̣n đâu?
Vinh danh Tướng Đỗ Cao Trí
Trung Tá Nguyễn Đức Xích "NGƯỜI TÙ BẤT KHUẤT"
Ngọn đồi cuối cùng
Nhớ hay Quên
Người lính miền Nam
Charlie, ngọn đồi quyết tử
Chú Quế
Pleiku nắng bụi mưa bùn
Mê thần tượng
Cơm cháy quân trường
Anh trai Biên Hoà, em gái Cà Mau
Giọt nước mắt Đêm Giao Thừa ...!
Kiếp người... đời lính...
Câu chuyện tù của ĐT Phi Công HK...
Ḍng sông cỏ mục
Bên những bờ rừng
Đêm thánh vô cùng
Người tù kiệt xuất
KBC Một thời để nhớ
TPB Những mảnh đời bất hạnh
Mùa Đông năm ấy
Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa qua những t́nh khúc bất tử của Một Thời Chinh Chiến
Phi vụ cuối cùng
Những người tù cuối cùng
Lửa máu hận thù
Người Lính VNCH trong kho tàng âm nhạc Việt Nam
Mẹ VN ơi - Chúng con vẫn c̣n đây
Khi người ta gọi bác của tôi, ba tôi và anh tôi là 'giặc' !
Hăy thắp cho anh một ngọn đèn
Chiếc áo phong sương t́nh anh nặng
Người lính VNCH trong nhạc sỉ Trần Thiện Thanh
Đêm hỗn mang
Ngỡ ngàng đời chiến sĩ
Chuyện nhớ trong đời
Để ghi nhớ tháng 4 đen
Nỗi đau thời chiến
Cọp rằn Chương Thiện
Quà cho con trong tù
Những gịng sông lịch sử đời người
Một người đi
Trận cuối 2
KBC 4100 & Tết Mậu Thân
Rừng khóc giữa mùa xuân
Lá thư t́nh của người lính VNCH
Cô con gái quá giang trong đêm mồng một Tết
Lon Guigoz hành trang người tù...
Con chó Vện và người tù cải tạo
Một lần toan tính...
Tấm thẻ bài
3 người chiến binh "homeless"...
Trôi theo vận nước
Trận cuối
Chiến sĩ Kha Tư Giáo
Em không nh́n được xác chàng
Chuyện buồn người vợ tù
Người Việt của tôi - Quận Dĩ An
Sao hôm, sao mai
Những lá thư t́nh
May mà có em
Thằng bé đánh giày người Nghĩa Lộ
May mà có em đời c̣n dễ thương
Gói quà đầu năm
Cây Mai rừng của người Lính Trận
Cánh chim Thần Tượng
Ba ḍng nước mắt
Những xác chết trên mănh đất chữ "S"
Thân phận người lính găy súng
Chuyện vượt ngục ở trại Gia Trung ...
Những mảnh đời dang dở - phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6, phần cuối
Mưa trên Poncho
Người ở lại Saravan
Nhớ hay quên kỷ niệm thời chinh chiến
Vược ngục
Chuyện t́nh khoai lang
Tâm t́nh người lính VNCH tỵ nạn ở Thái Lan
Hồi tưởng ngày Quân Lực 19-6-73
Vinh danh người lính VNCH

Linh tinh

Dị mộng
Nhà thơ Hàn Mặc Tử
Tập thơ "đôi hồ" và một thiên diễm t́nh
Về Quê
Ông già bơi rác
Nhớ thời trường cũ Chu Văn An
Người chú họ của tôi
Tôi bị bắt
Nhớ lắm… những mùa Thu
Những chuyện trời ơi !
Người đồng hương
Bên đời hiu quạnh
Việt Cộng con
Phượng hồng vào Hạ
Sức mạnh của cộng đồng người Việt Quốc Gia hải ngoại
Giai thoại văn chương
Kỷ niệm nỗi trôi cùng trí nhớ
Bà xă đai-ét
Chuyện kể: Một buổi trên đường vượt biển
Những vần thơ chui
Đi t́m Jackpot
Cây cầu biên giới
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương
Như những giọt buồn
Một cơn đau tim….và một lần phẫu thuật
Đứa con dị chủng
Bài thơ dang dở
Thất t́nh
Dấu "Hỏi Ngă" trong văn chương Việt Nam
Ngày xưa thân ái...
Gió bụi một thời
Người sợ bóng
Hoàng hôn trên núi Tây
Ư yêu đương
Đêm qua sân trước nở cành mai
Vệt nắng cuối chiều
Đừng yêu người làm thơ
Tết Nguyên Đán
Đừng yêu người làm thơ
Như những vần mây
Đám cưới
Hạnh phúc muộn màng đêm Giáng Sinh
T́nh... tiếc
Giáng Sinh năm nào
Ván cờ ma quỷ
Văn thơ trữ t́nh
Mùa Thu qua thi ca  
Phụ nữ Việt Nam qua Ca Dao
Tháng năm ngoảnh lại
Thu xưa
Thu có sầu chăng sáng nay!
Cơn mưa chiều nay
Xuôi ḍng sông Hương
Nỗi niềm cố cựu
Thiện và Ác
Tóc May sợi vắn sợi dài
Tâm sự tuổi già
Xóm biển
Đi t́m tâm linh
Mấy đoạn đường đời
Tản mạn những giao thoại văn chương
Xin hăy giúp tôi
Con c̣n nợ Ba
Nhăm nhi bầu bạn
Một thời để nhớ
Người quét chợ
Lời tỏ t́nh
Bạn cũ năm mươi năm
Về lại cố hương  
Đường đi không đến
Xương trắng Trường Sơn
Về lại cố hương
Thoáng xưa
Cánh Hoa Ngọc Lan
Bước không qua số phận
Đọc thơ Trạch Gầm
Con Gà ṇi
Con Mèo hay con Thỏ?
Đời vẫn đáng sống
Tết làng tôi
Bầu Bí một giàn
Nghỉ hè ở Mallorca
Chiếc xích lô chở mùa xuân
Em đi để lại con đường
Một thời con gái
Bố tôi và người tù Nguyễn Chí Thiện
Trường ca trang sử Mẹ....
Nỗi đau bẽ bàng
Khi con đường không lối thoát
Những bài ca một thời cuộc đời
Tiếng chuông ái t́nh
Những con cào cào xanh
Nếu chỉ c̣n một ngày để sống
Bố tôi
Thiêng Liêng Như Những Linh Hồn
Giấc mộng dài
Duyên số trời định
49 Ngày với em
Bài ca của người du tử
Tấm vạc giường
Cố hương, 35 năm sau
Vượt biển một ḿnh
Hăy bế em ra khỏi cuộc đời anh
Những Tết năm xưa ở Phan Thiết
Làm thinh
Màu tím trong thơ
Lệ Mừng trên cánh Đồng Chiêm
Thằng cháu nội đích tôn
Chị Cả Bống
Làm rể Ninh Ḥa
Trời đất bao la
Nỗi buồn mùa Thu
Duyên Nam Bắc
Đà-lạt trời mưa
Xót xa
Tiểu thơ
Đôi mắt
Giọt mưa trên tóc
Quê tôi, ngày bé thơ lớn lên
Mùa thu cuộc t́nh
Cây sầu riêng sau vườn cũ
Tản mạn - Về những người bạn
Nh́n những mùa xuân đi...
Quê hương ruồng bỏ
Ba tôi và tôi
Vượt thoát
Made in VietNam
Giọt nước mắt
Ngày vô vị
Khóc lặng thinh
Đời c̣n vui v́ có chút ṭm tem
Đôi mắt Phượng
Ngựi bán liêm sỉ
Bài ca vọng cổ
T́nh già
Buổi chiều ở Thị trấn Sông-Pha
Saigon ngày ấy
Phàm phu tục tử
Thăm quê
Dấu tích ân t́nh
Địch thủ
Tâm
USS Midway - Ông bạn già năm xưa - English
Từ Mỹ, kể chuyện Mỹ Tho
Vài ṿng Thơ, Rượu và Tết
Mùa Xuân uống rượu
T́nh người
Hồi kư của một người Hà Nội
T́nh nghĩa, nghĩa t́nh
Đôi đũa
Gịng đời... và hồi âm gịng đời...
Không cho phép ḿnh quên
Thảm sát trên đảo Trường Sa
Em tôi
12 bến nước
Chào Mẹ
Cháo tóc
Những người không đất đứng
Vợ hiền
Theo ngọn mây Tần
T́nh ngây dại